Bản án số 17/2025/DS-PT ngày 06/03/2025 của TAND tỉnh Nam Định về tranh chấp hợp đồng thuê tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 17/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 17/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 17/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 17/2025/DS-PT ngày 06/03/2025 của TAND tỉnh Nam Định về tranh chấp hợp đồng thuê tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng thuê tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Nam Định |
Số hiệu: | 17/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 06/03/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | UBND xã Trực Th- ông Nguyễn Văn Th |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH NAM ĐỊNH
Bản án số: 17/2025/DS-PT
Ngày: 06-3-2025
V/v: Tranh chấp hợp đồng cho thuê ki ốt
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH NAM ĐỊNH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Vũ Hà Nam
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Đức Cảnh
Ông Chu Thái Hà
- Thư ký phiên toà: Bà Phạm Thị Trâm - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định tham gia phiên tòa: Ông
Trần Trọng Dần - Kiểm sát viên.
Ngày 06 tháng 3 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 71/2024/TLPT-DS ngày 25 tháng 11 năm 2024
“Tranh chấp hợp đồng cho thuê ki ốt”,
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 53/2024/DS-ST ngày 30 tháng 9 năm 2024 của
Tòa án nhân dân huyện Trực Ninh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 436/2024/QĐXXPT-DS
ngày 30 tháng 12 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: UBND xã Trực Th, huyện Tr, tỉnh N
Người đại diện theo pháp luật: Ông Hoàng Văn Độ - Chủ tịch UBND xã Trực
Th, huyện Tr, tỉnh N;
Người đại diện theo ủy quyền của ông Hoàng Văn Độ là ông Đoàn Văn Tiến
- Phó chủ tịch UBND xã Trực Th, huyện Tr, tỉnh N.
- Bị đơn: Ông Phạm Văn Th, sinh năm 1978;
+ Bà Nguyễn Thị U, sinh năm 1982
+ Ông Phạm Văn T, sinh năm 1965
+ Bà Nguyễn Thị Nh, sinh năm 1950
Cùng trú tại: Thôn Nam Th1 , xã Trực Th, huyện Tr, tinh N.

2
Người đại diện theo uỷ quyền của ông Th, bà U, ông T, bà Nho: Ông Đỗ
Minh H, sinh năm 1979; địa chỉ: Số 23 ngõ 402, phố Bạch Mai, phường Bạch Mai,
quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội, địa chỉ liên hệ Số 15 ngõ 402 phố Bạch Mai, phường
Bạch Mai, quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội (Theo văn bản ủy quyền ngày 10/6/2024).
Tại phiên tòa phúc thẩm: Có mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện ngày 16/05/2024, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án tại
phiên tòa sơ thẩm người đại diện theo pháp luật của nguyên đơn ông Ngô Văn Nhẫn
trình bày:
Chợ Tam Thôn tại xã Trực Thcó từ trước năm 1945 cho đến nay. Năm 2003
UBND xã Trực Thđã mở rộng chợ vào phía bên trong, để xây đình chợ và xây 4 ki
ốt phía ngoài mặt đường tỉnh lộ 490C trên nền đất chợ cũ do UBND xã quản lý để
cho các hộ dân thuê kinh doanh. Trước đây 04 ki ốt này đều là các gian lều chợ phía
trên và phía dưới sát với đường tỉnh lộ 490C do UBND xã Quản lý cho các hộ thuê
kinh doanh. Năm 2008, đường tỉnh lộ 490C (đường 55 cũ) được cải tạo, nâng cấp.
Năm 2011 Hội đồng bồi thường GPMB huyện Trực Ninh, UBND xã Trực Thlập hồ
sơ thu hồi đất để thực hiện dự án nâng cấp, cải tạo đường tỉnh lộ 490C đoạn qua xã
Trực Thuận. Hội đồng chỉ thu hồi một phần diện tích đất chợ để làm đường và rãnh
thoát nước, phần còn lại vẫn thuộc diện tích đất chợ Tam Thôn không bị thu hồi,
UBND xã tiếp tục quản lý và đã cải tạo 4 ki ốt để cho thuê.
Tháng 10/2021, UBND xã Trực Thđã tổ chức đấu giá để cho người dân thuê 04
ki ốt chợ Tam Thôn. Kết quả đấu giá các ông bà Thịnh, T, U, Nho đã trúng đấu giá
thuê ki ốt. Ngày 04/01/2022, UBND xã Trực Thký hợp đồng cho những người trúng
đấu giá thuê 04 ki ốt chợ Tam Thôn; ông Th thuê ki ốt số 1, bà U thuê ki ốt số 2,
ông T thuê ki ốt số 3, bà Nho thuê ki ốt số 4; giá cả thuê theo giá đấu giá mà những
người thuê đã trúng đấu giá; thời gian thuê là 05 năm (từ tháng 01/2022 đến tháng
01/2026). Ông Th, ông T, bà U, bà Nho đã thanh toán đầy đủ tiền thuê ki ốt cho
UBND xã Trực Thđến tháng 5/ 2023. Từ tháng 6/2023 các ông, bà trên không trả tiền
thuê ki ốt nữa và có đơn đề nghị các cơ quan có thẩm quyền xem xét việc UBND xã
Trực Thxây dựng bốn ky ốt trái phép trên đất hành lang đường giao thông tỉnh lộ 490C.
UBND xã Trực Thđã có văn bản báo UBND huyện Trực Ninh và UBND tỉnh Nam
Định, khẳng định 4 ki ốt chợ Tam Thôn do UBND xã xây dựng và quản lý tuân thủ
theo đúng quy định của Nhà nước và cũng giải thích cho 4 hộ thuê ki ốt được biết.Mặc
dù UBND xã đã nhiều lần đôn đốc các hộ về việc nộp tiền thuê ki ốt nhưng các hộ
trên không thực hiện. Trên cơ sở đó, ngày 15/01/2024 UBND xã Trực Thra Thông
báo về việc chấm dứt hợp đồng cho thuê ki ốt chợ Tam Thôn đối với bốn hộ thuê và
yêu cầu những người thuê bàn giao lại ki ốt cho UBND xã quản lý nhưng các ông bà

3
Thịnh, T, U, Nho không thực hiện. Vì vậy, Uỷ ban nhân dân xã Trực Thkhởi kiện,
đề nghị Toà án nhân dân huyện Trực Ninh giải quyết:
1. Tuyên bố chấm dứt Hợp đồng thuê ki ốt chợ Tam Thôn được ký kết ngày
04/01/2022 giữa UBND xã Trực Thvà các ông, bà Thịnh, T, U, Nho do các ông, bà
trên vi phạm nghĩa vụ trả tiền thuê đã ghi trong hợp đồng thuê ki ốt.
2. Đề nghị Toà án buộc các ông, bà Thịnh, T, U, Nho nộp lại cho UBND xã
Trực Thsố tiền thuê ki ốt còn thiếu kể từ tháng 6/2023 đến tháng 9/2024 là 223.680.000
đồng, cụ thể: Ông Phạm Văn Th là 89.760.000 đồng; Ông Phạm Văn T là 40.160.000
đồng; Bà Nguyễn Thị U là 85.600.000 đồng; Bà Nguyễn Thị Nh là 8.160.000 đồng.
3. Đề nghị Toà buộc các ông Th, ông T, bà U, bà Nho phải bàn giao trả lại
các ki ốt đã thuê cho UBND xã Trực Thquản lý theo quy định của pháp luật.
Tại Bản tự khai, Đơn đề nghị, Biên bản hoà giải, người đại diện theo uỷ quyền
của bị đơn là ông Đỗ Minh H có ý kiến như sau:
Do có nhu cầu thuê ki ốt để kinh doanh bán hàng tạp hoá, ngày 14/10/2021 các
ông bà Thịnh, T, U, Nho đã tham gia đấu giá thuê ki ốt chợ Tam Thôn và đã trúng
đấu giá. Ngày 04/01/2022 các ông bà Thịnh, T, U, Nho đã ký hợp đồng thuê ki ốt
chợ Tam Thôn với UBND xã Trực Thuận, cụ thể:
- Hợp đồng số 01: Bên A (UBND xã Trực Thuận) đồng ý cho thuê và bên B
(ông Phạm Văn Th) đồng ý thuê ki ốt số 01 tại chợ Tam Thôn. Vị trí một mặt giáp
với TL 490, 1 mặt giáp với hộ ông Miễn để sử dụng kinh doanh các mặt hàng được
Nhà nước cho phép. Giá thuê ki ốt là 5.610.000 đồng/tháng, được thanh toán theo
năm ngân sách, thu vào tháng 1 và tháng 6 hàng năm (trường hợp bên B muốn đóng
theo tháng thì UBND xã sẽ thu theo tháng). Tiền thuê ki ốt được thu từ tháng 3/2022
(tháng 01 và 02/2022 không thu vì UBND xã tạo điều kiện cho người thuê sửa chữa
ki ốt để ổn định kinh doanh). Thời gian thuê ki ốt tính từ ngày 01/01/2022 đến ngày
31/12/2026. Bên A cam kết bảo đảm quyền sử dụng mặt bằng cho bên B và tạo mọi
điều kiện để bên B sử dụng mặt bằng hiệu quả.
- Hợp đồng số 02: Bên đồng ý cho thuê và bên B (bà Nguyễn Thị U) đồng ý
thuê ki ốt số 03 tại chợ Tam Thôn. Vị trí một mặt giáp với TL 490, 1 mặt giáp với
Đình làng thôn Nam Thọ. Giá thuê ki ốt là 5.350.000 đồng/tháng.
- Hợp đồng số 03: Bên đồng ý cho thuê và bên B (ông Phạm Văn T) đồng ý
thuê ki ốt số 03 tại chợ Tam Thôn. Vị trí một mặt giáp đường vào chợ, 1 mặt giáp
với Đình làng thôn Nam Thọ. Giá thuê ki ốt 2.510.000 đồng/tháng.
- Hợp đồng số 04: Bên đồng ý cho thuê và bên B (bà Phạm Thị Nho) đồng ý
thuê ki ốt số 04 tại chợ Tam Thôn. Vị trí một mặt giáp đường vào chợ, 1 mặt giáp
với hộ ông Miễn. Giá thuê ki ốt là 510.000 đồng/tháng.
Các nội dung khác tại hợp đồng số 02, 03, 04 đều giống với nội dung tại Hợp
đồng số 01.
Quá trình sử dụng ki ốt, các ông bà Thịnh, Tuyết, U, Nho đã thanh toán tiền
thuê ki ốt cho UBND xã Trực Thtừ tháng 3/2022 đến tháng 5/2023 (tháng 01,

4
02/2022 do sửa chữa ki ốt nên không phải trả tiền thuê). Đến tháng 6/2023, các ông
bà Thịnh, T, U, Nh không trả tiền thuê ki ốt cho UBND xã Trực Thvới ly do
các ki ốt này đều nằm trong diện tích đất hành lang an toàn giao thông đường tỉnh
lộ 490C. Các ông bà Thịnh, T, U, Nho có đơn đề nghị các cơ quan có thẩm quyền
xem xét việc UBND xã Trực Thxây dựng ki ốt trái phép trên diện tích đất thuộc
hành lang đường giao thông, yêu cầu UBND xã Trực Ththáo rỡ các ki ốt đang cho
thuê trả lại hành lang đường giao thông.
Đến nay UBND xã Trực Thcó đơn khởi kiện chấm dứt hợp đồng thuê ki ốt với
các ông bà Thịnh, T, U, nho, quan điểm của ông Hiển là người đại diện theo ủy
quyền của những người thuê ki ốt không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của UBND
xã Trực Thvà đề nghị Toà án giải quyết các vấn đề sau:
- Tuyên bố hợp đồng thuê ki ốt giữa UBND xã Trực Thvới các ông bà Thịnh,
T, U, Nho bị vô hiệu do các ki ốt này đều xây dựng trên đất hành lang an toàn giao
thông đường tỉnh lộ 490C là vi phạm điều cấm của pháp luật.
- Buộc UBND xã Trực Thphải hoàn trả cho các ông bà Thịnh, U, T, Nho số
tiền đã thuê ki ốt từ tháng 3/2022 đến tháng 5/2023.
- Kiến nghị với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sử lý đối với các ki ốt được
xây dựng không đảm bảo an toàn hành lang giao thông đương bộ, để đảm bảo hành
lang giao thông đường bộ của T đường tỉnh lộ 490C.
- Triệu tập người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Sở Giao thông Vận tải tỉnh
Nam Định là cơ quan có trách nhiệm quản lý đường tỉnh lộ 490C theo quy định tại
khoản 3 Điều 5 Thông tư số 37/2018/TT-BGTVT.
Từ nội dung trên, Bản án dân sự sơ thẩm số 53/2024/DS-ST ngày 30 tháng 9
năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Trực Ninh đã quyết định: Căn cứ vào các Điều
116, 117, 118, 119, 134, 135, 137, 138, 141, 472, 473, 474, 476, 477, 481, 482 của
Bộ luật dân sự; Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Uỷ ban nhân dân xã Trực Th, huyện Tr,
tỉnh N đối với ông Phạm Văn Th, bà Nguyễn Thị U, ông Phạm Văn T và bà Nguyễn
Thị Nh về việc “tranh chấp hợp đồng cho thuê ki ốt”
2. Tuyên bố chấm dứt các Hợp đồng thuê ki ốt chợ Tam Thôn, được ký kết giữa
UBND xã Trực Thvới các ông bà: Phạm Văn Th, Nguyễn Thị U, Phạm Văn T và
Nguyễn Thị Nh, xã Trực Th, huyện Tr, tỉnh N, gồm:
2.1. Hợp đồng số: 01/2022 được ký kết ngày 04/01/2022 giữa UBND xã Trực
Thvà ông Phạm Văn Th (đối với kiot số 01).
2.2. Hợp đồng số: 02/2022 được ký kết ngày 04/01/2022 giữa UBND xã Trực
Thvà bà Nguyễn Thị U (đối với kiot số 02).
2.3. Hợp đồng số: 03/2022 được ký kết ngày 04/01/2022 giữa UBND xã Trực
Thvà ông Phạm Văn T (đối với kiot số 03).
5
2.4. Hợp đồng số: 04/2022 được ký kết ngày 04/01/2022 giữa UBND xã Trực
Thvà bà Nguyễn Thị Nh (đối với kiot số 04).
3. Buộc các ông bà Thịnh, T, U, Nho phải trả cho UBND xã Trực Th, huyện
Tr, tỉnh N số tiền thuê ki ốt chưa trả cho UBND xã Trực Thkể từ tháng 6/2023 đến
tháng 9/2024, cụ thể:
Ông Phạm Văn Th phải trả số tiền là 89.760.000 đồng (tám mươi chín triệu, bảy
trăm sáu mươi nghìn đồng).
Ông Phạm Văn T phải trả số tiền là 40.160.000 đồng (bốn mươi triệu, một trăm
sáu mươi nghìn đồng).
Bà Nguyễn Thị U phải trả số tiền là 85.600.000 đồng (tám mươi lăm triệu, sáu
trăm nghìn đồng).
Bà Nguyễn Thị Nh phải trả số tiền là 8.160.000 đồng (tám triệu, một trăm sáu
mươi nghìn đồng).
4. Buộc ông Phạm Văn Th phải trả lại ki ốt số 01; Bà Nguyễn Thị U phải trả lại
ki ốt số 02; Ông Phạm Văn T phải trả lại ki ốt số 03; Bà Nguyễn Thị Nh phải trả lại
ki ốt số 04 tại chợ Tam Thôn, xã Trực Th, huyện Tr, tỉnh N theo như hiện trạng hiện
nay cho UBND xã Trực Th, huyện Tr, tỉnh N quản lý theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, quyền kháng cáo và
biện pháp đảm bảo thi hành án của các đương sự.
Ngày 07 tháng 10 năm 2024 ông Phạm Văn Th, bà Nguyễn Thị U, ông Phạm
Văn T, bà Nguyễn Thị Nh là bị đơn trong vụ án có đơn kháng cáo toàn bộ bản án
dân sự sơ thẩm số 53/2024/DS-ST ngày 30 tháng 9 năm 2024 của Toà án nhân dân
huyện Trực Ninh với nội dung: Toà án nhân dân huyện Trực Ninh giải quyết vụ án
không khách quan, áp dụng pháp luật không chính xác, xâm phạm quyền và lợi ích
của ông, bà. Đề nghị Toà án nhân dân tỉnh Nam Định xét xử lại vụ án theo trình tự
phúc thẩm.
Tại phiên toà phúc thẩm: Ông Đỗ Minh H là người đại diện theo ủy quyền của
ông Phạm Văn Th, bà Nguyễn Thị U, ông Phạm Văn T, bà Nguyễn Thị Nh vẫn giữ
nguyên ý kiến đã trình bày tại Toà án cấp sơ thẩm, và giữ nguyên nội dung đơn kháng
cáo,không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của UBND xã Trực Tuấn đề nghị cấp phúc
thẩm giải quyết hủy toàn bộ các hợp đồng thuê ki ốt với các ông bà Thịnh, T, Nho, U
vì các hợp đồng này vô hiệu do vi phạm điều cấm và giải quyết hậu quả hợp đồng vô
hiệu; trả lại tiền thuê đã nhận của bốn hộ và rỡ các 04 ki ốt đã xây trái phép. Đề nghị
HĐXX kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, xử lý đối với các ki ốt xây
dựng không đảm bảo hành lang an toàn giao thông đường bộ.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định phát biểu quan điểm: Về tố
tụng: Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử và thư ký phiên tòa đã thực hiện
đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án cũng

6
như tại phiên tòa phúc thẩm, những người tham gia tố tụng chấp hành đúng các quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự, quyền lợi của các đương sự được bảo đảm.
Về nội dung kháng cáo: Căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án cho thấy; việc
UBND xã Trực Thký các hợp đồng cho thuê ki ốt với các ông, bà Phạm Văn Th,
Nguyễn Thị U, Phạm Văn T, Nguyễn Thị Nh là hoàn toàn tự nguyện, không trái
pháp luật và đạo đức xã hội. Vì vậy, kháng cáo của ông Phạm Văn Th, bà Nguyễn
Thị U, ông Phạm Văn T, bà Nguyễn Thị Nh không có căn cứ chấp nhận. Đề nghị
Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự; bác kháng cáo
của các đương sự giữ nguyên bản án sơ thẩm. Về án phí đề nghị giải quyết theo quy
định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà
và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của ông Phạm Văn Th, bà Nguyễn Thị U, ông
Phạm Văn T, bà Nguyễn Thị Nh được làm trong thời hạn luật định, do vậy được
Hội đồng xét xử (HĐXX) giải quyết theo quy định của pháp luật.
[2] Xét kháng cáo của ông Phạm Văn Th, bà Nguyễn Thị U, ông Phạm Văn T,
bà Nguyễn Thị Nh. HĐXX xét thấy: Chợ Tam Thôn xã Trực Th, huyện Tr, tỉnh N
có từ trước năm 1945 cho đến nay. Về diện tích đất chợ Tam Thôn thể hiện trên bản
đồ địa chính xã Trực Thqua các thời kỳ cụ thể như sau:
Tại bản đồ địa chính của UBND xã Trực Thlập năm 1987 (bản đồ 299) thì diện
tích đất chợ thể hiện tại thửa 415 tờ bản đồ số 2-1 diện tích 270 m
2
.
Tại bản đồ địa chính của UBND xã Trực Thlập năm 1992 chợ Tam Thôn thể
hiện tại tờ bản đồ số 7 thửa số 12 diện tích 350 m
2
và thửa 15 diện tích 680 m
2
.
Tại bản đồ địa chính lập năm 1992 chỉnh lý năm 2012 chợ Tam Thôn thuộc tờ
7 thửa 15 diện tích 998 m
2
.
Về nguồn gốc các ki ốt hiện nay: Được xây dựng từ khoảng năm 1983; đến
năm 2009 thực hiện dự án của tỉnh Nam Định về việc mở rộng, nâng cấp đường tỉnh
lộ 490C. Trong quá trình thực hiện dự án Nhà nước có thu hồi một phần diện tích
đất chợ thể hiện tại tờ bản đồ số 7 thửa 15 diện tích thu hồi 66,3 m
2
. Sau khi thu hồi
2 ki ốt số 1 và số 2 phía ngoài bị ảnh hưởng nên giao cho các hộ đang thuê tự tu sửa.
Đến cuối năm 2021 trước khi hết hạn hợp đồng cho thuê ki ốt. UBND xã Trực Thđã
làm thủ tục thanh lý hợp đồng thuê ki ốt đối với các cá nhân thuê ki ốt trước đó và
làm thủ tục đấu giá thuê ki ốt trong thời gian 2021-2026. Kết quả có hộ ông Phạm
Văn Th, bà Nguyễn Thị U, ông Phạm Văn T, bà Nguyễn Thị Nh trúng đấu giá.
Nhưng thực tế những người nói trên đều là thành viên và anh em trong gia đình bà
Nho. Vì bà Nho là mẹ của ông Th, bà U là vợ của ông Th (con dâu của bà Nho),
ông T là cháu của bà Nho.
7
Qua xem xét thực tế thấy hiện nay 4 ki ốt nêu trên nằm phía trước nhà của bà
Nho và ông Th về phía mặt đường tỉnh lộ 490 C. Qua đo đạc, kiểm tra cho thấy ki
ốt số 1 được xây dựng tính từ mép ngoài của rãnh thoát nước đường tỉnh lộ 490C
đến chân tường ki ốt là 1,5 m. Ki ốt số 2 được xây dựng tính từ mép ngoài của rãnh
thoát nước đường tỉnh lộ 490 C đến chân tường ki ốt là 1,2 m.
Trong quá trình vận hành ki ốt các cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực giao
thông không có ý kiến, kiến nghị gì về việc xây dựng 4 ki ốt nói trên trên ở chợ Tam
Thôn vi phạm hành lang an toàn giao thông.
Qua xem xét thực trạng sử dụng đất của các hộ dân khu vực liền kề các ki ốt
nói trên; về phía Bắc là đền thờ Tam thôn (Di tích lịch sử cấp tỉnh), phía Nam là các
hộ dân sử dụng xây dựng nhà kiên cố sát mép rãnh nước, các hộ gia đình này đã
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ năm 1995. Mặt khác thực trạng sử
dụng đất của các hộ gia đình, cá nhân dọc hai bên đường tỉnh lộ 490C đoạn từ cầu
Đò Quan thành phố Nam Định đến thị trấn Liễu Đề, huyện Nghĩa Hưng dài khoảng
hơn 20 km, trong đó có đoạn đường chạy qua địa bàn xã Trực Thuận, huyện Trực
Ninh; thì thấy hầu hết các công trình nhà ở của nhân dân đều xây dựng sát mép
đường; đây là thực trạng chung. Điều này chỉ có thể giải thích là do quá độ để lại.
Vì đường quốc lộ 55 trước đây (Nay là tỉnh lộ 490C) được hình thành từ rất lâu, thời
điểm xây dựng đường quốc lộ 55 cũ thì các quy định của pháp luật về hành lang an
toàn giao thông đường bộ, như Luật Giao thông đường Bộ chưa được ban hành;
trong khi đó nhu cầu sử dụng đất làm nhà ở của nhân dân ngày một tăng cao, đặc
biệt là các vị trí đất giáp mặt đường giao thông. Chính vì vậy, vào giai đoạn năm
2011 khi thực hiện dự án mở rộng, nâng cấp đường quốc lộ 55 trước đây (Nay là
tỉnh lộ 490C) của tỉnh Nam Định đạt tiêu chuẩn đường cấp III đồng bằng; theo quy
định tại Điều 15 Nghị định số 11/2010/NĐ-CP ngày 24 tháng 02 năm 2010 của
Chính phủ, thì giới hạn hành lang an toàn đường bộ đối với đường cấp III này là
13m, tính từ đất của đường ra hai bên.
Trong quá trình thực hiện dự án này, ngoài diện tích đất Nhà nước thu hồi, bồi
thường cho người sử dụng đất để mở rộng đường. Đối với diện tích đất bảo vệ hành
lang an toàn giao thông, do thực trạng sử dụng đất của các hộ gia đình, cá nhân như
đã nói trên, nhà nước không tiến hành thu hồi đất, bồi thường hỗ trợ giải phóng mặt,
cũng như cắm mốc chỉ giới an toàn giao thông.
[3] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử thấy không có căn cứ để chấp
nhận đơn kháng cáo của ông Phạm Văn Th, bà Nguyễn Thị U, ông Phạm Văn T, bà
Nguyễn Thị Nh. Cần giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
[4] Án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo ông Phạm Văn Th, bà Nguyễn Thị U,
ông Phạm Văn T, bà Nguyễn Thị Nh không được chấp nhận nên ông Phạm Văn Th,
bà Nguyễn Thị U, ông Phạm Văn T, bà Nguyễn Thị Nh phải nộp án phí dân sự phúc
thẩm. Đối với số tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm mà các đương sự đã nộp tại Chi
8
cục thi hành án Dân sự huyện Trực Ninh sẽ được đối trừ.
[5] Những quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015:
QUYẾT ĐỊNH:
Giữ nguyên bản án sơ thẩm
Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 37; điểm a khoản 1 Điều 39;
Điều 148, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ vào các Điều 472, 473, 474,
476, 477, 481, 482 của Bộ luật dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Uỷ ban nhân dân xã Trực Th, huyện Tr,
tỉnh N đối với ông Phạm Văn Th, bà Nguyễn Thị U, ông Phạm Văn T và bà Nguyễn
Thị Nh về việc “tranh chấp hợp đồng cho thuê ki ốt”
2. Tuyên bố chấm dứt các Hợp đồng thuê ki ốt chợ Tam Thôn, được ký kết giữa
UBND xã Trực Thvới các ông, bà: Phạm Văn Th, Nguyễn Thị U, Phạm Văn T và
Nguyễn Thị Nh, xã Trực Th, huyện Tr, tỉnh N, gồm:
2.1. Hợp đồng số: 01/2022 được ký kết ngày 04/01/2022 giữa UBND xã Trực
Thvà ông Phạm Văn Th (đối với kiot số 01).
2.2. Hợp đồng số: 02/2022 được ký kết ngày 04/01/2022 giữa UBND xã Trực
Thvà bà Nguyễn Thị U (đối với kiot số 02).
2.3. Hợp đồng số: 03/2022 được ký kết ngày 04/01/2022 giữa UBND xã Trực
Thvà ông Phạm Văn T (đối với kiot số 03).
2.4. Hợp đồng số: 04/2022 được ký kết ngày 04/01/2022 giữa UBND xã Trực
Thvà bà Nguyễn Thị Nh (đối với kiot số 04).
3. Buộc các ông bà Thịnh, T, U, Nho phải trả cho UBND xã Trực Th, huyện
Tr, tỉnh N số tiền thuê ki ốt chưa trả cho UBND xã Trực Thkể từ tháng 6/2023 đến
tháng 9/2024, cụ thể:
Ông Phạm Văn Th phải trả số tiền là 89.760.000 đồng (tám mươi chín triệu, bảy
trăm sáu mươi nghìn đồng).
Ông Phạm Văn T phải trả số tiền là 40.160.000 đồng (bốn mươi triệu, một trăm
sáu mươi nghìn đồng).
Bà Nguyễn Thị U phải trả số tiền là 85.600.000 đồng (tám mươi lăm triệu, sáu
trăm nghìn đồng).
Bà Nguyễn Thị Nh phải trả số tiền là 8.160.000 đồng (tám triệu, một trăm sáu
mươi nghìn đồng).
9
4. Buộc ông Phạm Văn Th phải trả lại ki ốt số 01; Bà Nguyễn Thị U phải trả lại
ki ốt số 02; Ông Phạm Văn T phải trả lại ki ốt số 03; Bà Nguyễn Thị Nh phải trả lại
ki ốt số 04 tại chợ Tam Thôn, xã Trực Th, huyện Tr, tỉnh N theo như hiện trạng hiện
nay cho UBND xã Trực Th, huyện Tr, tỉnh N quản lý theo quy định của pháp luật.
5. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Phạm Văn Th, bà Nguyễn Thị U, ông Phạm
Văn T, bà Nguyễn Thị Nh mỗi người phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng). Đối
trừ với số tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm mà ông Th, bà U, ông T, bà Nho
đã nộp tại các Biên lại số 0004101; 0004102; 0004103; 0004104 cùng ngày 10 tháng
10 năm 2024 tại Chi cục thi hành án Dân sự huyện Trực Ninh. Ông Th, bà U, ông
T, bà Nho đã nộp đủ tiền án phí dân sự phúc thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân
sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận
thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi
hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành
án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSND tỉnh Nam Định;
- TAND huyện Trực Ninh;
- Chi cục THADS huyện Trực Ninh;
- Hồ sơ vụ án;
- Lưu VT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHC THM
THM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Vũ Hà Nam

10
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 16/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Bản án số 69/2025/DS-PT ngày 10/03/2025 của TAND tỉnh Kiên Giang về tranh chấp hợp đồng thuê tài sản
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 17/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Bản án số 294/2024/DS-PT ngày 16/12/2024 của TAND tỉnh Vĩnh Long về tranh chấp hợp đồng thuê tài sản
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Bản án số 195/2024/DS-PT ngày 11/12/2024 của TAND tỉnh Bình Định về tranh chấp hợp đồng thuê tài sản
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm