Bản án số 03/2025/DS-ST ngày 20/02/2025 của TAND huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh về tranh chấp hợp đồng thuê tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 03/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 03/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 03/2025/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 03/2025/DS-ST ngày 20/02/2025 của TAND huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh về tranh chấp hợp đồng thuê tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng thuê tài sản |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Cầu Kè (TAND tỉnh Trà Vinh) |
Số hiệu: | 03/2025/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 20/02/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | cn |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẦU KÈ - TỈNH TRÀ VINH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Dương Chí Điền.
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Ngô Thanh Xuân.
Bà Trần Thị Thúy Phượng.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Kim Thi - Thư ký Tòa án nhân dân huyện
Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh tham gia
phiên tòa: Ông Thạch Săm Át - Kiểm sát viên.
Ngày 20 tháng 02 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cầu Kè, tỉnh Trà
Vinh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 253/2024/TLST-DS ngày
02/10/2024 về tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất theo Quyết định đưa vụ
án ra xét xử số 03/2025/QĐXXST-DS, ngày 03 tháng 02 năm 2025 giữa các đương
sự:
- Nguyên đơn:
1. Ông Huỳnh Văn M, sinh năm 1959 (có mặt).
2. Bà Đinh Thị T, sinh năm 1960 (có mặt).
Cùng địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Trà Vinh.
- Bị đơn:
1. Ông Trương Văn T1, sinh năm 1963 (có mặt).
2. Bà Nguyễn Thị Kiều O, sinh năm 1964 (có mặt).
Cùng địa chỉ: Số 152/88 ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo đơn khởi kiện đề ngày 25 tháng 3 năm 2024 (BL 01) và trong quá trình
xét xử ông Huỳnh Văn M và bà Đinh Thị T là nguyên đơn cùng trình bày:
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN CẦU KÈ
TỈNH TRÀ VINH
Bản án số: 03/2025/DS-ST
Ngày: 20-02-2025
V/v tranh chấp hợp đồng thuê quyền
sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
Vào ngày 02/4/2022 (âm lịch) nhằm ngày 02/5/2022 (dương lịch) ông bà có
cho ông Trương Văn T1 và Nguyễn Thị Kiều O thuê quyền sử dụng đất 10 công
(thuộc 02 thửa đất số 172, tờ bản đồ số 34, diện tích 7.709m
2
thực đo là 7.709m
2
ký hiệu B và C và thửa đất số 154, tờ bản đồ số 34, diện tích 4.992,7m
2
thực đo là
4.992,7m
2
ký hiệu A) cùng tọa lạc tại ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Trà Vinh. Đất do
bà Tảo đại diện hộ gia đình đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào
ngày 14/7/2015, loại đất chuyên trồng lúa nước. Mục đích thuê là để cho ông T1 và
bà O trồng cam. Lúc thuê hiện trạng là đất trồng lúa nên ông T1 và bà O phải lên
líp mới trồng cam được, hiện nay ông T1 và bà O đang canh tác hai thửa đất thuê
này.
Khi thuê có viết giấy tay là Tờ hợp đồng thuê đất trồng cam do phía ông T1
và bà O viết và các bên ký tên. Thời hạn thuê là 05 năm tính từ ngày 02/4/2022
(âm lịch). Số tiền thuê là 300.000.000 đồng sẽ được trả hai lần. Sau 05 năm gia hạn
lại thêm 02 năm với giá là 6.000.000 đồng/01 công nếu như cây còn tốt gia hạn
tiếp là 8.000.000 đồng/01 công thời gian 02 năm hoặc 03 năm. Trong Tờ hợp đồng
thuê đất trồng cam không có thỏa thuận nội dung là nếu bên nào vi phạm hợp đồng
(không giao đất, không trả tiền thuê đất…) thì bên còn lại có quyền khởi kiện yêu
cầu hủy hợp đồng trước thời hạn.
Ông T1 và bà O đã trả cho ông bà được 100.000.000 đồng vào ngày ký hợp
đồng nên còn thiếu lại số tiền là 230.000.000 đồng thỏa thuận đến ngày 02/4/2023
(âm lịch) sẽ thanh toán đủ nhưng đến nay vẫn chưa trả. Theo nội dung hợp đồng
thuê thì giá thuê là 300.000.000 đồng, ông T1 và bà O đã trả được 100.000.000
đồng lẽ ra ông T1 và bà O chỉ còn thiếu ông bà 200.000.000 đồng. Tuy nhiên do
các bên có thỏa thuận thêm là sau khi kết thúc hợp đồng thì ông T1 và bà O phải có
nghĩa vụ ban trả lại mặt bằng của đất thuê nhưng ông T1 và bà O thỏa thuận là sẽ
trả thêm cho ông bà số tiền 30.000.000 đồng để ông bà tự ban đất nên ông T1 và bà
O còn thiếu lại ông bà tổng cộng là 230.000.000 đồng. Do ông T1 và bà O trả tiền
không đúng thỏa thuận theo hợp đồng thuê nên ông bà khởi kiện yêu cầu hủy hợp
đồng.
Nay ông bà khởi kiện yêu cầu ông T1 và bà O như sau: Hủy hợp đồng thuê
đất trồng cam lập vào ngày 02/4/2022 âm lịch nhằm ngày 02/5/2022 dương lịch
giữa ông bà với ông T1 và bà O. Buộc ông T1 và bà O phải di dời toàn bộ cây cam
trên đất và ban đất trả lại mặt bằng của 02 thửa đất số 172, tờ bản đồ số 34, diện
tích 7.709m
2
và thửa đất số 154, tờ bản đồ số 34, diện tích 4.992,7m
2
cùng tọa lạc
tại ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Trà Vinh cho ông bà. Ông bà không hỗ trợ chi phí cho
việc di dời cây và ban đất. Ông bà không yêu cầu ông T1 và bà O phải trả số tiền
thuê quyền sử dụng đất còn thiếu là 230.000.000 đồng.
Nếu giả sử ông T1 và bà O trả một lần cho ông bà số tiền còn thiếu là
230.000.000 đồng thì ngoài số tiền gốc ông T1 và bà O phải trả là 230.000.000
đồng thì ông bà yêu cầu tính thêm lãi theo quy định pháp luật từ ngày 02/4/2023
(âm lịch) đến nay trên số tiền gốc còn thiếu là 230.000.000 đồng thì ông bà sẽ yêu
cầu được tiếp tục thực hiện hợp đồng cho đến khi kết thúc hợp đồng.
- Ông Trương Văn T1 và bà Nguyễn Thị Kiều O là bị đơn trình bày:
3
Ông bà thừa nhận vào ngày 02/4/2022 (âm lịch) nhằm ngày 02/5/2022
(dương lịch) ông bà có thuê quyền sử dụng đất của ông M và bà T để trồng cam
thuộc 02 thửa đất số 172, tờ bản đồ số 34, diện tích 7.709m
2
thực đo là 7.709m
2
ký
hiệu B và C và thửa đất số 154, tờ bản đồ số 34, diện tích 4.992,7m
2
thực đo là
4.992,7m
2
ký hiệu A cùng tọa lạc tại ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Trà Vinh. Lúc thuê
có viết giấy tay là Tờ hợp đồng thuê đất trồng cam. Ông bà đã trả cho ông M và bà
T số tiền là 100.000.000 đồng nên còn thiếu lại 230.000.000 đồng. Lúc thuê hiện
trạng đất là trồng lúa nên ông bà phải thuê người lên líp mới trồng cam được, hiện
nay ông bà đang canh tác hai thửa đất thuê này. Hiện nay ông bà chuẩn bị làm
bông thôi chứ cam chưa thu hoạch trái lần nào hết. Trong Tờ hợp đồng thuê đất
trồng cam không có thỏa thuận nội dung là nếu bên nào vi phạm hợp đồng (không
giao đất, không trả tiền thuê đất…) thì bên còn lại có quyền khởi kiện yêu cầu hủy
hợp đồng trước thời hạn.
Do ông bà trả tiền thuê quyền sử dụng đất không đúng thỏa thuận nên ông M
và bà T mới khởi kiện ông bà. Ông bà không đồng ý hủy hợp đồng thuê quyền sử
dụng đất mà yêu cầu được tiếp tục thực hiện hợp đồng do chưa hết thời hạn thuê.
Ông bà đồng ý sẽ tiếp tục trả cho ông M và bà T số tiền thuê đất còn thiếu là
230.000.000 đồng và tiền lãi theo yêu cầu của nguyên đơn nhưng xin trả từ từ do
hiện tại ông bà đang khó khăn về kinh tế. Nếu ông M và bà T không đồng ý cho
ông bà trả dần thì ông bà đồng ý hủy hợp đồng trả lại đất và đồng thời xin ông M
và bà T hỗ trợ tiền cây giống, lên líp và tiền phân thuốc… với tổng số tiền là
300.000.000 đồng.
Tại phiên tòa các đương sự không thỏa thuận được việc giải quyết vụ án,
không ai cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ gì mới, không yêu cầu Tòa án triệu tập
thêm ai và cũng không yêu cầu khảo sát định giá lại. Nếu trường hợp Tòa án hủy
hợp đồng thì ông M và bà T không đồng ý hỗ trợ tiền cây giống, lên líp và tiền
phân thuốc… với tổng số tiền là 300.000.000 đồng như phía bị đơn yêu cầu.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh phát biểu
quan điểm:
Về việc tuân thủ theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của
Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đúng theo quy định của pháp luật.
Việc chấp hành của người tham gia tố tụng: Đối với các đương sự từ khi thụ lý vụ
án cũng như tại phiên tòa đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình.
Về việc giải quyết vụ án:
Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và thông qua
việc kiểm sát trực tiếp tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử bác yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn bao gồm: Hủy hợp đồng thuê đất trồng cam lập vào ngày
02/4/2022 âm lịch nhằm ngày 02/5/2022 dương lịch giữa ông Mậu, bà Tảo với ông
T1, bà O; Buộc ông T1 và bà O phải di dời toàn bộ cây cam trên đất và ban đất trả
lại mặt bằng của 02 thửa đất số 172, tờ bản đồ số 34, diện tích 7.709m
2
và thửa đất
số 154, tờ bản đồ số 34, diện tích 4.992,7m
2
cùng tọa lạc tại ấp T, xã T, huyện C,
tỉnh Trà Vinh cho ông bà. Ông bà không hỗ trợ chi phí cho việc di dời cây và ban
đất; Ông bà không yêu cầu ông T1 và bà O phải trả số tiền thuê quyền sử dụng đất

4
còn thiếu là 230.000.000 đồng. Ghi nhận sự tự nguyện đúng pháp luật của ông T1
và bà O là ông T1 và bà O có nghĩa vụ trả cho ông M và bà T số tiền thuê đất còn
thiếu là 230.000.000 đồng và tiền lãi tính từ ngày 02/4/2023 âm lịch nhằm ngày
20/5/2023 dương lịch đến ngày xét xử sơ thẩm theo quy định pháp luật. Miễn án
phí cho các đương sự do các đương sự là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí.
Buộc ông T1 và bà O phải chịu chi phí thẩm định giá theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra
tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận
định:
[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án:
Căn cứ vào đơn khởi kiện của nguyên đơn, lời trình bày của các đương sự và
tất cả các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án xác định quan hệ pháp luật của vụ
án này là “Tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất” theo quy định tại khoản
3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự.
Bị đơn trong vụ án là ông Trương Văn T1 và bà Nguyễn Thị Kiều O có hộ
khẩu thường trú tại số 152/88 ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre. Tuy nhiên, các
bên tranh chấp với nhau về hợp đồng thuê quyền sử dụng đất đối với thửa đất số
172 và 154 tọa lạc tại ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Trà Vinh nên vụ án thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh theo quy định
tại khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự (Tòa án nơi có bất
động sản).
[2] Về nội dung vụ án:
Các đương sự thống nhất là vào ngày 02/4/2022 (âm lịch) nhằm ngày
02/5/2022 (dương lịch) các đương sự có tiến hành giao dịch dân sự là thuê quyền
sử dụng đất thuộc 02 thửa đất số 172 và 154 như đã khảo sát. Lúc thuê có viết giấy
tay là Tờ hợp đồng thuê đất trồng cam (sau đây viết tắt là hợp đồng) thời hạn thuê
là 05 năm tính từ ngày 02/4/2022 (âm lịch), giá thuê là 300.000.000 đồng. Ông T1
và bà O đã trả cho ông M và bà T số tiền là 100.000.000 đồng nên còn thiếu lại
230.000.000 đồng (bao gồm thêm tiền ban đất sau khi kết thúc hợp đồng). Trong
hợp đồng không có thỏa thuận nội dung là nếu bên nào vi phạm hợp đồng (không
giao đất, không trả tiền thuê đất…) thì bên còn lại có quyền khởi kiện yêu cầu hủy
hợp đồng trước thời hạn. Vì vậy đây là tình tiết, sự kiện không phải chứng minh
theo Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự.
Tại thời điểm các đương sự tiến hành việc cho thuê đất vào ngày 02/4/2022
(âm lịch) nhằm ngày 02/5/2022 (dương lịch) thì Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực
pháp luật. Tại Điều 166 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Quyền chuyển đổi,
chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền
sử dụng đất”. Theo quy định này thì pháp luật cho phép người sử dụng đất có
quyền cho người khác thuê đất nên việc nguyên đơn cho bị đơn thuê quyền sử
dụng hai thửa đất 172 và 154 là hợp pháp.

5
Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là yêu cầu hủy hợp đồng thuê, buộc
bị đơn di dời cây trên đất và ban trả lại mặt bằng đất, không buộc bị đơn phải trả
tiếp số tiền thuê đất còn thiếu là 230.000.000 đồng. Bị đơn không đồng ý hủy hợp
đồng mà yêu cầu được tiếp tục thực hiện hợp đồng. Vấn đề này thấy rằng, trong
hợp đồng thuê đất trồng cam các đương sự đều thống nhất thời hạn thuê là 05 năm
tính từ ngày 02/5/2022 (dương lịch) có thỏa thuận việc gia hạn, như vậy đến ngày
02/5/2027 mới hết thời hạn hợp đồng. Hơn nữa, trong hợp đồng không có thỏa
thuận nếu ông T1 và bà O không trả đủ tiền thuê thì ông M và bà T có quyền khởi
kiện yêu cầu hủy hợp đồng trước thời hạn. Bị đơn thừa nhận do hoàn cảnh khách
quan nên không có đủ tiền để trả cho nguyên đơn số tiền thuê đất còn lại là
230.000.000 đồng. Hội đồng xét xử thấy rằng, sau khi thuê đất bị đơn đã có đầu tư
trên đất là lên líp sau đó trồng cam, hiện nay cam đang phát triển, nếu hủy hợp
đồng và buộc bị đơn di dời tài sản này đi nơi khác để ban đất trả lại cho nguyên
đơn là không thể thực hiện được. Đồng thời nguyên đơn không đồng ý hỗ trợ cho
bị đơn một khoản chi phí nào nếu hủy hợp đồng là gây ảnh hưởng lớn đến quyền
lợi của bị đơn. Vì vậy nguyên đơn yêu cầu hủy hợp đồng là chưa có căn cứ để chấp
nhận.
Tuy nhiên, quá trình tố tụng và tại phiên tòa hôm nay bị đơn tự nguyện đồng
ý trả cho nguyên đơn số tiền thuê đất còn thiếu là 230.000.000 đồng và tiền lãi tính
từ ngày 02/4/2023 âm lịch nhằm ngày 20/5/2023 dương lịch đến ngày xét xử sơ
thẩm là 80.178.000 đồng (21 tháng x 1,66%/tháng x 230.000.000 đồng). Tổng
cộng gốc và lãi là 310.178.000 đồng. Xét thấy đây là sự tự nguyện của các đương
sự và nhằm giải quyết triệt để vụ án nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện
thỏa thuận này.
[3] Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Tuy không
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nhưng bị đơn có nghĩa vụ trả tiền
thuê quyền sử dụng đất cho nguyên đơn nên cần buộc bị đơn phải chịu toàn bộ chi
phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản theo quy định để hoàn trả lại cho
nguyên đơn.
[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ vào Điều 12 và 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Do
các đương sự đều là người cao tuổi nên được miễn án phí theo quy định.
[5] Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.
[6] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Tòa án
và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39; Các điều
92, 235, 271, 273, 280 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015.
Căn cứ vào các điều 468, 472, 473, 474, 476, 481, 500, 501, 502 Bộ Luật
dân sự năm 2015.
6
Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là ông Huỳnh Văn M
và bà Đinh Thị T về việc yêu cầu: Hủy hợp đồng thuê đất trồng cam lập vào ngày
02/4/2022 âm lịch nhằm ngày 02/5/2022 dương lịch giữa ông Huỳnh Văn M và bà
Đinh Thị T với ông Trương Văn T1 và bà Nguyễn Thị Kiều O. Buộc ông Trương
Văn T1 và bà Nguyễn Thị Kiều O phải di dời toàn bộ cây cam trên đất và ban đất
trả lại mặt bằng của 02 thửa đất số 172, tờ bản đồ số 34, diện tích 7.709m
2
và thửa
đất số 154, tờ bản đồ số 34, diện tích 4.992,7m
2
cùng tọa lạc tại ấp T, xã T, huyện
C, tỉnh Trà Vinh cho ông Huỳnh Văn M và bà Đinh Thị T. Ông Huỳnh Văn M và
bà Đinh Thị T không hỗ trợ chi phí cho việc di dời cây và ban đất. Ông Huỳnh Văn
M và bà Đinh Thị T không yêu cầu ông Trương Văn T1 và bà Nguyễn Thị Kiều O
phải trả số tiền thuê quyền sử dụng đất còn thiếu là 230.000.000 đồng.
Ghi nhận sự tự nguyện đúng pháp luật của ông Trương Văn T1 và bà
Nguyễn Thị Kiều O là ông T1 và bà O có nghĩa vụ trả cho ông Huỳnh Văn M và
bà Đinh Thị T số tiền thuê quyền sử dụng đất còn thiếu là 230.000.000 đồng và
tiền lãi là 80.178.000 đồng. Tổng cộng gốc và lãi là 310.178.000 đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, cho đến
khi thi hành án xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu thêm cho bên
được thi hành án khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất
quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian chưa thi
hành án.
Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Tổng chi phí xem
xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản là 6.306.204 đồng. Buộc ông Trương Văn
T1 và bà Nguyễn Thị Kiều O phải chịu toàn bộ số tiền 6.306.204 đồng để hoàn trả
lại cho ông Huỳnh Văn M và bà Đinh Thị T.
Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Huỳnh Văn M, bà Đinh Thị T, ông Trương
Văn T1 và bà Nguyễn Thị Kiều O được miễn toàn bộ án phí.
Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15
ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt thì thời hạn kháng cáo được tính từ
ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án; quyền, nghĩa vụ của người được thi hành án, người phải thi
hành án; tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các
điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu yêu cầu thi hành án
được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Trà Vinh;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
7
- Viện kiểm sát nhân dân huyện Cầu Kè;
- Chi cục THADS huyện Cầu Kè;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Dương Chí Điền
8
HỘI THẨM NHÂN DÂN
Ngô Thanh Xuân Trần Thị Thúy Phượng
CHỦ TỌA
Dương Chí Điền
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 17/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Bản án số 195/2024/DS-PT ngày 11/12/2024 của TAND tỉnh Bình Định về tranh chấp hợp đồng thuê tài sản
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 29/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 24/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 19/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 13/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 13/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 12/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 12/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Bản án số 228/2024/DS-PT ngày 12/09/2024 của TAND tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp hợp đồng thuê tài sản
Ban hành: 12/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm