Bản án số 12/2025/DS-PT ngày 16/04/2025 của TAND tỉnh Đồng Nai về tranh chấp hợp đồng thuê tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 12/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 12/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 12/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 12/2025/DS-PT ngày 16/04/2025 của TAND tỉnh Đồng Nai về tranh chấp hợp đồng thuê tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng thuê tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đồng Nai |
Số hiệu: | 12/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 16/04/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | bà NGuyễn Thị Ngọc C tranh chấp hợp đồng thuê TS với ông Nguyễn văn A, ông Dương Đăng T |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH ĐỒNG NAI Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 12/2025/KDTM-PT
Ngày: 16/4/2025
V/v: “Tranh chấp HĐ thuê cơ sở
kinh doanh; Y/c tuyên bố hợp đồng
vô hiệu; Yêu cầu bồi thường thiệt hại”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Đình Trung.
Các Thẩm phán: Bà Nguyễn Thị Kim Liên.
Ông Nguyễn Xuân Quang.
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Hoàng Sơn – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Đồng Nai.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai: Bà Đoàn Thị Hương – Kiểm
sát viên tham gia phiên toà.
Trong ngày 14 và 16 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng
Nai xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 31/2024/TLPT-KDTM ngày 10 tháng
12 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng thuê cơ sở kinh doanh, yêu cầu tuyên bố
hợp đồng vô hiệu và yêu cầu bồi thường thiệt hại”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 04/2024/KDTM-ST ngày 14 tháng 6 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 02/2025/QĐ-PT ngày 15
tháng 01 năm 2025; Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2025/QĐ-PT ngày 14 tháng 02
năm 2025 và Quyết định hoãn phiên tòa số 12/2025/QD-PT ngày 14 tháng 3 năm 2025,
giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Ngọc C, sinh năm 1981- Chủ hộ kinh doanh
Karaoke Ngọc C.
Địa chỉ: ấp B, xã L, huyện N, tỉnh Đồng Nai.
2. Bị đơn:
2.1. Ông Nguyễn Văn Ả, sinh năm 1982
Địa chỉ: tổ F, ấp A, xã L, huyện N, tỉnh Đồng Nai
2.2. Ông Dương Đăng T, sinh năm 1979
Địa chỉ: tổ B, ấp B, L, huyện N, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện theo uỷ quyền của ông Ả và ông T:
Ông Nguyễn Xuân T1, sinh năm 1962
Địa chỉ: C tổ I, khu phố B, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai (theo văn bản
uỷ quyền ngày 02/01/2024).
2
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư Phạm Hữu Q – Công
ty L, Đoàn luật sư T4.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Bùi Thành Đ, sinh năm 1975.
Địa chỉ: ấp B, xã L, huyện N, tỉnh Đồng Nai
3.2. Bà Võ Thị Y, sinh năm 1987 (vợ ông Nguyễn Văn Ả)
Địa chỉ: ấp A, xã L, huyện N, tỉnh Đồng Nai
3.3. Bà Bùi Thị V, sinh năm 1984 (vợ của ông Dương Đăng T)
Địa chỉ: ấp B, xã L, huyện N, tỉnh Đồng Nai
(Bà C, ông Ả, ông T, ông Đ, ông T1 và luật sư Q có mặt; các đương sự khác
vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án sơ thẩm thể hiện nội dung vụ án như sau:
Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc C trình bày:
Bà C là Chủ cơ sở karaoke N, có đăng ký kinh doanh và đã được Phòng tài chính
- kế hoạch huyện N cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh lần đầu ngày 09/9/2002
và được Phòng văn hoá thông tin huyện N cấp giấy phép kinh doanh Karaoke ngày
27/12/2017.
Ngày 28/01/2022 bà C có ký hợp đồng cho thuê cơ sở kinh doanh với ông Dương
Đăng T và ông Nguyễn Văn Ả. Nội dung hợp đồng thể hiện bà C cho ông Ả và ông T
thuê cơ sở kinh doanh gồm 20 phòng hát, có cơ sở vật chất đầy đủ để hoạt động (gồm
dàn âm thanh, đèn, bàn ghế…) chỗ để xe và 01 sảnh chờ nằm trên thửa đất số 45 tờ
bản đồ số 08 xã L, huyện N, tỉnh Đồng Nai. Thửa đất nêu trên do bà C đứng tên giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Thời hạn thuê là 05 năm tính từ ngày 28/01/2022 đến
ngày 28/01/2027. Giá thuê là 100.000.000đ/tháng.
Ngay sau khi ký hợp đồng thuê, ông Ả và ông T có đặt cọc cho bà C số tiền
2.000.000.000đ (hai tỷ đồng). Bà C xác nhận đã nhận tiền cọc 02 tỷ của ông T và ông
Ả. Hiện nay số tiền cọc nêu trên bà C chưa trả lại cho ông Ả và ông T.
Ngày 16/9/2022, bà C có ký hợp đồng uỷ quyền cho ông Nguyễn Văn Ả được
quyền thay mặt bà C làm việc với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm các thủ tục
hồ sơ pháp lý, cần thiết theo quy định của pháp luật để quản lý các hoạt động kinh
doanh, kê khai thuế, xuất hoá đơn, điều chỉnh hoá đơn của hộ kinh doanh karaoke N.
Giá cả và các điều kiện của việc giao dịch này do ông Ả quyết định. Ông Ả được sử
dụng các khoản tiền thu được từ việc kinh doanh chịu trách nhiệm mọi vấn đề liên quan
đến việc kinh doanh của H kinh doanh N.
Sau khi ký hợp đồng, ông T và ông Ả có nhận cơ sở kinh doanh của bà C để kinh
doanh. Ông Ả và ông T không có báo cho bà C về việc khắc phục phòng cháy, chữa
cháy. Việc khắc phục, đảm bảo điều kiện phòng cháy chữa cháy không có thoả thuận
trong hợp đồng.
Tháng 7/2022, Cơ quan Công an huyện N có kiểm tra cơ sở phòng cháy chữa
cháy tại Cơ sở karaoke N vào ngày 13/7/2022 có đầy đủ điều kiện về phòng cháy chữa
cháy. Sau này Công an kiểm tra thì bà C không biết vì đã uỷ quyền cho ông Ả toàn
3
quyền quyết định và thực hiện. Nếu có yêu cầu khắc phục phòng cháy chữa cháy thì
ông Ả và ông T phải thực hiện.
Do bị đơn không thực hiện việc thanh toán tiền đúng theo thoả thuận của hợp
đồng nên bà C khởi kiện yêu cầu:
1. Huỷ hợp đồng thuê cơ sở kinh doanh ngày 28/01/2022 giữa bà Nguyễn Thị
Ngọc C và ông Nguyễn Văn Ả- ông Dương Đăng T. Yêu cầu ông Ả và ông T trả lại
cho bà C giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh số 4718001168/HKD do bà Nguyễn
Thị Ngọc C đứng tên.
2. Yêu cầu ông Ả và ông T phải trả tiền thuê từ tháng 3/2023 đến tháng 6 năm
2023 chưa thanh toán đủ là 320.000.000đ và thanh toán tiền thuê từ tháng 7 đến tháng
9/2023 với số tiền là 300.000.000đ.
3. Bồi thường thiệt hại những tài sản bị hư hỏng, mất mát là 500.000.000đ.
4. Yêu cầu công nhận cho bà Nguyễn Thị Ngọc C được sở hữu số tiền cọc là
2.000.000.000đ.
Tại phiên toà, nguyên đơn bà C xin rút lại yêu cầu khởi kiện đối với ông Ả- ông
T về việc yêu cầu bồi thường thiệt hại số 500.000.000đ nêu trên.
Bị đơn ông Dương Đăng T và ông Nguyễn Văn Ả do ông Nguyễn Xuân T1 là
người đại diện theo ủy quyền trình bày:
Bà Nguyễn Thị Ngọc C có ký hợp đồng cho thuê cơ sở kinh doanh với ông
Dương Đăng T và ông Nguyễn Văn Ả. Nội dung hợp đồng thể hiện bà C cho ông Ả và
ông T thuê quyền kinh doanh cơ sở kinh doanh N có giấy đăng ký kinh doanh, hộ kinh
doanh do bà C đứng tên. Cơ sở kinh doanh gồm 20 phòng hát, có cơ sở vật chất đầy đủ
để hoạt động (gồm dàn âm thanh, đèn, bàn ghế…) chỗ để xe và 01 sảnh chờ nằm trên
thửa đất số 45 tờ bản đồ số 08 xã L, huyện N, tỉnh Đồng Nai. Thời hạn thuê là 05 năm
tính từ ngày 28/01/2022 đến ngày 28/01/2027. Giá thuê là 100.000.000đ/tháng.
Ngay sau khi ký hợp đồng, ông Ả và ông T có đặt cọc cho bà C số tiền
2.000.000.000đ (hai tỷ đồng). Hiện nay số tiền cọc nêu trên bà C chưa trả lại cho ông
Ả và ông T.
Ngày 16/9/2022, bà C có ký hợp đồng uỷ quyền cho ông Nguyễn Văn Ả được
quyền thay mặt bà C làm việc với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm các thủ tục
hồ sơ pháp lý, cần thiết theo quy định của pháp luật để quản lý các hoạt động kinh
doanh, kê khai thuế, xuất hoá đơn, điều chỉnh hoá đơn của hộ kinh doanh karaoke N.
Giá cả và các điều kiện của việc giao dịch này do ông Ả quyết định. Ông Ả được sử
dụng các khoản tiền thu được từ việc kinh doanh chịu trách nhiệm mọi vấn đề liên quan
đến việc kinh doanh của H kinh doanh N.
Sau khi ký hợp đồng thì ông T và ông Ả có nhận cơ sở kinh doanh của bà C để
kinh doanh. Khi nhận cơ sở kinh doanh thì không lập biên bản giao nhận. Sau khi nhận
cơ sở kinh doanh thì ông T và ông Ả đã kinh doanh đến tháng 12/2022 thì tạm ngưng
kinh doanh. Lý do tạm ngưng là do theo yêu cầu của cơ quan công an huyện N. Có
biên bản kiểm tra hành chính đã nộp cho Toà án. Lý do cơ quan công an yêu cầu tạm
ngưng là do không đảm bảo về phòng cháy chữa cháy và cứu hộ cứu nạn. Ông T và
ông Ảnh tạm ngưng đến ngày hôm nay vẫn chưa kinh doanh lại. Ông T và ông Ả có
4
yêu cầu bà C khắc phục, sửa chữa hệ thống phòng cháy chữa cháy theo yêu cầu của cơ
quan Công an nhưng bà C không khắc phục.
Ngày 24/9/2022, ông Ả và ông T có hợp đồng với Công ty D, địa chỉ tại tổ A,
ấp B, xã P để lắp đặt hệ thống phòng cháy chữa cháy cho cơ sở kinh doanh karaoke
Ngọc C. Sau đó ông Ả- và ông T tiếp tục kinh doanh và đến ngày 03/12/2022 thì Công
an huyện N tiếp tục kiểm tra phòng cháy chữa cháy nhưng vẫn không đảm bảo nên Cơ
quan công an yêu cầu tạm ngưng hoạt động để khắc phục thiếu sót. Ông Ả và ông T có
báo cho bà C biết nhưng bà C vẫn không khắc phục.
Qua yêu cầu khởi kiện của bà C thì ông Ả và ông T không đồng ý. Ông Ả và ông
T khởi kiện yêu cầu:
- Tuyên bố hợp đồng thuê cơ sở Karaoke Ngọc C giữa bà Nguyễn Thị Ngọc C
và ông Nguyễn Văn Ả và ông Dương Đăng T không ghi ngày tháng năm là vô hiệu do
vi phạm điều cấm của pháp luật và trái đạo đức xã hội.
- Yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, buộc bà C phải trả cho ông
Ả và ông T số tiền cọc là 2.000.000.000đ; tiền nộp vi phạm hành chính là 8.500.000đ
và tiền giao cho bà C trong thời gian ngừng kinh doanh từ tháng 3/2023 đến tháng
6/2023 là 180.000.000đ (một trăm tám mươi triệu đồng); tổng cộng là 2.188.500.000đ.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Bùi Thành Đ trình bày: Ông là
chồng của bà Nguyễn Thị Ngọc C. Qua ý kiến của bà C thì ông thống nhất và không
bổ sung gì thêm. Đề nghị Toà án giải quyết theo yêu cầu của bà C. Ông không có yêu
cầu gì trong vụ án này.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Võ Thị Y trình bày theo bản tự
khai và đơn xin vắng mặt ngày 05/3/2024:
Bà là vợ của ông Ả. Ông Ả và ông T có hùn vốn thuê quyền kinh doanh cơ sở
karaoke N của bà Nguyễn Thị Ngọc C. Hợp đồng thuê có thời hạn 05 năm với giá thuê
là 100.000.000đ/tháng. Sau khi ký hợp đồng thì ông Ả và ông T mỗi người góp
1.000.000.000đ, tổng cộng là 2.000.000.000đ để đặt cọc cho bà C. Đến tháng 12/2022
Công an huyện N kiểm tra phòng cháy chữa cháy và buộc phải tạm ngưng hoạt động
để khắc phục, sửa chữa những thiếu sót, sai phạm về phòng cháy chữa cháy. Ông Ả và
ông T đã nhiều lần thông báo cho bà C biết để khắc phục về phòng cháy chữa cháy
nhằm sớm đưa cơ sở karaoke N trở lại hoạt động nhưng bà C không thực hiện. Trong
thời gian không hoạt đồng, bà C vẫn thu tiền thuê do không có tiền trả cho bà C nên bà
C đã mở khoá cửa và lấy lại cơ sở karaoke Ngọc C. Bà C khởi kiện ông Ả và ông T là
không có căn cứ. Bà đề nghị Toà án cho bà được vắng mặt trong quá trình giải quyết
vụ án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Bùi Thị V trình bày theo bản tự
khai và đơn xin vắng mặt ngày 05/3/2024:
Bà là vợ của ông T. Ông Ả và ông T có hùn vốn thuê quyền kinh doanh cơ sở
karaoke N của bà Nguyễn Thị Ngọc C. Hợp đồng thuê có thời hạn 05 năm với giá thuê
là 100.000.000đ/tháng. Sau khi ký hợp đồng thì ông Ả và ông T mỗi người góp
1.000.000.000đ, tổng cộng là 2.000.000.000đ để đặt cọc cho bà C. Đến tháng 12/2022
Công an huyện N kiểm tra phòng cháy chữa cháy và buộc phải tạm ngưng hoạt động
để khắc phục, sửa chữa những thiếu sót, sai phạm về phòng cháy chữa cháy. Ông Ả và
5
ông T đã nhiều lần thông báo cho bà C biết để khắc phục về phòng cháy chữa cháy
nhằm sớm đưa Cơ sở karaoke N trở lại hoạt động nhưng bà C không thực hiện. Trong
thời gian không hoạt đồng, bà C vẫn thu tiền thuê do không có tiền trả cho bà C nên bà
C đã mở khoá cửa và lấy lại Cơ sở karaoke Ngọc C. Bà C khởi kiện ông Ả và ông T là
không có căn cứ. Bà đề nghị Toà án cho bà được vắng mặt trong quá trình giải quyết
vụ án.
Tại Bản án Kinh doanh thương mại sơ thẩm số 04/2024/KDTM-ST ngày
14/6/2024 của Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai đã quyết định:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 30, Điều 35, Điều 39, Điều 147 và Điều 244, 271, Điều
273 Bộ luật tố tụng dân sự;
Áp dụng Điều 423 và Điều 424 Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về
mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc C
với ông Nguyễn Văn Ả và ông Dương Đăng T về việc “Tranh chấp hợp đồng thuê cơ
sở kinh doanh, yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu”. Không chấp nhận yêu cầu phản tố
của ông Nguyễn Văn Ả và ông Dương Đăng T.
Đình chỉ xét xử yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Ngọc C đối với ông
Nguyễn Văn Ả và ông Dương Đăng T về việc yêu cầu bồi thường thiệt hại số tiền
500.000.000đ.
Xử huỷ hợp đồng thuê cơ sở kinh doanh ngày 28/01/2022 giữa bà Nguyễn Thị
Ngọc C và ông Nguyễn Văn Ả- ông Dương Đăng T. Buộc ông Nguyễn Văn Ả có trách
nhiệm trả cho bà Nguyễn Thị Ngọc C 01 giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh số
4718001168/HKD do Phòng tài chính kế hoạch huyện N cấp cho bà Nguyễn Thị Ngọc
C.
Buộc ông Nguyễn Văn Ả và ông Dương Đăng T có trách nhiệm thanh toán cho
bà Nguyễn Thị Ngọc C số tiền thuê còn nợ là 320.000.000đ (Ba trăm hai mươi triệu
đồng).
Công nhận cho bà Nguyễn Thị Ngọc C được quyền sở hữu số tiền cọc
2.000.000.000đ (Hai tỷ đồng) do ông Nguyễn Văn Ả và ông Dương Đăng T đặt cọc
cho bà C ngày 28/01/2022.
Ngoài ra, cấp sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ chậm thanh toán, chi phí tiến hành
tố tụng, án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 24/6/2024, ông Dương Đăng T, ông Nguyễn Văn Ả kháng cáo toàn bộ bản
án sơ thẩm, đề nghị Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử theo hướng hủy toàn bộ bản
án sơ thẩm.
Tại phiên toà phúc thẩm, bà Nguyễn Thị Ngọc C không rút đơn khởi kiện; ông
T, ông Ả không rút đơn kháng cáo.
* Ý kiến của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn:
6
Xét về bản chất thì đây là hợp đồng thuê quyền kinh doanh. Theo pháp luật thì
kinh doanh Karaoke là hoạt động kinh doanh có điều kiện, đó là phòng cháy chữa cháy.
Trong quá trình kinh doanh, cơ sở không đủ điều kiện về phòng cháy chữa cháy, điều
này phụ thuộc vào chính sách pháp luật. Suốt quá trình thực hiện hợp đồng, nguyên
đơn phớt lờ quy định của Nhà nước về phòng cháy, chữa cháy. Về mặt pháp lý, bà C
phải chịu trách nhiệm, mà không đủ điều kiện phòng cháy chữa cháy thì không được
kinh doanh, hợp đồng ký kết vô hiệu.
Tại phiên tòa, nguyên đơn cho rằng hợp đồng ký trang 1, 3, không ký trang 2.
Nội dung trang 2 ràng buộc trách nhiệm nhưng không được 02 bên ký vào. Giữa nguyên
đơn và bị đơn có mâu thuẫn việc ký hợp đồng, nguyên đơn trình bày nhờ văn phòng
C1 nên hợp đồng này không được các bên thỏa thuận, mang tính áp đặt. Hợp đồng
không có ngày, tháng năm nên không có giá trị pháp lý.
Nguyên đơn cho rằng hợp đồng được lập thành 02 bản, giao cho bị đơn 01 bản,
nhưng không có nội dung nào ghi nhận và cũng không thể hiện hợp đồng này đã được
các bên đọc lại.
Trong hồ sơ, nguyên đơn không thể hiện được văn bản nào chứng tỏ bị đơn vi
phạm lần thứ 3. Trong hợp đồng ủy quyền, không có nội dung nào cho phép bị đơn
thực hiện công tác phòng cháy chữa cháy. Hợp đồng ủy quyền thể hiện bị đơn được
quyền sử dụng tài sản để kinh doanh và không phải trả tiền cho nguyên đơn nên nguyên
đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả 320.000.000đ là không có cơ sở.
Theo Nghị định 59, 38/2021 của Chính phủ thì việc kinh doanh phải tuyệt đối
đảm bảo phòng cháy chữa cháy. Hợp đồng thuê không ký trang 2 nên không có giá trị
để thực hiện.
Trong hợp đồng ghi nhận không bị mất số tiền cọc nên bị đơn không bị mất số
tiền cọc này và điều kiện để hưởng tiền cọc là bên bị đơn vi phạm 03 lần, nhưng không
có tài liệu nào chứng tỏ bị đơn vi phạm lần 3.
Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét sửa bản án sơ thẩm, tuyên bố hợp đồng
ký kết không ngày tháng năm giữa bà C và ông Ả, ông T vô hiệu. Bà C phải trả lại số
tiền đặt cọc 2.000.000.000đ và số tiền ông Ả, ông T đã trả tiền thuê gần 2 tỷ đồng. Bác
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đối với hậu quả hợp đồng vô hiệu liên quan đến cơ
sở kinh doanh, bị đơn không yêu cầu giải quyết.
* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án
Thẩm phán đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; về quan hệ
pháp luật, xác định tư cách pháp lý của nguyên đơn và bị đơn, thẩm quyền thụ lý của
Tòa án, việc thu thập chứng cứ đúng quy định. Quyết định đưa vụ án ra xét xử, thời
hạn chuyển hồ sơ, thủ tục cấp tống đạt niêm yết cho các đương sự đảm bảo theo quy
định pháp luật. Các quyền nghĩa vụ của đương sự được đảm bảo thực hiện. Tại phiên
tòa, Hội đồng xét xử đã tiến hành tố tụng đúng trình tự thủ tục theo quy định của của
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; những người tham gia tố tụng chấp hành đúng pháp
luật.
7
- Về thủ tục kháng cáo: Bị đơn ông Nguyễn Văn Ả, ông Dương Đăng T làm đơn
kháng cáo trong thời hạn, đã nộp tiền tạm ứng án phí nên được xem xét theo trình tự
phúc thẩm.
- Về nội dung kháng cáo:
Khi ký Hợp đồng thuê cơ sở kinh doanh Karaoke, ông Ả và ông T buộc phải biết
và đảm bảo hoạt động theo đúng quy định của pháp luật về ngành nghề kinh doanh
Karaoke. Căn cứ Hợp đồng đồng thuê cơ sở kinh doanh Karaoke, tại Điều 4, Điều 6,
Điều 7 thể hiện bên thuê chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh theo quy định của
pháp luật. Căn cứ các Biên bản kiểm tra về phòng cháy chữa cháy ngày 13/7/2022 và
ngày 03/12/2022 của Công an huyện N, thể hiện quá trình ông Ả và ông T hoạt động
kinh doanh, không đảm bảo các quy định của pháp luật về PCCC nên buộc phải tạm
ngừng hoạt động kinh doanh. Tại các biên bản làm việc ngày 09/3/2023 và 19/7/2023
của Công an huyện N thể hiện vẫn chưa khắc phục vi phạm, nên nhiều lần bị lập biên
bản vi phạm hành chính các ngày 15/9/2022, 10/7/2023, 19/7/2023 và bị xử phạt vi
phạm hành chính.
Ngoài ra, trong thời gian này bà C cũng đã ký Hợp đồng ủy quyền ngày
16/9/2022 cho ông Nguyễn Văn Ả được quyền thay mặt bà C làm việc với các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền làm các thủ tục hồ sơ pháp lý, cần thiết theo quy định của
pháp luật để quản lý các hoạt động kinh doanh … là thể hiện trách nhiệm hợp tác cùng
ông Ả và ông T để giải quyết vướng mắc.
Hợp đồng thuê cơ sở kinh doanh ngày 28/01/2022 giữa bà Nguyễn Thị Ngọc C
và ông Nguyễn Văn Ả, ông Dương Đăng T không vi phạm điều cấm của luật, không
trái đạo đức xã hội, các bên tự nguyện ký kết và thực hiện đến tháng 7/2023, trong thời
gian thực hiện hợp đồng, không ai có ý kiến gì về hình thức cũng như nội dung. Do
ông Ả và ông T kinh doanh không đảm bảo quy định pháp luật về điều kiện kinh doanh
dẫn đến Cơ quan có thẩm quyền xử phạt hành chính và yêu cầu tạm ngừng hoạt động.
Trong thời gian từ tháng 1/2023 đến tháng 6/2023, ông Ả và ông T đã vi phạm nghĩa
vụ thanh toán tiền thuê hàng tháng nên từ tháng 7/2023, bà C đơn phương đình chỉ hợp
đồng và lấy lại cơ sở Karaoke và được hưởng tiền đặt cọc là phù hợp với Điều 4, Điều
6, Điều 7 hợp đồng thuê cơ sở kinh doanh, phù hợp với quy định tại các Điều 117, 423,
424, 425, 481 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 310, 311 Luật thương mại.
Bản án sơ thẩm đã tuyên xử là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật, nên nội
dung kháng cáo của Bị đơn yêu cầu hủy bản án sơ thẩm là không có cơ sở chấp nhận.
Căn cứ khoản 1 Điều 308 BLTTDS đề nghị HĐXX giữ nguyên bản án sơ thẩm
số 04/2024 ngày 14/6/2024 của Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch.
Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bị đơn ông Dương Đăng T, ông
Nguyễn Văn Ả làm trong hạn luật định, đã nộp tiền tạm ứng án phí nên được xem xét
theo thủ tục phúc thẩm.
8
Quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, ông Ả, ông T ủy quyền cho ông
Nguyễn Xuân T1 tham gia tố tụng. Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Ả, ông T vẫn xác
định tiếp tục ủy quyền cho ông T1 tham gia tố tụng nên chấp nhận.
[2] Thẩm quyền giải quyết, quan hệ pháp luật tranh chấp và xác định tư cách
đương sự: Tòa án cấp sơ thẩm xác định đúng.
[3] Về nội dung vụ án:
[3.1] Về hiệu lực của Hợp đồng thuê cơ sở kinh doanh.
[3.1.1] Về việc ký kết Hợp đồng thuê cơ sở kinh doanh đã ký.
Bà C là Chủ cơ sở karaoke N, có đăng ký kinh doanh và đã được Phòng tài chính
- kế hoạch huyện N cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh lần đầu ngày 09/9/2002;
được Phòng văn hoá thông tin huyện N cấp giấy phép kinh doanh Karaoke ngày
27/12/2017; được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh trật tự.
Giữa bà Nguyễn Thị Ngọc C và ông Nguyễn Văn Ả - ông Dương Đăng T có ký
Hợp đồng thuê cơ sở kinh doanh (Cơ sở kinh doanh N). Nội dung hợp đồng thể hiện
bà C cho ông Ả và ông T thuê cơ sở kinh doanh gồm 20 phòng hát, có cơ sở vật chất
đầy đủ để hoạt động (gồm dàn âm thanh, đèn, bàn ghế…) chỗ để xe và 01 sảnh chờ
được xây dựng trên thửa đất số 45 tờ bản đồ số 08 xã L, huyện N, tỉnh Đồng Nai do bà
C đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Thời hạn thuê là 05 năm tính từ ngày
28/01/2022 đến ngày 28/01/2027. Giá thuê là 100.000.000đ/tháng, trong đó tiền thuê
cơ sở 80.000.000đ, còn 20.000.000đ là tiền để sửa chữa, cải tạo quán. Ngay sau khi ký
hợp đồng thuê, ông Ả và ông T có đặt cọc cho bà C số tiền 2.000.000.000đ (hai tỷ
đồng).
Theo bà C thì trước khi ký hợp đồng thuê, bà đã giao cho ông Ả, ông T quản lý,
sử dụng quán 01 tháng để kinh doanh thử. Sau 01 tháng hoạt động, ông Ả, ông T thấy
đủ điều kiện kinh doanh, kinh doanh có lời nên mới ký hợp đồng chính thức. Mặc dù
trong hợp đồng không thể hiện ngày, tháng, năm nhưng đã thể hiện rõ hợp đồng bắt
đầu từ ngày 28/01/2022 đến ngày 28/01/2027 nên xác định ngày ký hợp đồng là ngày
28/01/2022. Hợp đồng được lập thành 02 bản chính, bên bà C giữ 01 bản, còn ông Ả,
ông T giữ 01 bản chính. Do tin tưởng nên hai bên chỉ ký vào trang thứ 3 của hợp đồng,
không ký vào trang 1, 2.
Theo ông Ả, ông T thì Hợp đồng thuê cơ sở kinh doanh chỉ lập thành 01 bản duy
nhất và do bà C giữ, ông Ả, ông T không giữ bản nào. Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của ông Ả, ông T cho rằng việc ký hợp đồng mang tính áp đặt, trang 1, 2 không
ký nên không có giá trị.
Qua xem xét hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận thấy: Kèm theo đơn khởi kiện,
nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc C đã cung cấp cho Tòa án 01 bản chính Hợp đồng
thuê cơ sở kinh doanh (Cơ sở kinh doanh Ngọc C) giữa bà C và ông Nguyễn Văn Ả,
Dương Đăng T. Tại trang 3 của hợp đồng, bà C, ông Ả, ông T đã ký tên, lăn tay điểm
chỉ, ngoài ra các bên không viết tay nội dung nào khác (BL 03, 04).
Quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, ngày 15/01/2024, đại diện theo ủy
quyền của bị đơn là ông Nguyễn Xuân T1 đã cung cấp cho Tòa án nhân dân huyện
Nhơn Trạch các tài liệu, chứng cứ có liên quan, trong đó có 01 Hợp đồng thuê cơ sở
kinh doanh (BL72, 73). Tại trang 3 của hợp đồng, bà C, ông Ả, ông T đã ký tên, lăn
9
tay điểm chỉ, ngoài ra bà C còn ghi “Bên A đã nhận đủ số tiền 2.000.000.000 (hai tỷ
đồng); ông Ả còn ghi nội dung “Chúng tôi cam kết trong quá trình hoạt động, nếu xảy
ra hỏa hoạn, cháy nổ gây thiệt hại về tài sản chúng tôi sẽ xử lý và chịu trách nhiệm
trước pháp luật”. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã cho ông Ả, ông T xem Hợp đồng
thuê cơ sở kinh doanh được ông T1 giao nộp thì ông Ả, ông T đều xác nhận chữ ký,
chữ viết của mình.
Như vậy, Hợp đồng thuê cơ sở kinh doanh do nguyên đơn và bị đơn nộp cho
Tòa án là 02 bản riêng biệt, bà C cho rằng Hợp đồng thuê cơ sở kinh doanh được lập
thành 02 bản, mỗi bên giữ 01 bản là có căn cứ. Qua đối chiếu nội dung Hợp đồng thuê
cơ sở kinh doanh do các đương sự giao nộp, Hội đồng xét xử nhận thấy mặc dù cả 02
hợp đồng đều không được các bên ký xác nhận tại trang 1, 2 nhưng nội dung của 02
hợp đồng là giống nhau và tại Điều 9 của hợp đồng cũng đã nêu rõ “Hai bên đã hiểu rõ
quyền, nghĩa vụ, lợi ích hợp pháp của mình và hậu quả pháp lý của việc giao kết hợp
đồng này”. Do đó, bị đơn cho rằng hợp đồng không được các bên ký trang 1, 2 và mang
tính chất áp đặt nên không có giá trị là không có căn cứ.
[3.1.2] Ngày ký hợp đồng.
Tại phiên tòa, bà C xác định ông Ả, ông T kinh doanh thử 01 tháng, đạt hiệu quả
mong muốn nên mới ký hợp đồng chính thức và trong hợp đồng thể hiện rõ bắt đầu từ
ngày 28/01/2022 đến ngày 28/01/2027 nên ngày ký hợp đồng là ngày 28/01/2022. Sau
khi nghe bà C trình bày, ông Ả, ông T không có ý kiến phản đối nên có căn cứ xác định
ngày ký hợp đồng là ngày 28/01/2022.
[3.1.3] Công tác phòng cháy chữa cháy.
Bị đơn còn cho rằng hợp đồng thuê cơ sở kinh doanh, điều kiện bắt buộc là phải
tuyệt đối tuân thủ công tác phòng cháy chữa cháy, đây là trách nhiệm của bên cho thuê.
Còn bà C thì cho rằng trước khi ký hợp đồng thuê, bà C đã đảm bảo đúng công tác
phòng cháy chữa cháy, sau khi thuê, việc đảm bảo công tác phòng cháy chữa cháy là
nghĩa vụ của bên thuê.
Qua xem xét hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Như đã phân tích, ông Ả, ông T đã được bà C tạo điều kiện cho quản lý, kinh
doanh thử trong vòng 01 tháng mới ký hợp đồng thuê nên ông Ả, ông T đã có điều kiện
xem xét toàn diện cơ sở kinh doanh được thuê, từ cơ sở hạ tầng, phòng, máy hát… đến
công tác phòng cháy chữa cháy. Tại Điều 6 Hợp đồng thuê cơ sở kinh doanh do ông
Ả, ông T cung cấp cho Tòa án thể hiện, ông Ả, ông T có nghĩa vụ tuân theo các quy
định của pháp luật về ngành nghề kinh doanh; tự phát sinh các chi phí phát sinh. Sau
khi ký vào hợp đồng thuê, ông Ả còn ghi cam kết nội dung: “Chúng tôi cam kết trong
quá trình hoạt động, nếu xảy ra hỏa hoạn, cháy nổ gây thiệt hại về tài sản chúng tôi sẽ
xử lý và chịu trách nhiệm trước pháp luật”. Tại phiên tòa, khi được Hội đồng xét xử
cho ông Ảnh xem phần nội dung viết tay, ông Ả cũng xác nhận chữ viết là của mình.
Ngày 13/7/2022, sau khi cho ông Ả, ông T thuê, Cơ sở N bị kiểm tra và được
ghi nhận có đủ điều kiện về phòng cháy chữa cháy và cứu hộ cứu nạn.
Ngày 16/9/2022, bà C và ông Ả đã ký Hợp đồng ủy quyền, được công chứng tại
Văn phòng C2. Bà C cho rằng đã ủy quyền cho ông Nguyễn Văn Ả được toàn quyền
thay mặt làm việc với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc quản lý, sử dụng
10
cơ sở kinh doanh, kể cả công tác phòng cháy chữa cháy. Còn theo ông Ả, ông T thì
việc ủy quyền không liên quan đến công tác phòng cháy chữa cháy.
Quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm, ông Ả,
ông T thừa nhận ngày 24/9/2022 đã hợp đồng với Công ty D, địa chỉ tại tổ A, ấp B, xã
P để lắp đặt hệ thống phòng cháy chữa cháy cho cơ sở kinh doanh karaoke Ngọc C với
số tiền 222.364.000đ và các ông đã trả tiền đầy đủ. Ngày 03/12/2022, Cơ sở kinh doanh
bị kiểm tra và ghi nhận chưa đủ điều kiện an toàn về phòng cháy chữa cháy nên yêu
cầu ông Ả tạm ngưng hoạt động để thực hiện khắc phục các nội dung tồn tại, thiếu sót
và ông Ả cũng là người ký tên trong biên bản này. Do đó, bà C cho rằng có ủy quyền
cho ông Ả toàn quyền quản lý, sử dụng cơ sở kinh doanh và làm việc với các cơ quan
có thẩm quyền liên quan đến việc kinh doanh, kể cả công tác phòng cháy chữa cháy là
có cơ sở.
Qua các dẫn chứng nêu trên, có căn cứ xác định trước khi ký hợp đồng cho ông
Ả, ông T thuê cơ sở kinh doanh Karaoke, bà C đã đảm bảo các điều kiện về công tác
phòng cháy chữa cháy. Sau khi ký hợp đồng thuê cơ sở kinh doanh, công tác phòng
cháy chữa cháy thuộc nghĩa vụ của bên thuê, điều này được thể hiện ngay trong hợp
đồng, thể hiện ở cam kết của ông Ảnh trong hợp đồng thuê cơ sở kinh doanh và quá
trình kinh doanh, chính ông Ả là người thuê đơn vị khác lắp đặt hệ thống phòng cháy
chữa cháy, trả tiền thuê. Ông Ả, ông T cho rằng nghĩa vụ đảm bảo công tác phòng cháy
chữa cháy thuộc về phía bà C là không có căn cứ.
Từ phân tích tại phần [3.1.1], [3.1.2], [3.1.3] nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy
Hợp đồng thuê cơ sở kinh doanh Ngọc C đã được các bên ký kết trên cơ sở hoàn toàn
tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội nên có giá trị pháp lý, phát sinh hiệu
lực.
[3.2] Xét yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Ngọc C:
[3.2.1] Về yêu cầu huỷ hợp đồng thuê cơ sở kinh doanh ngày 28/01/2022 giữa
bà Nguyễn Thị Ngọc C và ông Nguyễn Văn Ả - ông Dương Đăng T. Yêu cầu ông Ả
và ông T trả lại cho bà C giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh số 4718001168/HKD
do bà Nguyễn Thị Ngọc C đứng tên.
Theo bà C, trong quá trình thực hiện hợp đồng, từ tháng 01/2022 đến tháng
12/2022, ông Ả, ông T đã trả tiền thuê đầy đủ. Tháng 1, 2/2023, do cần thời gian hoàn
thiện công tác phòng cháy chữa cháy nên bà C không lấy tiền thuê. Từ tháng 3/2023
đến tháng 6/2023, ông T, ông Ả không trả tiền thuê đầy đủ, cụ thể: tháng 3, 4 trả được
40.000.000đ/tháng; tháng 5, 6 trả 50.000.000đ/tháng. Ngày 30/7/2023, bà C đã thuê
đơn vị Thừa phát lại L đến chứng kiến, ghi nhận việc nhận lại tài sản. Để chứng minh
cho lời trình bày của mình, bà C đã cung cấp cho Tòa án 01 thông báo yêu cầu trả nợ
và 01 Vi bằng ngày 30/7/2023 của Văn phòng T5.
Còn theo ông Ả, ông T thì do công tác phòng cháy chữa cháy chưa đảm bảo nên
hai bên thống nhất bên thuê chỉ phải trả 50% giá thuê cho bên bà C nên từ tháng 01
đến tháng 06/2023, ông Ả, ông T chỉ trả 180.000.000đ.
Tại Vi bằng ngày 30/7/2023 của Văn phòng T5 đã ghi nhận: Vào lúc 08 giờ 15
phút ông Ả, ông T có mặt cùng sự chứng kiến của trưởng ấp ông Võ Tấn T2 và mặt
trận ấp ông Phạm Ngọc T3. Bà C yêu cầu ông Ả, ông T trả đủ tiền thuê nhưng ông Ả,
ông T trình bày lý do cơ sở kinh doanh giờ khó khăn nên không thể đóng đủ số tiền
11
như trong hợp đồng và xin bớt xuống 50.000.000đ/tháng, bà C không đồng ý. Sau hồi
thương lượng, hai bên đàm phán không thống nhất tiếp tục cho thuê được, bà C yêu
cầu ông Bùi Thành Đ đưa Thừa phát lại đi ghi nhận hiện trạng.
Như vậy, ông Ả, ông T cho rằng hai bên thống nhất giảm giá thuê 50% nhưng
không được bà C, ông Đ thừa nhận và không đưa ra được căn cứ chứng minh. Từ tháng
03/2023 đến tháng 06/2023, ông Ả, ông T chỉ trả được 180.000.000đ là vi phạm hợp
đồng đã ký nên ngày 30/7/2023 bà C lấy lại cơ sở kinh doanh.
Do ông Ả và ông T là người vi phạm hợp đồng thuê cơ sở kinh doanh đã ký kết
với bà C, không thực hiện đúng theo nghĩa vụ thanh toán tiền do các bên đã thoả thuận
nên việc bà C yêu cầu huỷ hợp đồng thuê cơ sở kinh doanh ngày 28/01/2022 giữa bà
Nguyễn Thị Ngọc C và ông Nguyễn Văn Ả - ông Dương Đăng T là có căn cứ, phù hợp
với quy định tại Điều 423, 424 Bộ luật Dân sự năm 2015. Hiện nay, ông Ả là người
đang giữ bản chính giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh số 4718001168/HKD do
Phòng tài chính kế hoạch huyện N cấp cho bà Nguyễn Thị Ngọc C nên buộc ông Ả có
trách nhiệm trả lại giấy đăng ký kinh doanh nêu trên cho bà C.
[3.2.2] Về yêu cầu ông Ả và ông T phải trả tiền thuê từ tháng 1/2023 đến tháng
6 năm 2023 chưa thanh toán đủ là 320.000.000đ và thanh toán tiền thuê từ tháng 7 đến
tháng 9/2023 với số tiền là 300.000.000đ.
Ông Ả và ông T xác định từ tháng 01/2023 đến tháng 6/2023 mới thanh toán cho
bà C số tiền 180.000.000đ. Do đó, có đủ căn cứ xác định ông Ả và ông T chưa thanh
toán đủ tiền thuê cho bà C nên bà C yêu cầu ông Ả và ông T trả tiền thuê còn lại từ
tháng 3 đến khi bà C lấy lại cơ sở kinh doanh với số tiền 320.000.000đ là có căn cứ
nên được chấp nhận.
Ngày 30/7/2023 bà C đã nhận lại cơ sở kinh doanh nên cấp sơ thẩm không chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của bà C về việc buộc ông Ả và ông T phải thanh toán tiền thuê
từ tháng 7 đến tháng 9/2023 với số tiền 300.000.000đ là có căn cứ.
[3.2.3] Về yêu cầu ông Ả và ông T bồi thường thiệt hại số tiền 500.000.000đ:
Tại phiên toà sơ thẩm, nguyên đơn xin rút lại yêu cầu bồi thường thiệt hại và cấp
sơ thẩm đình chỉ xét xử là phù hợp.
[3.2.4] Đối với yêu cầu công nhận cho bà C được sở hữu số tiền cọc
2.000.000.000đ.
Sau khi ký hợp đồng thuê cơ sở kinh doanh, bà C đã nhận 2.000.000.000đ của
ông Ả, ông T nhằm mục đích đặt cọc cho việc thực hiện hợp đồng.
Tại điều 4 của hợp đồng các đương sự đã ghi rõ: Bên A (bà Nguyễn Thị Ngọc
C) có các quyền sau đây: “yêu cầu bên B (ông Ả- ông T) trả đủ tiền thuê; yêu cầu ông
Ả- ông T chấm dứt ngay việc sử dụng cơ sở kinh doanh không đúng mục đích, mọi hành
vi huỷ hoại cơ sở kinh doanh hoặc làm giảm sút giá trị của cơ sở kinh doanh; nếu vi
phạm hợp đồng đến lần thứ 3 thì bên bà C có quyền đơn phương đình chỉ hợp đồng,
yêu cầu ông Ả- ông T hoàn trả cơ sở kinh doanh và được hưởng số tiền ông Ả- ông T
đã đặt cọc”.
Từ tháng 01 đến tháng 6 năm 2023, ông Ả- ông T chỉ trả được 180.000.000đ là
vi phạm thời hạn thanh toán 04 lần. Đối chiếu với thoả thuận trong hợp đồng đã ký kết
12
giữa bà C và ông Ả, ông T thì bà C được hưởng số tiền cọc 2.000.000.000đ theo sự
thoả thuận giữa các đương sự. Cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà C,
công nhận cho bà C được hưởng số tiền cọc 2.000.000.000đ nêu trên là có căn cứ, phù
hợp vơi quy định tại Điều 328 Bộ luật Dân sự.
[3.3] Xét yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Văn Ả và ông Dương Đăng T:
[3.3.1] Đối với yêu cầu tuyên bố hợp đồng thuê cơ sở Karaoke Ngọc C giữa bà
Nguyễn Thị Ngọc C và ông Nguyễn Văn Ả và ông Dương Đăng T không ghi ngày
tháng năm là vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật và trái đạo đức xã hội.
Như đã phân tích trong phần [3.1], Hợp đồng thuê cơ sở kinh doanh Ngọc C đã
được bà C và ông Ả, ông T ký kết trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật
và đạo đức xã hội nên có giá trị pháp lý, phát sinh hiệu lực. Cấp sơ thẩm không chấp
nhận yêu cầu phản tố của bị đơn là cơ sở.
[3.3.2] Đối với yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, buộc bà C phải
trả cho ông Ả - ông T số tiền cọc là 2.000.000.000đ; tiền nộp vi phạm hành chính là
8.500.000đ và tiền giao cho bà C trong thời gian ngừng kinh doanh từ tháng 3/2023
đến tháng 6/2023 là 180.000.000đ (một trăm tám mươi triệu đồng); tổng cộng là
2.188.500.000đ.
Do hợp đồng thuê cơ sở kinh doanh giữa các đương sự không vô hiệu, quá trình
thực hiện hợp đồng, ông Ả - và ông T là bên vi phạm nên cấp sơ thẩm không chấp nhận
yêu cầu phản tố buộc bà C trả lại cho ông Ả và ông T số tiền cọc 2.000.000.000đ là
phù hợp.
Đối với số tiền nộp phạt, bà C đã uỷ quyền cho ông Ả đại diện để kinh doanh
nên trong quá trình kinh doanh nếu ông Ả - ông T có vi phạm và bị xử phạt vi phạm
hành chính thì ông Ả và ông T có trách nhiệm nộp phạt. Nội dung này các bên đã ghi
rõ trong hợp đồng uỷ quyền ngày 16/9/2022. Việc ông Ả và ông T yêu cầu bà C trả lại
tiền nộp phạt là không có căn cứ, cấp sơ thẩm không chấp nhận là phù hợp.
Đối với số tiền 180.000.000đ do ông Ả và ông T thanh toán tiền thuê Cơ sở kinh
doanh nên cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu phản tố về việc buộc bà C trả lại cho
ông Ả và ông T là có căn cứ.
Từ những phân tích tại phần [3.1], [3.2], [3.3] nêu trên, Hội đồng xét xử không
chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn Ả, Dương Đăng T đối với bản án số
04/2024/KDTM-ST ngày 14/6/2024 của Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch, tỉnh
Đồng Nai.
[4] Về chi phí thẩm định giá: Bà C phải chịu tiền chi phí thẩm định giá là
35.000.000 đồng, bà C đã nộp xong.
[5] Về án phí:
- Về án phí KDTMST: Do yêu cầu của nguyên đơn bà C được chấp nhận nên bị
đơn ông Ả và ông T, mỗi người phải chịu tiền án phí KDTM sơ thẩm đối với yêu cầu
khởi kiện của bà C được chấp nhận là 42.200.000đ và tiền án phí KDTM sơ thẩm đối
với yêu cầu không được chấp nhận là 4.712.500đ; tổng cộng là 46.912.500đ.
13
Bà C phải chịu 15.000.000đ tiền án phí KDTM sơ thẩm nhưng được trừ vào số
tiền tạm ứng án phí đã nộp là 47.200.000đ theo biên lai số 0017713 ngày 24/4/2024
của Chi cục thi hành án dân sự huyện Nhơn Trạch.
- Về án phí KDTMPT: Ông Ả, ông T phải nộp 2.000.000đ do kháng cáo không
được Tòa án chấp nhận.
[6] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại phiên
tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
[7] Xét quan điểm của luật sư bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn không
phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1/ Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn Ả, ông Dương Đăng T. Giữ
nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2024/DS-ST ngày 14-6-2024 của Tòa án nhân
dân huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
2/ Căn cứ vào khoản 1 Điều 30, Điều 35, Điều 39, Điều 147 và Điều 244, 271,
Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
Áp dụng Điều 117, 328, 423, 424, 481 Bộ luật Dân sự năm 2015; Áp dụng Điều
306 Luật Thương mại; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng
án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
2.1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc
C với ông Nguyễn Văn Ả và ông Dương Đăng T về việc “Tranh chấp hợp đồng thuê
cơ sở kinh doanh, yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu, yêu cầu bồi thương thiệt hại”.
Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Văn Ả và ông Dương Đăng T đối
với bà Nguyễn Thị Ngọc C.
Đình chỉ xét xử yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Ngọc C đối với ông
Nguyễn Văn Ả và ông Dương Đăng T về việc yêu cầu bồi thường thiệt hại số tiền
500.000.000đ.
Huỷ hợp đồng thuê cơ sở kinh doanh ngày 28/01/2022 giữa bà Nguyễn Thị Ngọc
C và ông Nguyễn Văn Ả- ông Dương Đăng T. Buộc ông Nguyễn Văn Ả có trách nhiệm
trả cho bà Nguyễn Thị Ngọc C 01 bản chính giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh
số 4718001168/HKD do Phòng tài chính kế hoạch huyện N cấp cho bà Nguyễn Thị
Ngọc C.
Buộc ông Nguyễn Văn Ả và ông Dương Đăng T có trách nhiệm thanh toán cho
bà Nguyễn Thị Ngọc C số tiền thuê còn nợ là 320.000.000đ (ba trăm hai mươi triệu
đồng).
Công nhận cho bà Nguyễn Thị Ngọc C được quyền sở hữu số tiền cọc
2.000.000.000đ (hai tỷ đồng) do ông Nguyễn Văn Ả và ông Dương Đăng T đặt cọc
cho bà C ngày 28/01/2022.
14
2.2. Về án phí:
- Buộc ông Nguyễn Văn Ả phải nộp tiền án phí KDTM sơ thẩm là 46.912.500đ
(bốn mươi sáu triệu chín trăm mười hai nghìn năm trăm đồng) được trừ vào
22.744.000đ (hai mươi hai triệu bảy trăm bốn mươi bốn nghìn đồng) tiền tạm ứng án
phí ông Ả đã nộp tại Biên lai thu số 0017274 ngày 24/01/2024 của Chi cục thi hành án
dân sự huyện Nhơn Trạch. Ông Ả còn phải nộp 24.168.500đ (hai mươi bốn triệu một
trăm sáu mươi tám nghìn năm trăm đồng).
Buộc ông Dương Đăng T phải nộp tiền án phí KDTM sơ thẩm là 46.912.500đ
(bốn mươi sáu triệu chín trăm mười hai nghìn năm trăm đồng) được trừ vào
22.744.000đ (hai mươi hai triệu bảy trăm bốn mươi bốn nghìn đồng) tiền tạm ứng án
phí ông T đã nộp theo B lại thu số 0017284 ngày 26/01/2024 của Chi cục thi hành án
dân sự huyện Nhơn Trạch. Ông T còn phải nộp 24.168.500đ (hai mươi triệu một trăm
sáu mười tám nghìn năm trăm đồng).
Bà Nguyễn Thị Ngọc C phải chịu 15.000.000đ (mười lăm triệu đồng) tiền án phí
KDTM sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 47.200.000đ (bốn
mươi bảy triệu hai trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0017713 ngày 24/4/2024 của Chi
cục thi hành án dân sự huyện Nhơn Trạch. Hoàn trả cho bà C số tiền chênh lệch là
32.200.000đ (ba mươi hai triệu hai trăm nghìn đồng).
- Ông T, ông Ả mỗi người phải nộp 2.000.000đ (hai triệu đồng) án phí KDTM
phúc thẩm, được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0018002 và
0018003 ngày 26/6/2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Nhơn Trạch.
2.3. Về chi phí thẩm định giá: Bà Nguyễn Thị Ngọc C phải chịu tiền chi phí thẩm
định giá là 35.000.000 đồng (ba mươi lăm triệu đồng), bà C đã nộp xong.
Kể từ ngày Bản án này có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án có đơn
yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không thi hành thì hàng tháng còn phải
chịu lãi suất theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tương ứng với số tiền
và thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân
sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế
thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu
thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
3/ Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Đương sự;
- VKSND T. Đồng Nai;
- TAND huyện Nhơn Trạch;
- VKSND huyện Nhơn Trạch;
- Chi cục THADS huyện Nhơn Trạch;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
Nguyễn Đình Trung
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Bản án số 69/2025/DS-PT ngày 10/03/2025 của TAND tỉnh Kiên Giang về tranh chấp hợp đồng thuê tài sản
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 17/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Bản án số 294/2024/DS-PT ngày 16/12/2024 của TAND tỉnh Vĩnh Long về tranh chấp hợp đồng thuê tài sản
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Bản án số 195/2024/DS-PT ngày 11/12/2024 của TAND tỉnh Bình Định về tranh chấp hợp đồng thuê tài sản
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm