Bản án số 57/2021/HS-ST ngày 20/04/2021 của TAND TP. Sơn La, tỉnh Sơn La về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 57/2021/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 57/2021/HS-ST ngày 20/04/2021 của TAND TP. Sơn La, tỉnh Sơn La về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý
Tội danh:
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Sơn La (TAND tỉnh Sơn La)
Số hiệu: 57/2021/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 20/04/2021
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA

 BẢN ÁN 57/2021/HS-ST NGÀY 20/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 20 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 62/2021/TLST-HS ngày 29/3/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62/2021/QĐXXST-HS ngày 20/4/2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Xuân B, sinh ngày 03/7/1970 tại huyện Đ, tỉnh Hà Tĩnh; nơi cư trú: Tổ 13, phường Q, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn và bà Bùi Thị B; bị cáo có vợ là Lê Thị C và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 09/6/2017, Tòa án nhân dân thành phố Sơn La xử phạt 24 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (đã xóa án tích); tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/12/2020 đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 20 phút ngày 16/12/2020, tổ công tác Công an phường Q, thành phố Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 13, phường Q, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La bắt quả tang Nguyễn Xuân B có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói giấy màu trắng, bên trong có chứa cục bột màu trắng (B lấy trong túi áo khoác bên phải đang mặc, khai nhận là ma túy của B cất giữ để sử dụng).

Cùng ngày 16/12/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La thành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh và lấy mẫu giám định vật chứng. Kết quả cân tịnh số cục bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Xuân B có khối lượng 0,17 gam. Lấy 0,05 gam làm mẫu gửi giám định, ký hiệu B1.

Tại Kết luận giám định số 33 ngày 18/12/2020, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu B1 là ma túy; loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định B1 là 0,05 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,17 gam; loại Heroine.

Quá trình điều tra, Nguyễn Xuân B khai nhận: Khoảng 10 giờ ngày 16/12/2020, Nguyễn Xuân B đi bộ từ nhà ở tổ 13, phường Q, thành phố Sơn La đến công viên cạnh Ủy ban nhân dân phường Q, thành phố Sơn La tìm mua ma túy để sử dụng. Tại đây, B gặp và hỏi mua được của một nam giới không biết họ tên, địa chỉ 01 gói Heroine với số tiền 100.000 đồng (Một trăm nghìn đồng). B cất gói ma túy vào túi áo khoác bên phải đang mặc, đi bộ tìm nơi sử dụng thì bị tổ công tác bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Đối với người bán ma túy cho Nguyễn Xuân B: Do B không biết họ tên, địa chỉ, ngoài lời khai của B không có tài liệu, chứng cứ nào khác để điều tra, xử lý.

Bản cáo trạng số 10/CT-VKSTP ngày 29/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La truy tố Nguyễn Xuân B về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La giữ nguyên cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Tuyên bố: Nguyễn Xuân B phạm tội tàng trữ trái phép chất ma tuý. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt Nguyễn Xuân B từ 14 tháng đến 16 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: Mẫu lưu ma túy còn lại sau khi giám định 0,12 gam; 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh giấy màu trắng.

3. Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa, bị cáo giữ nguyên lời khai tại Cơ quan điều tra, nhất trí với cáo trạng truy tố và đề nghị giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về quá trình tiến hành tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi và trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Xét lời khai nhận của bị cáo hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, sơ đồ vị trí bắt giữ; vật chứng đã thu giữ; biên bản bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng, lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại; kết luận giám định; lời khai của người chứng kiến. Có đủ căn cứ khẳng định: Ngày 16/12/2020, Nguyễn Xuân B đã thực hiện hành vi cất giữ trái phép 0,17 gam Heroine để sử dụng. Hành vi phạm tội tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La truy tố bị cáo về tội danh, điều khoản như trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo xâm phạm chế độ quản lý chất ma tuý của Nhà nước, thuộc loại tội phạm nghiêm trọng. Về nhân thân, năm 2017, bị cáo bị kết án phạt tù về tội phạm ma túy, đã xóa án tích. Bị cáo nhận thức rõ hành vi vi phạm của mình nhưng vẫn thực hiện. Cần xử phạt nghiêm khắc nhằm trừng trị, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[3] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Bị cáo không có tài sản, thu nhập không ổn định, xét không áp dụng hình phạt bổ sung.

[4] Về vật chứng của vụ án, căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Đối với 01 phong bì niêm phong trong có 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh giấy màu trắng; mẫu lưu 0,12 gam, xét là chất ma túy và đồ vật liên quan, vật không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu huỷ.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Xuân B phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".Xử phạt Nguyễn Xuân B 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 16/12/2020).

Không áp dụng hình phạt bổ sung - phạt tiền đối với Nguyễn Xuân B.

2. Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì công văn của Công an thành phố Sơn La đã niêm phong. Mặt trước phong bì ghi: “Vật chứng lưu kho vụ Nguyễn Xuân B, sinh năm 1970 - Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bắt ngày 16/12/2020. Gồm:

01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh giấy màu trắng; mẫu lưu B1= 0,12 gam”. Mặt sau phong bì dán giấy niêm phong số 041902.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/3/2021 giữa Công an thành phố Sơn La và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sơn La).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Nguyễn Xuân B phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Tải về
Bản án số 57/2021/HS-ST Bản án số 57/2021/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất