Bản án số 57/2020/HS-ST ngày 24/11/2020 của TAND huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương về tội cố ý làm hư hỏng tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 57/2020/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 57/2020/HS-ST ngày 24/11/2020 của TAND huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương về tội cố ý làm hư hỏng tài sản
Tội danh:
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Thanh Miện (TAND tỉnh Hải Dương)
Số hiệu: 57/2020/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 24/11/2020
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH MIỆN, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 57/2020/HS-ST NGÀY 24/11/2020 VỀ TỘI CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN

Ngày 24/11/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 59/2020/TLST-HS ngày 23/10/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2020/QĐXXST-HS, ngày 12/11/2020, đối với bị cáo:

Vũ Văn M, sinh ngày 11/12/1988 tại Hải Dương;

Nơi cư trú: Thôn V, xã V, huyện N, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn K và bà Bùi Thị H; có vợ và có 01 con sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

- Bị hại: Ông Phạm Hữu T, sinh năm 1960 và bà Lê Thị T, sinh năm 1968; đều cư trú tại: Số nhà 11, ngõ 189 H, phường L, quận B, thành phố Hà Nội; vắng mặt.

- Người tham gia tố tụng khác:

1) NLC1, 2) NLC2, 3) NLC3.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 18 giờ ngày 23/8/2020, ông Phạm Hữu T điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 30F-596.xx chở vợ là bà Lê Thị T đến nhà ông Phan Văn M, ở thôn B, xã C, huyện T, tỉnh Hải Dương để đòi tiền nợ. Khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, ông T, bà T đến trước cổng làng thôn B, đỗ xe ô tô cạnh tường bao nhà ông Phan Văn M. Thấy cổng nhà ông Phan Văn M khóa nên ông T, bà T đứng trước cổng gọi nhưng vợ chồng ông Phan Văn M không có ở nhà. Trong nhà ông Phan Văn M lúc này có Vũ Văn M và vợ là chị Phan Thị Thanh Nhàn (tên gọi khác là Trang), là con gái ông Phan Văn M. Vũ Văn M ra ngoài sân nói chuyện và đuổi ông T, bà T đi về không cho vào trong nhà. Hai bên lời qua tiếng lại, ông T, bà T lên xe ô tô ngồi. Do bực tức chuyện ông T và bà T nói về việc gia đình bố vợ mình nợ nần, nên Vũ Văn M vào trong bàn uống nước lấy chìa khóa ra mở khóa cổng (là khóa dây bằng kim loại, có vỏ bọc nhựa màu đỏ sẫm đang khóa ở cổng), cầm chiếc khóa dây đi đến phía bên phải đầu xe ô tô của ông T (bên ghế phụ), dùng tay phải cầm phần đầu dây có ổ khóa vụt hai đến ba nhát theo hướng từ trên xuống dưới vào phần kính chắn gió phía trước, bên phải đầu xe, làm kính xe bị rạn nứt. Thấy vậy, ông T xuống xe và yêu cầu Vũ Văn M dừng lại. Minh nghĩ ông T đánh mình, nên cầm khóa dây vụt về phía ông T nhưng không gây thương tích cho ông T rồi đi vào trong nhà khóa cổng lại.

Kết luận định giá tài sản số 16/KL-HĐĐG ngày 15/9/2020, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Thanh Miện kết luận: Kính chắn gió phía trước xe ô tô nhãn hiệu TOYOTA, loại xe Lexus GX 470, sơn màu đen, biển kiểm soát 30F-596.xx trị giá 23.882.100 đồng.

Tại Cáo trạng số 58/VKS-HS ngày 23/10/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương truy tố Vũ Văn M ra trước Tòa án nhân dân huyện Thanh Miện để xét xử về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo khoản 1 Điều 178 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Vũ Văn M thừa nhận hành vi phạm tội, công nhận quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Miện là đúng, xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thanh Miện thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố như Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vũ Văn M phạm tội Cố ý làm hư hỏng tài sản; về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 178; điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo từ 09 đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã V, huyện N, tỉnh Hải Dương giám sát, giáo dục. Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo; về hình phạt bổ sung: Không áp dụng; về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy chiếc khóa dây kim loại, màu đỏ dài 67cm; về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Luật phí và lệ phí. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo không tranh luận. Nói lời sau cùng, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thanh Miện, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thanh Miện, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định bị cáo có tội: Lời khai của bị cáo Vũ Văn M tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, Kết luận định giá tài sản và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 23/8/2020, tại khu vực cổng làng B, xã C, huyện T, tỉnh Hải Dương; Vũ Văn M có hành vi dùng khóa dây bằng kim loại vụt làm nứt, vỡ kính chắn gió phía trước xe ô tô nhãn hiệu Lexus GX470, biển kiểm soát 30F-596.xx của ông Phạm Hữu T và bà Lê Thị T, đều cư trú tại số nhà 11, ngõ 189 H, phường L, quận B, thành phố Hà Nội, gây thiệt hại về tài sản trị giá 23.882.100 đồng. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, vì bực tức cá nhân nên đã thực hiện hiện hành vi làm hỏng tài sản của người khác với lỗi cố ý, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản thuộc sở hữu của ông Phạm Hữu T và bà Lê Thị T, nên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”, được quy định tại khoản 1 Điều 178 của Bộ luật hình sự. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Miện thực hành quyền công tố đã luận tội đối với bị cáo là có cơ sở, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại và được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử sẽ xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, nơi cư trú rõ ràng. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, Hội đồng xét xử thấy không cần cách ly bị cáo khỏi xã hội cũng đủ giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho xã hội, đồng thời vẫn bảo đảm phục vụ công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy không cần áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Chiếc khóa dây bị cáo dùng làm công cụ phạm tội, cần tịch thu tiêu hủy; Chiếc xe ô tô Lexus GX470, biển kiểm soát 30F-596.xx của ông T, bà T đã được Cơ quan điều tra trả lại là phù hợp.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường thiệt hại và bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại nào khác, nên không phải giải quyết.

[7] Về án phí: Bị cáo Vũ Văn M bị kết án, nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 178, điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51; khoản 1, 2 và 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Vũ Văn M phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”.

Xử phạt bị cáo Vũ Văn M 12 (mười hai) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 (hai mươi bốn) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 24/11/2020.

Giao bị cáo Vũ Văn M cho Ủy ban nhân dân xã V, huyện N, tỉnh Hải Dương giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo vắng mặt tại nơi cư trú, thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú đối với Vũ Văn M từ ngày 24/11/2020.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu và tiêu hủy 01 khóa dây (vật chứng có đặc điểm ghi tại Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Miện và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Miện).

Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Vũ Văn M phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kế từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Tải về
Bản án số 57/2020/HS-ST Bản án số 57/2020/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất