Bản án số 56/2024/DS-ST ngày 16/08/2024 của TAND huyện Cờ Đỏ, TP. Cần Thơ về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 56/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 56/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 56/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 56/2024/DS-ST ngày 16/08/2024 của TAND huyện Cờ Đỏ, TP. Cần Thơ về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Cờ Đỏ (TAND TP. Cần Thơ) |
Số hiệu: | 56/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 16/08/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | 1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phạm Quí B về việc yêu cầu bị đơn ông Nguyễn Văn B1 trả lại 9,8 m2 đất lấn chiếm. (Kèm theo Bản trích đo địa chính số 429/VPĐKĐĐ ngày 22/7/2024 của Văn phòng đăng ký đất đai, Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố C) |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
C HUYỆN CỜ ĐỎ Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
THÀNH PHỐ CẦN THƠ
Bản án số: 56/2024/DS-ST
Ngày: 16-8-2024
V/v: “Tranh chấp ranh giới
giữa các bất động sản liền kề”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CỜ ĐỎ, THÀNH PHỐ CẦN THƠ
- Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Võ Trung Hậu
Các Hội thẩm nhân dân: 1. Ông Trần Thanh Vũ
2. Ông Phạm Hồng Lưu
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Giai Thoại – Thư ký Tòa án nhân dân
huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ tham
gia phiên tòa: Ông Lưu Quốc Phú – Kiểm sát viên.
Ngày 16 tháng 8 năm 2024, Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần
Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 51/2024/TLST-DS ngày 04
tháng 3 năm 2024, về việc “Tranh chấp ranh giới giữa các bất động sản liền kề” theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 304/2024/QĐXXST-DS ngày 26 tháng 7 năm
2024, giữa các bên đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Phạm Quí B, sinh năm 1949
Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện C, thành phố Cần Thơ.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn B1, sinh năm 1976
Địa chỉ: Số A, ấp T, xã T, huyện C, thành phố Cần Thơ.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Phan Ngọc V, sinh năm 1977.
Địa chỉ: Số A, ấp T, xã T, huyện C, thành phố Cần Thơ.
Các đương sự đều có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG V N:
Phần trình bày của nguyên đơn theo đơn khởi kiện, quá trình tố tụng và tại
phiên tòa sơ thẩm như sau:
Đầu năm 2007 ông Nguyễn Văn B1 có bán cho ông phần đất dài 30,20m -
30,90m, ngang 5m hai đầu tổng diện tích 149.0 m² đến tháng 8/2015 thì ông và ông

2
B1 vào xã thống nhất với địa chính để xin được tách thửa và đã được địa chính xã đo
đạc làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông số thửa 1056, tờ bản đồ 13, đất
tọa lạc tại ấp T, xã T, huyện C, thành phố Cần Thơ. Đất của ông từ khi mua đến nay
chưa xây dựng và bán cho ai, đến cuối năm 2022 ông B1 cất nhà sau và đường đi thì
đất ông mất 0,50m bề ngang, hiện tại còn 4,5m. Ông có thỏa thuận với ông B1 là đất
ông thiếu, ông B1 không chịu, nói bán rồi là không còn trách nhiệm mà bảo ông lấy
đất của ông Võ Văn N cùng giáp ranh với ông .
Hòa giải không thành, ông và ông B1 có đo thử phần đất đường đi của ông B1
lấn ranh của tôi là chắc chắn, còn phần đất của ông Võ Văn N không có bán cho ông
trụ ranh đất cấm được xây rất lâu trước khi ông làm giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, lúc đo đạc ông B1 đứng chỉ ranh đất cho địa chính đi thẳng chiều dài, cấm mốc
04 gốc để tách đất chỉ ranh cho ông.
Nay, ông mất đất cũng vì lý do ranh phía sau hiện không còn, đến nay ông cất
nhà đo lại đất thì đất thiếu 0,50m ngang và dài 18m. Ông yêu cầu Tòa án nhân dân
huyện Cờ Đỏ giải quyết buộc ông Nguyễn Văn B1 phải giao trả phần đất diện tích
9m² ngang 0,5m dài 18m thuộc thửa 1056, tờ bản đồ số 13 tọa lạc ấp T, xã T, huyện
C, thành phố Cần Thơ mà nhà nước đã cấp cho ông và công nhận quyền sử dụng đất
149,0m² thửa đất 1056, tờ bản đồ số 13 tọa lạc ấp T, xã T, huyện C, thành phố Cần
Thơ thuộc quyền sử dụng đất của ông.
Phần trình bày của bị đơn trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa sơ thẩm
như sau:
Phần đất ông đang sử dụng có nguồn gốc từ cha mẹ để lại, sau đó ông bán lại
cho ông Nguyễn Văn B2 ngang 05 mét (ông B2 là anh ruột ông), ông B2 chuyển
nhượng lại cho ai thì ông không biết. Đến năm 2015, ông Phạm Quí B đến mượn
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để tách đất ra cho ông Phạm Quí B. Việc ông
Phạm Quí B trình bày ông lấn đất của ông B diện tích 9m² ngang 0,5m dài 18m thì
ông không đồng ý.
Phần quyền sử dụng đất ông đang sử dụng đã có giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất chiều ngang 8,53 mét và đã xây dựng theo đúng diện tích giấy chứng nhận.
Nếu ông có lấn chiếm diện tích như ông Phạm Quí B nêu trên thì ông hoàn toàn chịu
trách nhiệm và trả lại đất cho nguyên đơn ông B.
Phần trình bày của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Phan Ngọc
V trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa như sau:
Bà thống nhất với phần trình bày của ông Nguyễn Văn B1 (chồng bà). Quyền
sử dụng đất bà và ông B1 đang sử dụng có nguồn gốc từ cha mẹ để lại, sau đó vợ
chồng bà bán lại cho ông Nguyễn Văn B2 ngang 05 mét (ông B2 là anh ruột của ông
Nguyễn Văn B1), ông B2 chuyển nhượng lại cho ai thì bà không biết. Đến năm

3
2015, ông Phạm Quí B cùng vợ chồng bà đến Ủy ban nhân dân xã ký chuyển
nhượng để tách quyền sử dụng đất cho ông Phạm Quí B. Việc ông Phạm Quí B
trình bày chồng bà lấn đất của ông B thì bà không đồng ý. Vợ chồng bà không lấn
đất của ông Phạm Quí B chỉ sử dụng đủ diện tích của ông bà.
Tại phiên tòa hôm nay,
Nguyên đơn ông Phạm Quí B trình bày, ông vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện
buộc phía bị đơn phải trả lại phần đất lấn chiếm. Ông thống nhất với bản trích đo địa
chính số 429/VPĐKĐĐ ngày 22/7/2024 của Văn phòng Đăng ký Đất đai, Sở Tài
nguyên và Môi trường thành phố C. Yêu cầu bị đơn trả lại phần đất lấn ranh tại vị trí
(A) trong bản trích đo với tổng diện tích 9,8m
2
.
Bị đơn ông Nguyễn Văn B1 trình bày, ông không đồng ý với yêu cầu của
nguyên đơn ông Phạm Quí B. Ông thống nhất với bản trích đo địa chính số
429/VPĐKĐĐ ngày 22/7/2024 của Văn phòng Đăng ký Đất đai, Sở Tài nguyên và
Môi trường thành phố C. Tuy nhiên, khi đối chiếu giữa diện tích đo đạc thực tế với
diện tích trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông thì ông sử dụng đủ đất
và không có lấn chiếm đất của nguyên đơn.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phan Ngọc V trình bày, Bà thống
nhất với phần trình bày của ông Nguyễn Văn B1 (chồng bà). Vợ chồng bà không lấn
đất của ông Phạm Quí B chỉ sử dụng đủ diện tích của ông bà.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cờ Đỏ phát biểu ý kin: Việc tuân
theo pháp luật về tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký,
việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến
nay là đúng theo quy định của pháp luật về tố tụng; Tòa án thụ lý và xét xử đúng
quan hệ pháp luật tranh chấp. Tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử, đương sự
thực hiện đúng theo quy định của pháp luật tố tụng.
Về nội dung vụ án: Căn cứ vào chứng cứ trong hồ sơ vụ án và kết quả đo đạc
thực tế thể hiện qua bản trích đo địa chính số 429/VPĐKĐĐ ngày 22/7/2024 của
Văn phòng đăng ký đất đai thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố C thể hiện
phần đất thửa 960 ông Nguyễn Văn B1 đang sử dụng có diện tích 242,3m² (chiều
ngang cạnh trước 8,54m và chiều ngang cạnh sau 7,9m), so với giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất được cấp diện tích 263m², giảm 20,7m², nếu cộng phần đất tranh
chấp diện tích 9,8m² thì vẫn thiếu 10,9 m
2
, chiều ngang cạnh sau nếu cộng thêm 0,64
mét thì chiều ngang cạnh sau 8,54 mét đúng với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
được cấp. Thửa 1056 ông Phạm Quí B đang sử dụng có diện tích 146,4m², so với
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp 149m², giảm 2,6m², nếu cộng phần đất
tranh chấp diện tích 9,8m², thừa 7,2m², chiều ngang cạnh sau 4,82m, nếu cộng thêm
0,64m thì chiều ngang cạnh sau dài 5,46m, cạnh ngang sau thừa 0,46m, cạnh ngang

4
trước thừa 0,1m. Đối với cạnh chiều ngang phía sau nguyên đơn cho rằng khi đo đạc
giao đất không tính khoảng trống chiều ngang hơn 0,6m tiếp giáp với ranh của ông
N nên cạnh ngang sau của nguyên đơn không đủ 5m và ranh khi cấp giấy là đường
thẳng, không đúng với hiện trạng đo đạc thực tế, tuy nhiên không có chứng cứ gì
chứng minh, bị đơn không thừa nhận, hồ sơ cấp giấy cho thửa 1056 xác định ranh
tiếp giáp thửa 275 của ông N. Từ đó xác định phần diện tích đất thửa 960 ông
Nguyễn Văn B1 đang sử dụng là đúng với giấy chứng nhận quyền sử dụng được cấp
về cạnh chiều ngang trước và ngang sau cũng như về diện tích thửa đất mặc dù có
thiếu, nên yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Quí B yêu cầu bị đơn ông Nguyễn Văn
B1 trả lại phần đất tranh chấp 9,8m² là không có cơ sở chấp nhận. Từ những phân
tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn ông Phạm Quí B đối với bị đơn ông Nguyễn Văn B1 yêu cầu trả lại phần diện
tích đất 9,8 m
2
(vị trí A) theo bản trích đo địa chính số 429/VPĐKĐĐ ngày
22/7/2024.
NHN ĐNH CỦA TÒA N:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn
ông Phạm Quí B khởi kiện yêu cầu buộc bị đơn ông Nguyễn Văn B1 trả lại phần đất
đã lấn chiếm mà nguyên đơn đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Quan
hệ pháp luật được xác định là “Tranh chấp ranh giới giữa các bất động sản liền kề”
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ
theo quy định tại khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phạm Quí B: Căn cứ vào các
tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như lời trình bày của các bên đương sự
thể hiện vào năm 2007, bị đơn có bán cho nguyên đơn quyền sử dụng đất tại phần
đất có chiều dài lần lượt là 30,20m và 30,90m, ngang 5m hai đầu với tổng diện tích
là 149.0m², tọa lạc tại ấp T, xã T, huyện C, thành phố Cần Thơ. Đến tháng 8 năm
2015 thì các bên đương sự đã hoàn thành các thủ tục tách thửa và cơ quan đăng ký
đất đai đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất riêng cho nguyên đơn, bị đơn.
Nguyên đơn trình bày, từ khi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đến nay thì
chưa xây dựng và bán cho ai, đến cuối năm 2022, bị đơn xây dựng nhà sau và đường
đi thì đất nguyên đơn mất 0,50m chiều ngang, hiện tại chiều ngang chỉ còn 4,5m. Bị
đơn trình bày chỉ sử dụng đủ diện tích quyền sử dụng đất, không có lấn chiếm đất
của nguyên đơn.

5
[2.2] Ngày 23/4/2024, Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ đã thành lập Đoàn thẩm
định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản tranh chấp. Theo kết quả đo đạc thực tế thông
qua Bản trích đo địa chính số 429/VPĐKĐĐ ngày 22/7/2024 của Văn phòng Đăng
ký đất đai, Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố C thể hiện tổng diện tích quyền
sử dụng đất của nguyên đơn tại thửa 1056, bị đơn tại thửa 960 so với giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (gọi
chung là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) đều thiếu. Trong bản trích đo địa
chính thể hiện phần đất tranh chấp tại vị trí (A) có diện tích 9,8 m
2
(hình tam giác,
cạnh đáy dài 0,64m). Xét thửa 960 của bị đơn ông Nguyễn Văn B1 đang sử dụng có
diện tích thực tế là 242,3m² (chiều ngang cạnh trước là 8,54m và chiều ngang cạnh
sau là 7,9m), so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp có diện tích là
263m² thì đã giảm 20,7m², nếu cộng phần đất tranh chấp có diện tích 9,8m² thì vẫn
thiếu 10,9m
2
, chiều ngang cạnh sau nếu cộng thêm 0,64 mét thì chiều ngang cạnh
sau là 8,54 mét đúng với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp cho ông
Nguyễn Văn B1.
[2.3] Nguyên đơn trình bày đã nhận chuyển nhượng của bị đơn phần đất có
chiều ngang là 5m hai đầu, chiều dài lần lượt 30,20m và 30,90m, tổng diện tích
149.0m². Xét thửa đất số 1056 của nguyên đơn ông Phạm Quí B đang sử dụng có
diện tích thực tế là 146,4m², so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp có
diện tích là 149m² thì đã giảm 2,6m², nếu cộng phần đất tranh chấp có diện tích là
9,8m² thì thừa 7,2m², chiều ngang cạnh sau thực tế là 4,82m, nếu cộng thêm 0,64m
thì chiều ngang cạnh sau dài 5,46m nên cạnh ngang sau sẽ thừa 0,46m, còn cạnh
ngang trước có kích thước thực tế là 5,10m nên thừa 0,1m. Mặt khác, tại bản mô tả
ranh giới, mốc giới ngày 12/8/2015 (bút lục số 19) thể hiện chiều dài giáp ranh thửa
960, chiều dài giáp ranh thửa 275 là đường thẳng.
[2.4] Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy nguyên đơn chưa
chứng minh được bị đơn vi phạm ranh giới sử dụng đất giữa hai bất động sản liền kề
có diện tích 9,8 m
2
như nguyên đơn đã trình bày nên không có cơ sở để được chấp
nhận yêu cầu khởi kiện.
[3] Từ những nhận định nêu trên, xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân
dân huyện Cờ Đỏ trình bày tại phiên tòa là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Về chi phí tố tụng (chi phí thẩm định tại chỗ, đo đạc, định giá): Nguyên
đơn phải chịu và đã chi xong số tiền 4.500.000 đồng.
[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 1 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng
dân sự; khoản 2 Điều 26, điểm a khoản 2 Điều 27 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

6
Nguyên đơn ông Phạm Quí B phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, tuy nhiên ông B
được miễn án phí do ông là người cao tuổi.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐNH:
Căn c:
- Khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39, khoản 1
Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 229, Điều 235, Điều 266, Điều 271, khoản 1
Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Khoản 2 Điều 164, khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Khoản 1 Điều 26, khoản 5 Điều 166, khoản 5 Điều 98, Điều 202, Điều 203
của Luật Đất đai năm 2013.
- Khoản 2 Điều 26, điểm a khoản 2 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/
UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức
thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phạm Quí B về
việc yêu cầu bị đơn ông Nguyễn Văn B1 trả lại 9,8 m
2
đất lấn chiếm.
(Kèm theo Bản trích đo địa chính số 429/VPĐKĐĐ ngày 22/7/2024 của Văn
phòng đăng ký đất đai, Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố C)
2. Về chi phí tố tụng: Chi phí thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá nguyên
đơn phải chịu là 4.500.000 đồng (Bốn triệu năm trăm ngàn đồng). Nguyên đơn đã
chi xong nên không phải nộp thêm.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn ông Phạm Quí B được miễn án phí
dân sự sơ thẩm theo quy định.
4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu
Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử phúc thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật
thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THM
THM PHN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Võ Trung Hậu
Nơi nhận:
- TAND TP.Cần Thơ;
- Viện kiểm sát ND H. Cờ Đỏ;
- Chi cục THADS H. Cờ Đỏ;
- Đương sự;
- Lưu.
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Bản án số 152/2025/DS-PT ngày 10/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Bản án số 144/2025/DS-PT ngày 06/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 05/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 03/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Bản án số 107/2025/DS-PT ngày 25/02/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm