Bản án số 104/2025/DS-PT ngày 25/02/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 104/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 104/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 104/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 104/2025/DS-PT ngày 25/02/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Dương |
Số hiệu: | 104/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 25/02/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Trong vụ án, thửa 860 và thửa 77 đều bị thiếu diện tích so với diện tích đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Theo các văn bản của các cơ quan chuyên môn về địa chính đều không có bất kỳ ý kiến nào về ranh giới giữa thửa 860 và thửa 77. Như vậy, đối chiếu về hình thể cũng như diện tích đất thì thửa 860 của nguyên đơn và thửa 77 của bị đơn theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đo đạc thực tế đều không giống nhau. Việc đo đạc cũng không thể tiến hành áp ranh để xác định diện tích tranh chấp là phần đất của nguyên đơn và bị đơn. Do đó, trong trường hợp này, để xác định ranh giới thì phải căn cứ vào hiện trạng sử dụng đất thực tế cũng như quá trình quản lý, sử dụng giữa các bên qua từng thời kỳ và sự thừa nhận của các bên trong quá trình giải quyết vụ án để xác định ranh giới của thửa 860 và thửa 77. Toà án cấp phúc thẩm xét thấy không có căn cứ cho thấy ông H2 lấn ranh đất, chiếm đất như yêu cầu khởi kiện của bà H. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 104/2025/DS-PT
Ngày: 25-02-2025
V/v tranh chấp
quyền sử dụng đất (ranh đất)
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Trung Dũng;
Các Thẩm phán: Bà Nguyễn Thị Duyên Hằng;
Bà Đinh Thị Mộng Tuyết.
- Thư ký phiên tòa: Ông Trần Ngọc Hoàng Quân - Thư ký Tòa án nhân
dân tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa:
Bà Trần Thị Phước - Kiểm sát viên.
Trong ngày 18 và 25 tháng 02 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 527/2024/TLPT-
DS ngày 29/10/2024 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 125/2024/DS-ST ngày 06/9/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2025/QĐ-PT ngày 10 tháng 01
năn 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thanh H, sinh năm 1981; địa chỉ: Tổ A, khu
phố K, phường T, thành phố T, tỉnh B; có mặt.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Dương H1, sinh năm 1979;
địa chỉ: 8 N, phường P, thành phố T, Thành phố H; có mặt.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn H2, sinh năm 1963; địa chỉ: Tổ D, khu phố T,
phường T, thành phố T, tỉnh B.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Hoàng Trọng Đ, sinh năm 1982;
địa chỉ thường trú: B N, phường T, quận G, Thành phố H; địa chỉ liên hệ: Công
ty L2 – Chi nhánh T1, tổ A, khu phố E, phường U, thành phố T, tỉnh B (Văn bản
ủy quyền ngày 16/12/2024); có mặt.
2
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1963; địa chỉ: Tổ D, khu phố T, phường T,
thành phố T, tỉnh B; có đơn xin vắng mặt.
2. Bà Nguyễn Thị Hồng A, sinh năm 1977; địa chỉ: Số A đường D, tổ G,
khu phố A, phường P, thành phố T, tỉnh B; có mặt.
3. Ông Huỳnh Văn S, sinh năm 1969; địa chỉ: Số A đường D, tổ G, khu phố
A, phường P, thành phố T, tỉnh B; có mặt.
4. Ủy ban nhân dân phường T, thành phố T, tỉnh B; có đơn xin vắng mặt.
5. Ủy ban nhân dân thành phố T, tỉnh B;
Người đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Tấn L – Trưởng phòng Tài nguyên
và Môi trường thành phố T; có đơn xin vắng mặt.
- Người kháng cáo: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thanh H; bị đơn ông
Nguyễn Văn H2; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị N.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Đơn khởi kiện ngày 05/01/2021, lời khai trong quá trình giải quyết vụ
án, nguyên đơn và người đại diện hợp pháp cho nguyên đơn – ông Dương H1
trình bày:
Bà H là người quản lý, sử dụng thửa 860, tờ bản đồ 7 tại phường T. Nguồn
gốc thửa 860 do bà H nhận chuyển nhượng từ bà Nguyễn Thị Hồng A và ông
Huỳnh Văn S vào ngày 20/7/2009. Khi nhận chuyển nhượng không qua đo đạc
thực tế, bà Hồng A chỉ ranh và nhận thấy ranh đất trên thực tế phù hợp với hình
thể thửa đất trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tại thời điểm nhận chuyển
nhượng, thửa 860 có tứ cận như sau: Hướng Đông có hàng rào mống gạch cao
20cm và kéo lưới B40 để phân ranh với thửa 77 của ông H2, hướng Bắc giáp thửa
783 của ông Nguyễn Quốc S1 vẫn còn cọc xi măng và lưới B40 (cọc xi măng có
trước khi bà H nhận chuyển nhượng, sau này bà H kéo lưới rào B40), cạnh hướng
Tây giáp thửa 1149, 72 của ông Nguyễn Văn D có hai cọc hai đầu (hiện nay được
phân ranh bằng vách nhà thiết của ông D và cọc hai đầu thửa đất vẫn còn), hướng
Nam có hai cọc mốc bằng xi măng (hiện tại hai cọc mốc này do lúc làm mương
thì bị mất). Sau khi nhận chuyển nhượng, bà H trồng cây huỳnh đường hết đất và
trên đất có một cây gõ đỏ đã lớn có trước khi bà H nhận chuyển nhượng. Sau này,
cây gõ đỏ này chết thì ông H2 mới xây dựng dãy nhà trọ trên phần đất tranh chấp.
Tại thời điểm thẩm định ngày 14/5/2024 thửa 860 có tứ cận như sau: cạnh
hướng Bắc giáp thửa 783 của ông Lê Quốc S2 vẫn còn cọc xi măng và lưới B40
(không thay đổi so với thời điểm bà H nhận chuyển nhượng), cạnh hướng Tây
giáp thửa 1149, 72 của ông Nguyễn Văn D có hai cọc hai đầu, hiện nay được phân
ranh bằng vách nhà thiết của ông D, hướng Nam giáp đường mương bị mất cọc,
hướng Đông giáp thửa 77 của ông H2 bị mất cọc (khi đo đạc thì bà H đến xác
định vị trí cọc mốc cũ trên phần đất tranh chấp).
3
Đến năm 2020, bà H tiến hành thủ tục xin chuyển mục đích quyền sử dụng
đất thì mới phát hiện đất bị lấn chiếm và hiện ông H2 đã xây dựng nhà trọ trên
phần đất bị lấn chiếm. Do đó, bà H khởi kiện yêu cầu ông H2 trả lại diện tích
250m
2
. Theo kết quả đo đạc thực tế phần đất tranh chấp có diện tích là 173,3m
2
do đó bà H thay đổi yêu cầu khởi kiện yêu cầu ông H2 trả lại quyền sử dụng đất
diện tích 173,3m
2
thuộc thửa 860, tờ bản đồ số 7 tại phường T, thành phố T, tỉnh
B. Phần đất tranh chấp có tứ cận như sau: Phía Đông giáp thửa 77 của ông H2,
phía Tây giáp thửa 860 của bà H, phía Bắc giáp thửa 783, phía Nam giáp thửa 860
và 77, đồng thời tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn đề nghị
bị đơn tháo dỡ di dời dãy nhà trọ trên đất.
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa ông Nguyễn Văn H2 trình bày
như sau:
Ông Nguyễn Văn K là cha của ông Nguyễn Văn H2. Khi còn sống, ông K
kê khai và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào số 00387
QSDĐ/TU ngày 27/01/1999 đối với thửa 77, tờ bản đồ số 7 tại phường T (Nay là
thửa 77, tờ bản đồ số 7 tại phường T) cho hộ ông Nguyễn Văn K với diện tích
5.042m
2
. Sau khi ông K chết, khoảng năm 2001-2002, các chị em của ông H2
tranh chấp thừa kế đối với thửa 77. Sau đó, các bên đã hòa giải ông H2 được nhận
thừa kế thửa 77 và thanh toán lại bằng giá trị cho các chị em trong gia đình. Ông
H2 và bà N được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ H00778 ngày
09/8/2006 đối với thửa 77 với diện tích 5.042m
2
nhưng không qua đo đạc thực tế.
Ranh thửa 860 và 77 là hàng cây thò đo, cây lồng mứt (Hàng cây này có trước
năm 1945 nên không xác định được ai trồng) và hàng rào bằng cây xương rồng.
Năm 2004, ông H2 chặt hàng cây thò đo, dỡ hàng rào bằng cây xương rồng để
xây dựng hàng rào hiện tại. Khi xây dựng hàng rào, ông H2 có mời ông Nguyễn
Văn R (Là chủ thửa 860 cha của bà Nguyễn Thị Hồng A) và con trai của ông R là
ông Nguyễn Kim H3 để xác định ranh đất. Ông H2 xây dựng mống hàng rào cao
khoảng 50cm kéo lưới B40 trồng trụ bê tông trên hàng rào cũ. Năm 2011, ông H2
xây dựng nhà trọ sát với hàng rào cũ, chỉ tháo dỡ phần lưới B40 trên hàng rào ra.
Đến năm 2014 do nước dưới mương bốc hơi lên làm mục hàng rào lưới B40 nên
ông H2 tháo dỡ phần hàng rào lưới B40 để xây dựng hàng rào mới trên phần mống
hàng rào cũ. Kể từ năm 2014 đến nay, ông H2 không xây dựng gì thêm trên phần
đất tranh chấp.
Đối với cạnh hướng Nam của thửa 77 giáp mương nước. Trước năm 1975
cạnh hướng nam của thửa 77 giáp với đường xe bò có chiều rộng khoảng 04m,
ông K có làm hàng rào phân ranh là hàng rào kẽm gai. Sau này khoảng những
năm 2000 cho đến nay do nước mưa, nước thải công nghiệp và nước thải nhà trọ
thải ra thì con đường này không còn ai đi lại nữa và hình thành con mương thoát
nước. Năm 2003, ông Hòa L1 lại hàng rào xây mống gạch cao 40cm, trụ xi măng
kéo lưới B40 trên vị trí hàng rào cũ. Từ thời ông bà để lại thửa 77 cho ông K, sau
đó để lại cho ông H2 thì vị trí hàng rào hàng cạnh hướng Nam của thửa 77 không
thay đổi.
4
Lý do thửa 77 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H2
diện tích 5.042m
2
nhưng theo kết quả đo đạc thực tế thì thửa 77 là 4.537,6m
2
(Trong đó có diện tích không tranh chấp là 4.364,3m
2
và diện tích tranh chấp là
173,3m
2
) là do trước đây thửa 77 cấp cho ông Nguyễn Văn K cấp không qua đo
đạc thực tế, đến khi ông H2 được nhận thừa kế thì vẫn không đo đạc thực tế. Ông
H2 xác định phần diện tích thửa 77 là 4.537,6m
2
là phần đất ông H2 sử dụng ổn
định từ thời ông bà để lại.
Năm 2011, ông H2 xây dựng nhà trọ không có xin giấy phép xây dựng cũng
như giấy phép kinh doanh bởi vì thời điểm năm 2011 tỉnh B có chủ trương cho
phép xây dựng nhà trọ để cải thiện đời sống nhân dân. Nếu xây dựng dưới 09 căn
nhà trọ thì không cần phải xin phép (Mỗi người trong một hộ được xây dựng 09
căn khi đó gia đình ông H2 có 04 người thì được xây dựng 36 căn). Thời điểm
năm 2011 ông H2 xây dựng khoảng 20 căn phòng trọ.
Khi bà Hồng A được tặng cho thửa 860 thì có cắm cọc ranh tại đầu trên
giáp thửa 783 của ông Lê Quốc S2 (Hiện cọc này vẫn còn) và cắm cọc đầu dưới
cạnh hướng Nam của thửa 860 cách hàng rào của ông H2 là 50cm nhưng khi Tòa
án đến đo đạc vào ngày 14/5/2024 thì cọc mốc cạnh hướng Bắc vẫn còn nhưng
cọc mốc cạnh hướng Nam thì đã mất.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – bà Nguyễn Thị N trình bày: Thống
nhất với lời trình bày của ông H2.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – bà Nguyễn Thị Hồng A trình bày:
Nguồn gốc thửa 860 tờ bản đồ số 7 tại phường T do cha mẹ của bà A tặng cho bà
A và ông S. Năm 2009, bà A chuyển nhượng cho bà H với số tiền là 130.000.000
đồng. Hiện trạng lúc chuyển nhượng đất là hàng rào và chưa xây dựng nhà trọ.
Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy
ban nhân dân thành phố T là ông Nguyễn Tấn L – Trưởng phòng Tài nguyên và
Môi trường trình bày:
- Thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ H04929
ngày 10/8/2009 đối với thửa 860 tờ bản đồ số 7 tại phường T cho bà Nguyễn Thị
Thanh H không qua đo đạc thực tế.
Nguồn gốc thửa 860 bà H nhận chuyển nhượng từ bà Nguyễn Thị Hồng A
và ông Huỳnh Văn S (theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
20/7/2009 có chứng thực của UBND xã (nay là phường) T). Tại thời điểm cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ H00756 ngày 08/8/2006 đối với
thửa 860 tờ bản đồ số 7 tại phường T cho bà Nguyễn Thị Hồng A và ông Huỳnh
Văn S có đo đạc thực tế, thửa 860 được tách từ thửa 72 (Theo Biên bản trích đo
ngày 06/6/2006).
Việc có một phần thửa 860 nằm trong vị trí mương theo Mảnh trích lục địa
chính ngày 25/6/2024 thì Ủy ban nhân dân thành phố T không có ý kiến, đề nghị
Tòa án xem xét, giải quyết theo quy định pháp luật.
5
Thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ H00778 ngày
09/8/2006 đối với thửa 77 tờ bản đồ số 7 tại phường T cho ông Nguyễn Văn H2
và bà Nguyễn Thị N không qua đo đạc thực tế.
Ông H2, bà N được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa
77 trên cơ sở nhận thừa kế (Biên bản hòa giải thành ngày 29/3/2006).
Theo quy hoạch sử dụng đất đến năm 2030 thì thửa 77 tờ bản đồ số 7 (nay
là tờ bản đồ 33 có quy hoạch là đất ODT.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – ông Nguyễn Văn S3: Không có
ý kiến trình bày về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 125/2024/DS-ST ngày 06/9/2024, Tòa án
nhân dân thành phố T, tỉnh B đã quyết định:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Thanh H.
- Buộc ông Nguyễn Văn H2 phải thanh toán cho bà Nguyễn Thị Thanh H
số tiền 762.520.000 (Bảy trăm sáu mươi hai triệu, năm trăm hai mươi nghìn) đồng.
- Ông Nguyễn Văn H2 được quyền quản lý, sử dụng diện tích 173,3m
2
có
tứ cận: Phía Đông giáp thửa 77, phía Tây giáp thửa 860, phía Bắc giáp thửa 77,
phía Nam giáp thửa 77.
Các đương sự có nghĩa vụ liên hệ cơ quan nhà nước có thẩm quyền để cập
nhật biến động giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất diện tích
173,3m
2
.
(Có Sơ đồ bản vẽ kèm theo)
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi
thi hành xong, nếu người phải thi hành án chậm thi hành thì còn phải chịu tiền lãi
theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, trách nhiệm thi hành
án và quyền kháng cáo cho các đương sự.
Sau khi có bản án sơ thẩm, ngày 09/9/2024 bị đơn ông Nguyễn Văn H2
kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm và đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại
vụ án theo thủ tục phúc thẩm. Ngày 30/9/2024, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thanh
H kháng cáo một phần bản án sơ thẩm và đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa một
phần quyết định trong bản án sơ thẩm buộc bị đơn tháo dỡ phần công trình xây
dựng trái phép và trả lại 173,3m
2
bị lấn chiếm cho nguyên đơn. Ngày 25/9/2024,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị N kháng cáo toàn bộ bản
án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và
yêu cầu kháng cáo; bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo; người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn xin xét xử vắng mặt và vẫn giữ nguyên yêu cầu
kháng cáo; các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ
án.
6
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn ông Dương H1 trình bày về yêu
cầu kháng cáo: Nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét
xử đình chỉ kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm số
125/2024/DS-ST ngày 06/9/2024, Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn ông Hoàng Trọng Đ trình bày về yêu
cầu kháng cáo: Kháng cáo của ông H2 đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm không chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và sửa bản án dân sự sơ thẩm.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa:
Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đã thực hiện
đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.
Về nội dung: Tại phiên tòa, nguyên đơn và người đại diện hợp pháp của
nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ xét
xử phúc thẩm đối với việc nguyên đơn rút kháng cáo. Đối với kháng cáo của bị
đơn ông H2 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà N, căn cứ vào tài liệu,
chứng cứ có tại hồ sơ, lời trình bày của các đương sự, xét thấy kháng cáo của bị
đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có căn cứ chấp nhận. Do đó,
đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm
tra tại phiên tòa, kết quả tranh tụng của các đương sự tại phiên tòa, ý kiến đại diện
Viện kiểm sát,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thanh H, bị đơn ông
Nguyễn Văn H2 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị N là
trong thời hạn luật định. Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm thụ lý giải quyết theo quy
định của pháp luật.
[1.2] Quá trình tố tụng tại cấp phúc thẩm, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan bà Nguyễn Thị N và người đại diện hợp pháp cho Ủy ban nhân dân thành
phố T là ông Nguyễn Tấn L và Ủy ban nhân dân phường T có đơn yêu cầu giải
quyết vắng mặt. Xét thấy, các đương sự vắng mặt đã cung cấp lời khai, chứng cứ
tại cấp sơ thẩm. Căn cứ vào Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa
án cấp phúc thẩm tiến hành xét xử vắng mặt bà N, Ủy ban nhân dân thành phố T
và Ủy ban nhân dân phường T.
[1.3] Tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn rút toàn bộ
yêu cầu kháng cáo, đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm. Xét thấy, việc rút toàn bộ
kháng cáo này là hoàn toàn tự nguyện. Căn cứ theo Điều 298 của Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015, Tòa án cấp phúc thẩm (Hội đồng xét xử) đình chỉ xét xử đối
với yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thanh H.
[1.4] Theo đơn kháng cáo ngày 25/9/2024, bà Nguyễn Thị N kháng cáo cho
rằng bà và ông H2 là vợ chồng và cùng đứng tên đối với tài sản là quyền sử dụng
7
đất có tranh chấp nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không cho bà tham gia vụ án với tư
cách bị đơn. Xét thấy, theo đơn khởi kiện ngày 05/01/2021, bà H chỉ khởi kiện
đối với ông Nguyễn Văn H2. Căn cứ theo khoản 3 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015, chỉ có ông H2 được xác định là bị đơn, tức người bị nguyên đơn
khởi kiện. Ngoài ra, bà N cho rằng bà không được tham gia thủ tục hòa giải tranh
chấp quyền sử dụng đất là điều kiện để thụ lý vụ án theo quy định của pháp luật
tố tụng. Tuy nhiên, căn cứ theo Biên bản hòa giải ngày 25/12/2020, xét thấy việc
hòa giải đã được tiến hành hợp lệ với sự có mặt của các bên tranh chấp là bà
Nguyễn Thị Thanh H và ông Nguyễn Văn H2 theo Điều 202 Luật Đất đai năm
2013 và Điều 88 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật Đất đai; và kết quả hòa giải được ghi nhận là không
thành. Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý giải quyết vụ án là phù hợp theo quy định của
pháp luật. Do đó, các kháng cáo trên của bà N là không có cơ sở để chấp nhận.
[1.5] Căn cứ vào đơn khởi kiện của nguyên đơn bà H yêu cầu bị đơn ông
H2 trả lại phần đất diện tích diện tích 250m
2
(qua đo đạc thực tế là 173,3m
2
) thuộc
quyền quản lý, sử dụng của nguyên đơn. Bà H cho rằng ông H2 đã lấn chiếm phần
đất của mình, xây dựng hàng rào và dãy nhà trọ trên phần đất tranh chấp 173,3m
2
nên bà H yêu cầu ông H2 phải trả lại phần diện tích 173,3m
2
và ông H2 có trách
nhiệm tự thanh lý, di dời toàn bộ tài sản của ông H2 xây dựng trái phép trên phần
đất tranh chấp. Bị đơn ông H2 không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn, ông xác định phần đất tranh chấp 173,3m
2
là do ông nhận thừa kế từ cha của
mình là ông Nguyễn Văn K, ranh giới đất bị đơn sử dụng đúng với hiện trạng từ
năm 2004 và bị đơn không lấn chiếm đất của nguyên đơn. Như vậy, căn cứ vào
yêu cầu khởi kiện thì nguyên đơn tranh chấp ranh giới giữa các bất động sản liền
kề với bị đơn theo quy định tại Điều 175 của Bộ luật Dân sự năm 2015 nên quan
hệ pháp luật tranh chấp được xác định là “Tranh chấp quyền sử dụng đất (ranh
đất)”. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm xác định lại quan hệ pháp luật tranh chấp
của vụ án là “Tranh chấp quyền sử dụng đất (ranh đất)”.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Về nguồn gốc thửa đất:
[2.1.1] Đối với thửa đất số 860, tờ bản đồ số 7 (nay là tờ bản đồ số 33) tại
phường T, thành phố T, tỉnh B: Theo lời khai của bà Nguyễn Thị Thanh H, thửa
đất này có nguồn gốc do Nguyễn Thị Hồng A nhận tặng cho từ ông Nguyễn Văn
R, được cập nhật biến động vào ngày 14/8/2006, sau đó bà H nhận chuyển nhượng
từ bà Nguyễn Thị Hồng A và ông Nguyễn Văn S3 vào ngày 20/7/2009 và được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 10/8/2009. Khi bà H nhận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ bà A, ông S3 thì các bên không đo đạc thực
tế, bà A chỉ ranh và các bên chỉ giao dịch theo hình thể thửa đất trên Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất.
Xét thấy, lời khai của bà H là phù hợp theo hồ sơ cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số AĐ 782979, số vào sổ cấp GCN: H 00756 do Ủy ban nhân
dân huyện T (nay là thành phố T) cấp ngày 08/8/2006 cho bà Nguyễn Thị Hồng
8
A và ông Huỳnh Văn S và hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO
952576, số vào sổ cấp GCN: H 04929 do Ủy ban nhân dân huyện T (nay là thành
phố T) cấp ngày 10/8/2009 cho bà Nguyễn Thị Thanh H.
[2.1.2] Đối với thửa đất số 77, tờ bản đồ số 7 (nay là tờ bản đồ số 33) tại
phường T, thành phố T, tỉnh B: Theo lời khai của ông Nguyễn Văn H2, nguồn
gốc của thửa đất này là do cha của ông Nguyễn Văn K để lại cho ông K. Khi còn
sống ông K đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau khi ông K chết
thì ông H2 được nhận thừa kế quyền sử dụng đất đối với thửa số 77 này.
Xét thấy, lời khai của ông H2 là phù hợp theo hồ sơ cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số K 737403, số vào sổ cấp GCN: 00387QSDĐ/TU do Ủy ban
nhân dân huyện T (nay là thành phố T) cấp ngày 27/01/1999 cho hộ ông Nguyễn
Văn K và hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AĐ 824849, số vào
sổ cấp GCN: H 00778 do Ủy ban nhân dân huyện T (nay là thành phố T) cấp ngày
09/8/2006 cho ông Nguyễn Văn H2 và bà Nguyễn Thị N.
[2.2] Về hiện trạng thửa đất:
[2.2.1] Trong vụ án có hai mảnh trích lục địa chính có đo đạc thực tế thửa 860 và
77 là Mảnh trích lục địa chính có đo đạc thực tế ngày 26/4/2022 và Mảnh trích
lục địa chính có đo đạc thực tế ngày 25/6/2024. Xét thấy, vị trí và tứ cận của thửa
860 và 77 trên hai mảnh trích lục địa chính không có thay đổi. Tuy nhiên, Mảnh
trích lục địa chính có đo đạc thực tế số 153-2022 ngày 26/4/2022 không thể hiện
diện tích đất tranh chấp, trong khi đó, Mảnh trích lục địa chính có đo đạc thực tế
số 342-2024 ngày 25/6/2024 có thể hiện diện tích đất tranh chấp do chính các
đương sự chỉ ranh để lập bản vẽ. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm sử dụng Mảnh trích
lục địa chính có đo đạc thực tế ngày 25/6/2024 để làm căn cứ giải quyết vụ án là
phù hợp.
[2.2.2] Trên phần đất tranh chấp có tài sản của ông H2 gồm: Hàng rào tường
gạch xây tô cao trên 02m x dài 36,28m, dãy nhà trọ cho thuê diện tích 211,5m
2
(trong đó 103,2m
2
thuộc phạm vi đất tranh chấp và 108,3m
2
không tranh chấp),
02 chân trụ bồn nước, 05 cây cao su. Quá trình tố tụng tại cấp phúc thẩm, theo
Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 15/01/2025, qua kiểm tra hiện trạng
thực tế, nguyên đơn và bị đơn thống nhất tài sản trên đất có 06 cây cao su (không
phải 05 cây cao su như trước đây ghi nhận), hàng rào tường gạch tô một bên ở
mặt phía đất của bà H và không tô bên ở mặt phía đất của ông H2, 09 trụ xi măng
nằm giữa tường xây và mốc số 7 theo Mảnh trích lục địa chính có đo đạc thực tế
số 342-2024 ngày 25/6/2024 do nguyên đơn chỉ ranh trước đây không còn. Các
hiện trạng khác trên phần đất tranh chấp vẫn giữ nguyên, không có thay đổi.
[2.3] Về quá trình quản lý, sử dụng thửa đất:
[2.3.1] Căn cứ theo khoản 4 Điều 3 của Luật Đất đai năm 2024, “Thửa đất
là phần diện tích đất được giới hạn bởi ranh giới mô tả trên hồ sơ địa chính hoặc
được xác định trên thực địa”. Tuy nhiên, theo Công văn số 2574/CTNU-KT ngày
16/9/2022 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thị xã T (nay là thành phố
T) (Bút lục 164), phần đất tranh chấp tại thửa đất số 77 và 860 tờ bản đồ số 7
9
thuộc phường T, được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ bản đồ địa chính
được thành lập bằng phương pháp ảnh hàng không theo hệ tọa độ HN-72. Hiện
tại, Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai đang sử dụng phương pháp đo đạc định
vị (GPS) và cập nhật kết quả đo đạc vào bản đồ địa chính đã được đo đạc chỉnh
lý theo hệ tọa độ VN-2000. Vì hai nguồn bản đồ địa chính không cùng hệ tọa độ
nên Chi nhánh Văn phòng không có cơ sở lồng ghép kết quả đo đạc thực tế với
ranh thửa đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
[2.3.2] Mặt khác, theo Mảnh trích lục địa chính có đo đạc thực tế số 342-
2024 ngày 25/6/2024, thửa 860 có diện tích là 929,3m
2
(trong đó 756m
2
không
tranh chấp và 173,3m
2
đang tranh chấp); thửa 77 có diện tích 4.537,6m
2
(trong đó
có 4.364,3m
2
không tranh chấp và 173,3m
2
đang tranh chấp). So với diện tích
được cấp theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì thửa 860 bị giảm 59,7m
2
và
thửa 77 bị giảm 404,6m
2
. Thửa 860 và thửa 77 đều bị thiếu diện tích so với diện
tích đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và nếu tính theo ranh giới
đất do nguyên đơn xác định đo đạc thực tế thì ranh giới không phải là đường thẳng
mà có điểm gãy. Theo Công văn số 1435/UBND-ĐC ngày 05/9/2024 của Ủy ban
nhân dân phường T (bút lục 256 - 257), Công văn số 2761/CNTU-KT ngày
15/8/2024 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố T (bút lục 250)
và Công văn số 1901/PTNMT-ĐĐ ngày 30/7/2024 của Phòng T2 thuộc Ủy ban
nhân dân thành phố T (bút lục 249), các cơ quan chuyên môn về địa chính đều
không có bất kỳ ý kiến nào về ranh giới giữa thửa 860 và thửa 77. Như vậy, đối
chiếu về hình thể cũng như diện tích đất thì thửa 860 của nguyên đơn và thửa 77
của bị đơn theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đo đạc thực tế đều không
giống nhau. Việc đo đạc cũng không thể tiến hành áp ranh để xác định diện tích
tranh chấp là phần đất của nguyên đơn và bị đơn. Do đó, trong trường hợp này,
để xác định ranh giới thì phải căn cứ vào hiện trạng sử dụng đất thực tế cũng như
quá trình quản lý, sử dụng giữa các bên qua từng thời kỳ và sự thừa nhận của các
bên trong quá trình giải quyết vụ án để xác định ranh giới của thửa 860 và thửa
77.
[2.3.3] Theo kết quả đo đạc thực tế tại Mảnh trích lục địa chính có đo đạc
thực tế số 342-2024 ngày 25/6/2024 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai
thành phố T, Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ đất và tài sản trên đất tranh chấp
ngày 14/5/2024 (bút lục 188) và ngày 17/02/2022 (bút lục 53) thì trên phần đất
tranh chấp có nhà cho thuê 211,5m
2
(186,5 m
2
+ 25m
2
) trong đó 103,2m
2
(100,5m
2
+ 2,7m
2
) thuộc phạm vi tranh chấp và chân bồn nước 9m
2
trong đó 2,8m
2
tranh
chấp của của bị đơn. Đối với hàng rào, ông H2 xây dựng năm 2004 trên mống cao
khoảng 50cm, trụ bê tông lưới B40 trên hàng rào cũ, thời điểm này nguyên đơn
chưa nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ bà Nguyễn Thị Hồng A. Đến năm
2009, nguyên đơn mới nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và năm 2011 bị
đơn ông H2 xây dựng nhà trọ sát với hàng rào cũ. Khi bị đơn xây dựng nhà trọ
cũng như xây dựng hàng rào mới trên phần mống cũ, nguyên đơn không có khiếu
nại hay tranh chấp gì. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào hiện trạng sử dụng đất
thực tế để xác định ranh giới giữa thửa 860 và thửa 77 như sau:
10
Theo ghi nhận hiện trạng và kết quả đo đạc thực tế tại Mảnh trích lục địa
chính có đo đạc thực tế số 342-2024 ngày 25/6/2024 của Chi nhánh Văn phòng
Đăng ký đất đai thành phố T thì phần đất tranh chấp tính từ điểm “10” kéo về
điểm “2” hướng Bắc tại cạnh tiếp giáp thửa 783 và thửa 64, vị trí này chính là vị
trí công trình hiện hữu của ông H2, diện tích này phù hợp với thực tế mà nguyên
đơn khi nhận chuyển nhượng thửa 860 đã có hàng rào lưới B40, móng bằng gạch,
tường cao khoảng 30-40cm của bị đơn trên thửa 77. Cụ thể như sau:
+ Từ điểm “1” đến điểm “2” có chiều dài 33,29m.
+ Từ điểm “1” đến điểm “10” có chiều dài 38,04m.
Các điểm trên là ranh giới giữa thửa 860 và thửa. 77. Như vậy, theo sự xác
định này thì trong phần diện tích 173,3m
2
là phần diện tích của bị đơn quản lý, sử
dụng.
[2.3.4] Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn
Thị Hồng A và ông Huỳnh Văn S và người đại diện hợp pháp của bị đơn ông
Hoàng Văn Đ1 trình bày rằng lúc lập hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất vào năm 2006 thì không có yêu cầu ông H2 xác nhận ranh giới đất hay ký giáp
ranh. Điều này là đúng theo Biên bản trích đo bản đồ địa chính ngày 06/6/2006
đều không có chữ ký của ông H2 và bà N. Đồng thời, hồ sơ địa chính để cấp quyền
sử dụng đất cho bà A, ông S cũng không có ý kiến của những người sử dụng đất
liền kề. Như vậy, việc không có ý kiến của các chủ đất giáp ranh với đất của ông
R (nay là đất của bà H) khi lập hồ sơ địa chính đối với thửa 860 là không phù hợp
theo điểm 3.6 khoản 3 Mục I của Thông tư số 29/2004/TT-BTNMT ngày
01/11/2004 của Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn việc lập, chỉnh lý và
quản lý hồ sơ địa chính.
[2.3.5] Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thanh H,
người đại diện hợp pháp của nguyên đơn ông Dương H1 cũng như người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan bà A và ông S trình bày rằng tại thời điểm bà H nhận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ bà A và ông S vào năm 2009 thì các bên
không có đo đạc thực tế, và hiện trạng thời điểm đó đã có hàng rào lưới B40,
móng bằng gạch, tường cao khoảng 30 – 40cm của ông H2. Quá trình tố tụng, bị
đơn ông Nguyễn Văn H2 trình bày năm 2004, ông H2 chặt hàng rào phân ranh là
hàng cây thò đo và hàng rào cây xương rồng để xây dựng mống hàng rào cao
khoảng 50cm và kéo lưới B40 trồng trụ bê tông trên hàng rào phân ranh cũ, đến
năm 2011, ông H2 dỡ hàng rào này, xây dựng nhà trọ sát hàng rào, chỉ dỡ phần
lưới B40 ra và sử dụng ranh đất ổn định cho đến khi phát sinh tranh chấp. Lời
khai của các bên là phù hợp với chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Quá trình tố
tụng, lời khai của ông Nguyễn Hồng Q (anh trai của bà A) là người làm chứng thể
hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất là “bán nguyên sổ, ranh đất hiện tại
vẫn còn cột mốc như ban đầu”. Lời khai của ông Đỗ Văn T, ông Phan Văn C, ông
Trần Văn C1 là những người dân tại địa phương cho thấy vào năm 2011, thửa 860
và thửa 77 đã có ranh giới tường gạch trụ bê tông rào lưới B40, dãy nhà trọ hiện
nay được xây dựng từ phần đất có hàng cây cao su thuộc phạm vi đất của ông H2.
11
Do đó, căn cứ theo khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Dân sự năm 2015, “Ranh giới
giữa các bất động sản liền kề được xác định theo thỏa thuận hoặc theo quyết định
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ranh giới cũng có thể được xác định theo
tập quán hoặc theo ranh giới đã tồn tại từ 30 năm trở lên mà không có tranh chấp.
Không được lấn, chiếm, thay đổi mốc giới ngăn cách, kể cả trường hợp ranh giới
là kênh, mương, hào, rãnh, bờ ruộng. Mọi chủ thể có nghĩa vụ tôn trọng, duy trì
ranh giới chung”. Như vậy, không có cơ sở xác định ông H2 đã tự ý thay đổi ranh
giới đất để lấn chiếm qua phần đất của bà H.
[2.3.6] Ngoài ra, tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn và người đại diện
hợp pháp thống nhất trình bày rằng kể từ khi nhận quyền sử dụng đất từ bà A thì
bà H có đến thăm đất trung bình khoảng 3 – 6 tháng một lần. Trong khi đó, ông
T, ông C và ông C1 là những người dân tại địa phương đều có văn bản trình bày
ý kiến xác nhận ông H2 xây dựng dãy nhà trọ vào năm 2011. Bà H không có ý
kiến hay tranh chấp gì với ông H2 từ năm 2011 cho đến khi nộp đơn khởi kiện
vào năm 2021.
[2.3.7] Từ những phân tích trên, xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận
toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thanh H là chưa phù
hợp. Do quan hệ pháp luật tranh chấp là tranh chấp ranh giới giữa các bất động
sản liền kề nên trong trường hợp này không công nhận quyền sử dụng đất mà phải
xác định ranh giới, mốc giới giữa thửa 860 và thửa 77 theo quy định tại Điều 175
của Bộ luật Dân sự năm 2015. Do đó, kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn H2
và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị N là có căn cứ chấp
nhận.
[2.4] Về tài sản trên phần đất tranh chấp, do Tòa án cấp phúc thẩm không
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H nên Tòa án không xem xét xử lý tài sản
trên phần đất thuộc thửa 77 của ông H2.
[3] Tòa án cấp phúc thẩm (Hội đồng xét xử) đình chỉ xét xử đối với yêu cầu
kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thanh H.
[4] Về chi phí đo đạc, thẩm định và định giá: Do yêu cầu khởi kiện của bà
Nguyễn Thị Thanh H không được chấp nhận nên bà H phải chịu toàn bộ chi phí
đo đạc, thẩm định và định giá tại cấp sơ thẩm và chi phí xem xét, thẩm định tại
chỗ tại cấp phúc thẩm.
[5] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp một phần.
[6] Về án phí dân sự phúc thẩm: Các đương sự phải chịu theo quy định của
pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 148, Điều 289, khoản 2 Điều 308 và Điều 313 Bộ luật Tố tụng
dân sự;
Căn cứ Điều 175 của Bộ luật Dân sự năm 2015;
12
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí, lệ phí Tòa án;
1. Chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn H2 và một phần kháng
cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị N.
2. Đình chỉ xét xử phúc thẩm kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị
Thanh H.
3. Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 125/2024/DS-ST ngày 06 tháng
9 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh B như sau:
3.1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Thanh H.
3.2. Xác định ranh giới giữa thửa 860, tờ bản đồ số 7 và thửa 77, tờ bản đồ
số 7 tại phường T, thành phố T, tỉnh B, như sau:
Ranh giới tại cạnh hướng Đông của thửa 860, tờ bản đồ số 7 với cạnh hướng
Tây của thửa 77, tờ bản đồ số 7 là các điểm như sau:
+ Từ điểm “1” đến điểm “2” có chiều dài 33,29m;
+ Từ điểm “1” đến điểm “10” có chiều dài 38,04m;
(Có Sơ đồ bản vẽ kèm theo)
3.3. Các đương sự có nghĩa vụ liên hệ cơ quan có thẩm quyền để thực hiện
thủ tục điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp
luật về đất đai.
4. Về chi phí tố tụng:
4.1. Tại cấp sơ thẩm, bà Nguyễn Thị Thanh H phải chịu toàn bộ chi phí đo
đạc, thẩm định và định giá lần đầu là 8.624.703 đồng (Tám triệu, sáu trăm hai
mươi bốn nghìn, bảy trăm lẻ ba đồng) và chi phí đo đạc, thẩm định và định giá
lần hai là 14.198.760 đồng (Mười bốn triệu, một trăm chín mươi tám nghìn, bảy
trăm sáu mươi đồng), đã thực hiện xong.
4.2. Tại cấp phúc thẩm, ông Nguyễn Văn H2 đã tạm ứng số tiền là
3.000.000 đồng (Ba triệu đồng), chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 2.000.000
(Hai triệu đồng) nên bà Nguyễn Thị Thanh H có trách nhiệm thanh toán số tiền
2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) cho ông Nguyễn Văn H2.
5. Án phí dân sự phúc thẩm:
5.1. Ông Nguyễn Văn H2 không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm và được
hoàn lại 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí phúc thẩm theo Biên
lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004270 ngày 18/9/2024 của Chi cục Thi
hành án dân sự thành phố T, tỉnh B.
5.2. Bà Nguyễn Thị N không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm và được
hoàn lại 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí phúc thẩm theo Biên
13
lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004328 ngày 30/9/2024 của Chi cục Thi
hành án dân sự thành phố T, tỉnh B.
5.3. Bà Nguyễn Thị Thanh H không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm và
được hoàn lại 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí phúc thẩm theo
Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004329 ngày 30/9/2024 của Chi
cục Thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh B.
6. Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Thanh H phải chịu án phí dân sự
sơ thẩm là 300.000 (Ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án
phí đã nộp là 12.000.000 đồng (Mười hai triệu đồng) đã nộp theo Biên lai thu tạm
ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0052279 ngày 22/3/2021 của Chi cục Thi
hành án dân sự thị xã (nay là thành phố ), tỉnh B và được hoàn lại 11.700.000
đồng (Mười một triệu bảy trăm nghìn đồng).
Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu
thi hành án của người được yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, tất
cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi
của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468
của Bộ luật Dân sự.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- Chi cục THADS thành phố T;
- TAND thành phố T;
- Các đương sự;
- Tổ Hành chính tư pháp;
- Lưu: Hồ sơ, Tòa Dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Nguyễn Trung Dũng

SƠ ĐỒ BẢN VẼ
(Kèm theo Bản án số 104/2025/DS-PT ngày 25/02/2025 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
giữa nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thanh H và bị đơn ông Nguyễn Văn H2)
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TOẠ PHIÊN TÒA
(đã ký)
Nguyễn Trung Dũng
Thửa 860 và Thửa 77:
Bảng liệt kê toạ độ góc ranh
- VN2000 (thửa 860)
Bảng liệt kê toạ độ góc ranh
- VN2000 (thửa 77)
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Bản án số 152/2025/DS-PT ngày 10/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Bản án số 144/2025/DS-PT ngày 06/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 05/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 03/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Bản án số 107/2025/DS-PT ngày 25/02/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm