Bản án số 557/2017/HS-PT ngày 03/08/2017 của TAND TP. Hà Nội
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 557/2017/HS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 557/2017/HS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 557/2017/HS-PT ngày 03/08/2017 của TAND TP. Hà Nội |
---|---|
Tội danh: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Hà Nội |
Số hiệu: | 557/2017/HS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 03/08/2017 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 557/2017/HS-PT NGÀY 03/08/2017 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN VÀ HỦY HOẠI TÀI SẢN
Trong ngày: 03/8/2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội; xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 477/2017/HSPT ngày: 22/6/2017; với các bị cáo:
Phạm Xuân H, Phan Ngọc D và Lương Thành Ph; do có kháng cáo đối với bản án sơ thẩm số: 153/2017/HS-ST ngày: 12/5/2017, của Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, Hà Nội.
+ Các bị cáo có kháng cáo:
1. Phạm Xuân H – Sinh năm: 1991; HKTT: ….. tỉnh Hà Giang; chỗ ở: số … Tây Sơn, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội; Nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: 12/12; Con ông: Phạm Công Oanh (Đã chết); Con bà: Nguyễn Hồng Liên; Tiền án, tiền sự: Chưa; Bắt khấn cấp ngày 24/11/2015.
2. Phan Ngọc D – Sinh năm: 1995; HKTT: ….. tỉnh Ph Thọ; chỗ ở: số … Tây Sơn, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 9/12;Con ông: Phan Văn Hiến, Con bà: Đặng Thị Vinh; Tiền án, tiền sự: Không; Bắt khẩn cấp ngày 24/11/2015.
3. Lương Thành Ph - Sinh năm: 1997; HKTT: ….. tỉnh Thanh Hóa; chỗ ở: số…Tây Sơn, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 11/12; Dân tộc: Thái; Con ông: Lương Thành Quý (Đã chết); Con bà: Lương Thị Luyến; Tiền án, tiền sự: Không; Bắt khẩn cấp ngày 24/11/2015.
* Người bào chữa cho bị cáo Phạm Xuân H và bị cáo Phan Ngọc D: Luật sư Đặng Văn Cường và Nguyễn Công Thành - Luật sư, chuyên viên pháp lý của Văn phòng luật sư Chính Pháp – Đoàn luật sư thành phố Hà Nội.
* Người bào chữa cho bị cáo Lương Thành Ph: Luật sư Nguyễn Á Thơm và Nguyễn Thị Hường - Luật sư thuộc Văn phòng luật sư Nguyễn Anh - Đoàn luật sư thành phố Hà Nội.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo bản án sơ thẩm và các tài liệu có trong hồ sơ, nội dung vụ án như sau:
- Chị Trương Thị Nh (Trú tại: Lục Yên, Yên Bái) có quan hệ tình cảm với Phạm Xuân H nhưng đã chia tay nhau, khi yêu nhau Nh lấy tên là Thảo. Ngày 17/11/2015, chị Trương Thị Nh gọi điện cho Phạm Xuân H đế đặt mua lạp sườn với giá 500.000đ, hẹn 3 ngày sau giao hàng. Khoảng 21h00 ngày 20/11/2015, H mang lạp sườn đến phòng trọ của chị Nh ở địa chỉ 387 ngõ 192 Lê Trọng Tấn - p. Định Công - Hoàng Mai - Hà Nội thì chị Nh nợ tiền và hẹn đến 22/11/2015 sẽ trả tiền cho H. Khoảng 23h00 ngày 22/11/2015, H cùng Phan Ngọc D, Lương Thành Ph và Triệu Thế H (HKTT: Thượng Mỹ, Việt Vinh, Bắc Quang, Hà Giang) rủ nhau đi uống rượu, trong lúc ngồi uống rượu H có rủ ba người đi đòi tiền của chị Nh, cả ba đồng ý rồi điều khiển 02 xe máy đến phòng trọ của chị Nh. Khi đến nơi Hòa đứng ngoài trông xe máy còn H cùng Ph, D đi vào đến trước cửa phòng trọ chị Nh và chị Nguyễn Thị Ngọc Á (SN 1998, HKTT: Thôn 4, Cường Thịnh, Trấn Yên, Yên Bái) ở cùng chị Nh. D nói “Thảo ơi mở cửa anh nhờ tí”, chị Á ra mở cửa để H cùng Ph và D đi vào nhà, D nói “Thế bây giờ chúng mày có trả tiền bạn tao không” thì chị Nh lấy ví đập vào mặt D và cầm điện thoại định gọi điện thì D giật chiếc điện thoại Iphone 5 màu trắng của chị Nh và đưa cho H, H cầm và cho vào túi quần. Lúc này chị Á vào giường lấy điện thoại và chạy ra ngoài định gọi điện thì bị H túm tóc và lôi ngược lại vào phòng không cho ra ngoài. Sau đó hai bên xảy ra xô xát, chị Á lấy 01 đoạn gậy gỗ dài khoảng 60 cm, đường kính 10 cm ở trong phòng trọ đánh D, thấy thế Ph cầm chiếc gậy tre vụt vào tay chị Á khiến chị Á rơi chiếc gậy gỗ xuống đất rồi D cầm 01 chổi quét nhà cán bằng kim loại dài khoảng 01 m còn H cầm chiếc gậy phơi quần áo, cả ba lao vào đánh chị Nh và chị Á. H nói “Thế bây giờ mày có trả tiền tao không”, chị Nh nói “Có, thì để từ từ đi lấy ví đã”. Chị Nh lấy trong ví 600.000 đồng đưa cho H. Sau đó chị Nh xin lại điện thoại do H đang cất trong túi quần, H lấy đưa điện thoại ra để trả thì D bảo đưa cho D, D cầm điện thoại Iphone 5 liền đập luôn xuống đất làm chiếc điện thoại bị vỡ hoàn toàn rồi cả ba đi về.
- Ngày 23/11/2015, chị Trương Thị Nh đến Công an phường Định Công, Hoàng Mai, Hà Nội trình báo về sự việc trên. Cơ quan Công an đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, thu giữ: 01 chiếc gậy tre dài khoảng l,85m một đầu bị dập, 01 chối quét nhà cán bằng kim loại hình tròn dài khoảng lm; 01 chiếc điếu cày bằng tre dài khoảng 70cm; 01 điện thoại di động Iphone 5 màu trằng màn hình và phần đuôi điện thoại bị vỡ. Đến khoảng 23h00 cùng ngày, tổ công tác đội Điều tra trinh sát hình sự CAQ Hoàng Mai tiến hành kiểm tra hành chính Phạm Xuân H, Lương Thành Ph và Phan Ngọc D tại trước cửa số 6 ngách 178/71 Tây Sơn, Trung Liệt Đống Đa, Hà Nội. H, Ph, D khai nhận về hành vi cướp tài sản xảy ra ngày 22/11/2015, thu giữ của H số tiền 390.000đồng. Cơ quan Công an đã đưa các đối tượng cùng tang vật về trụ sở đê làm rõ.
- Kết luận định giá tái sản số 63 ngày 16/03/2016 của Hội đồng định giá tà sàn trong tố tụng hình sự quận Hoàng Mai kết luận: 01 điện thoại Iphone 5,16 Gb màu trắng lmel: 013350007494648 bị vỡ hoàn toàn, trị giá 2.930.000 đồng.
- Phạm Xuân H khai: Khi D đưa điện thoại cho H thì H bỏ vào túi quần nhưng nhưng không có định chiếm đoạt nên khi chị Nh xin lại điện thoại thì H lấy trong túi quần ra định đưa cho D đề trả cho chị Nh. Việc D đập điện thoa Iphone 5 của chị Nh thì H không biết lý do tại sao và cũng không bảo D đập điện thoại của chị Nh. CSĐT - CAQ Hoàng Mai không xử lý đối với H về tội Hủy hoại tài sản.
- Phan Ngọc D khai: Lúc vào phòng thấy chị Nh D nói “Thế bây giờ chúng mày có trả bạn tao không” chị Nh cầm ví đập vào mặt D và cầm điện thoại thì sợ chị Nh gọi bạn đến đÁ hội của D nên D giật chiếc đĩện thoại Iphone 5 màu trắng của chị Nh và đưa cho H cầm để chị Nh không lấy lại điện thoại được. Sau khi chị Nh đưa tiền cho H và xin lại điện thoại thì H lấy trong túi quần đưa cho chị Nh, nhưng do bức súc việc trước đó Thị Nh cầm ví tát vào mặt D nên D đã bảo H đưa cho D rồi D tự đập điện thoại của chị Nh xuống đất làm hư hỏng điện thoại.
- Lương Thành Ph khai phù hợp với các lời khai của Phạm Xuân Hài và Phan Ngọc D.
- Bản cáo trạng số 350/CT-VKS ngày 28/10/2016 của Viện Kiểm sát nhân dân Quận Hoàng Mai đã truy tố bị cáo Phạm Xuân H, Lương Thành Ph về tội “Cướp tài sản” theo điểm d khoản 2 điều 133 Bộ luật hình sự; Truy tố bị cáo Phan Ngọc D về tội “Cướp tài sản” và tội “Hủy hoại tài sản” theo điểm d khoản 2 điều 133 và khoản 1 Điều 143 Bộ luật hình sự.
- Bản án sơ thẩm số:153/2017/HS-ST ngày: 12/5/2017, của Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, Hà Nội đã quyết định như sau:
“1.Tuyên bố: Bị cáo Phạm Xuân H, Lương Thành Ph phạm tội “Cướp tài sản”; Bị cáo Phan Ngọc D phạm hai tội “Cướp tài sản” và tội “Hủy hoại tài sản”.
2. Về hình phạt:
* Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133; Điều 33 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Phạm Xuân H 09 (Chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/11/2015.
* Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133; điểm b, p khoản 1,2 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Lương Thành Ph 07 (Bẩy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/11/2015.
* Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133; khoản 1 Điều 143; điểm b, p khoản 1, khoản 2 điều 46, điều 33 Bộ luật hình sự.
* Xử phạt bị cáo Phan Ngọc D 07 (Bẩy) năm tù về tội Cướp tài sản và 06 tháng tù về tội Hủy hoại tài sản.
* Áp dụng Điều 50 Bộ luật hình sự: Tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội buộc bị cáo Phan Ngọc D phải chấp hành 07 (Bẩy) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/11/2015”.
- Bản án sơ thẩm còn quyết định xử lý vật chứng, án phí.
- Bị cáo Phạm Xuân H và Phan Ngọc D có đơn kháng cáo đề ngày 22/5/2017; nội dung đề nghị xem xét lại tội danh. Bị cáo Lương Thành Ph có đơn kháng cáo đề ngày 12/5/2017; nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.
- Tại phiên tòa Phc thẩm các bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát: Xác định các bị cáo phạm tội “Cướp tài sản” theo điểm d khoản 2 điều 133 Bộ luật hình sự. Mức hình phạt mà tòa án cấp sơ thẩm áp dụng với các bị cáo là nghiêm khắc. Đề nghị chấp nhận một phần kháng cáo của các bị cáo, giảm một phần hình phạt đối với các bị cáo. Cụ thể: Phạm Xuân H 7 năm 6 tháng đến 8 năm tù; Phan Ngọc D: 7 năm đến 7 năm 3 tháng cả hai tội; Lương Thành Ph: 6 năm đến 6 năm sáu tháng tù.
- Ý kiến của luật sư bào chữa cho bị cáo H và D: Hành vi của H và D chống trả lại chị Nh và chị Á là hợp pháp. Việc chị Nh trả tiền là tự nguyện. Các bị cáo không có dấu hiệu cấu thành tội “Cướp tài sản”. Bị cáo D có phạm tội “Hủy hoại tài sản”. Đề nghị tuyên các bị cáo không phạm tội “Cướp tài sản”.
- Ý kiến của luật sư bào chữa cho bị cáo Lương Thành Ph: Hành vi của các bị cáo có dấu hiệu của tội “Cướp tài sản” nhưng tính chất, mức độ nguy hiểm không cao có thể xử lý bằng biện pháp khác. Đề nghị áp dụng các quy định có lợi cho bị cáo giảm nhẹ hình phạt đối với các bị cáo. Áp dụng mức hình phạt bằng thời gian tạm giam đối với bị cáo Ph.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ:
- Đơn kháng cáo của bị cáo về hình thức và thời hạn đúng theo quy định nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
- Các bị cáo Phạm Xuân H, Phan Ngọc D khai nhận có hành vi như nội dung vụ án nhưng không thừa nhận phạm tội “Cướp tài sản”. Căn cứ lời khai của các bị cáo và các chứng cứ trong hồ sơ xác định các bị cáo có hành vi dùng vũ lực với hung khí nguy hiểm để đánh người bị hại nhằm đòi tiền đã cấu thành tội “Cướp tài sản” nhưng xét động cơ phạm tội của các bị cáo là đòi lại tiền nợ. Như vậy tính chất hành vi phạm tội của các bị cáo và mức độ nguy hiểm cho xã hội không cao. Hơn nữa người bị hại cũng có lỗi đánh bị cáo Phan Ngọc D trước. Như vậy xét tính chất hành vi phạm tội của các bị cáo và nhân thân của các bị cáo không có tiền án tiền sự nên áp dụng mức hình phạt dưới mức thấp nhất mà khung hình phạt quy định.
- Bản án sơ thẩm số:153/2017/HS-ST ngày: 12/5/2017, của Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, Hà Nội đã tuyên bố bị cáo Phạm Xuân H, Phan Ngọc D và Lương Thành Ph phạm tội “Cướp tài sản” là đúng người đúng tội nhưng đánh giá không đúng tính chất mức độ phạm tội của các bị cáo nên áp dụng mức hình phạt quá nghiêm khắc đối với các bị cáo. Tòa án cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm.
- Từ nhận định trên chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lương Thành Ph, một phần kháng cáo của các bị cáo Phạm Xuân H, Phan Ngọc D. Sửa một phần bản án sơ thẩm về hình phạt đối với các bị cáo.
- Đối với bị cáo Lương Thành Ph thanh gia với vai trò giúp sức, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nhân thân là người dân tộc nên có thể miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện đối vói bị cáo.
- Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
- Án phí: Bị cáo pH chịu án phí hình sự Phc thẩm.
Từ nhận định trên,
- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 248, điểm c, đ khoản 1 Điều 249 của Bộ luật tố tụng hình sự.
QUYẾT ĐỊNH:
- Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lương Thành Ph, một phần kháng cáo của các bị cáo Phạm Xuân H, Phan Ngọc D.
* Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133; điểm b, p khoản 1 điều 46, khoản 2 điều 46; điều 47 Bộ luật hình sự.
+ Xử phạt bị cáo Phạm Xuân H 36 (Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/11/2015.
* Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133; khoản 1 Điều 143; điểm b, p khoản 1, khoản 2 điều 46; điều 47; điều 50; điều 33 Bộ luật hình sự.
+ Xử phạt bị cáo Phan Ngọc D 36 (Ba mươi sáu) tháng tù về tội “Cướp tài sản” và 06 (Sáu) tháng tù về tội “Hủy hoại tài sản”. Tổng hợp hình phạt cả hai tội, bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 42 (Bốn mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/11/2015.
* Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; điều 47; điều 60; điều 33 Bộ luật hình sự.
+ Xử phạt bị cáo Lương Thành Ph 36 (Ba mươi sáu) tù nhưng cho hưởng án treo. Thời hạn thử thách 60 (Sáu mươi) tháng kể từ ngày tuyên án Phc thẩm. Trả tự do ngay cho bị cáo nếu không bị giam về tội phạm khác. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Bát Mọt, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa giám sát giáo dục. Trường hợp thay đổi nơi ở áp dụng theo quy định tại khoản 1 điều 69 Luật thi hành án hình sự.
- Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
- Án phí: Các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
- Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!