Bản án số 554/2024/DS-PT ngày 30/09/2024 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 554/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 554/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 554/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 554/2024/DS-PT ngày 30/09/2024 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Dương |
Số hiệu: | 554/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 30/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | giữ nguyên bản án sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 554/2024/DS-PT
Ngày 27-9-2024
V/v tranh chấp yêu cầu thanh toán tiền
sửa chữa, mua sắm và công sức đóng
góp, gìn giữ, cải tạo tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Thanh Tùng.
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Huỳnh
Bà Trần Thị Thắm
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Kim Xuân - Thư k Ta án nhân dân tỉnh
Bình Dương.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa:
Ông Lê Trung Kiên - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 23, 27 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 382/2024/TLPT-
DS ngày 07 tháng 8 năm 2024 về việc “Tranh chấp yêu cầu thanh toán tiền sửa
chữa, mua sắm và công sức đóng góp, gìn giữ, cải tạo tài sản”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 61/2024/DS-ST ngày 30 tháng 5 năm 2024 của
Tòa án nhân dân thành phố Bến Cát, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 391/2024/QĐ-PT ngày 26 tháng 8
năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 465/2024/QĐ-PT ngày 10 tháng 9 năm
2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 468/2024/QĐ-PT ngày 16 tháng 9 năm 2024
giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Lê Thị Thu L, sinh năm 1982; địa chỉ: số nhà C, tổ B,
khu phố C, phường M, thành phố B, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Minh T, sinh
năm 1990; địa chỉ: số nhà C, tổ E, khu phố G, phường T, thành phố T, tỉnh Bình
Dương (Văn bản ủy quyền ngày 09/6/2023), có mặt.
- Bị đơn: Ông Lê Hoàng L1, sinh năm 1990; địa chỉ: số nhà C, tổ B, khu
phố C, phường M, thành phố B, tỉnh Bình Dương, có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
2
1. Bà Nguyễn Thị Thùy D, sinh năm 1987; địa chỉ: số nhà C, tổ B, khu phố
C, phường M, thành phố B, tỉnh Bình Dương, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
2. Ông Nguyễn Thế N, sinh năm 1984; địa chỉ: số nhà C, tổ B, khu phố C,
phường M, thành phố B, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.
3. Bà Nguyễn Thị G, sinh năm 1952; địa chỉ: tổ B, khu phố C, phường M,
thành phố B, tỉnh Bình Dương, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
- Người kháng cáo: nguyên đơn bà Lê Thị Thu L.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án sơ thẩm:
Theo đơn khởi kiện đề ngày 17/11/2023, Đơn khởi kiện bổ sung đề ngày
12/12/2022, Đơn khởi kiện bổ sung đề ngày 14/4/2023, Đơn khởi kiện bổ sung đề
ngày 07/11/2023 và lời khai trong quá trình tham gia tố tụng cũng như tại phiên
tòa, nguyên đơn và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Năm 2017, bà L cùng với bà Nguyễn Thị G (là mẹ của bà L) và ông Lê
Hoàng L1 (là em trai của bà L) có góp tiền mua phần đất diện tích 348m
2
thuộc
thửa đất số 30, tờ bản đồ số 54 tọa lạc tại phường M, thành phố B với giá tiền
1.780.000.000 đồng. Sau khi mua đất, thì bà L cùng với bà G và ông L1 xây dựng
02 căn nhà cấp 4 trên đất. Xây nhà xong thì bà L cùng gia đình ở trong 01 trong
02 căn nhà cấp 4 nêu trên. Như vậy phần nhà đất của bà L có diện tích 174m
2
mua
vào năm 2017 có giá 1.780.000.000 đồng/2 = 890.000.000 đồng.
Quá trình sử dụng phần đất nêu trên thì giữa bà L và ông L1 phát sinh tranh
chấp và đã được giải quyết bằng Bản án sơ thẩm số 25/2022/DS-ST ngày
02/6/2022 của Ta án nhân dân thị xã Bến Cát và Bản án phúc thẩm số
226/2022/DS-PT ngày 21/9/2022 của Ta án nhân dân tỉnh Bình Dương đã tuyên
giữ nguyên bản án sơ thẩm. Tuy nhiên, tại bản án sơ thẩm chưa giải quyết cho bà
L về các chi phí sửa chữa, mua sắm mới đối với căn nhà cũng như công sức đóng
góp, gìn giữ nhà đất. Nội dung của Bản án sơ thẩm cũng đã xác định nếu bà L có
yêu cầu sẽ được giải quyết bằng vụ án khác.
Bà L xác định trong quá trình sử dụng, do nhà xuống cấp nên bà L có tiến
hành sơn nước lại tường nhà diện tích 15,63m
2
, xây thêm vách tường gạch xây tô
sơn nước hoàn thiện diện tích 33,6m
2
, lắp cửa chính là cửa cuốn sắt (kéo bằng mô
tơ điện), lắp đặt cửa hông là cửa cuốn sắt (kéo bằng tay), xây thêm phần tường
gạch xây tô ốp gạch ceramic diện tích 5,25m
2
, mua một bộ bồn nước inox 1000
lít có chân trụ sắt.
Ngoài ra, bà L đã ở trên đất từ thời điểm mua đất năm 2017 cho đến ngày
15/02/2023 thì giao nhà theo cưỡng chế của cơ quan thi hành án. Tính đến ngày
15/02/2023, theo Biên bản của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Bến Cát thì phần
nhà đất bà L phải bàn giao có giá 2.841.420.000 đồng. Như vậy, từ khi bà L ở trên
nhà đất năm 2017 cho đến ngày bàn giao, bà L đã quản l, giữ gìn, cải tạo phần
nhà đất nên nhà đất đã tăng giá trị từ 890.000.000 đồng lên 2.841.420.000 đồng,
3
tăng 1.951.420.000 đồng.
Vì vậy, nguyên đơn bà L khởi kiện yêu cầu Ta án giải quyết:
1. Buộc ông Lê Hoàng L1 thanh toán cho bà L số tiền sửa chữa, mua sắm
mới đối với căn nhà cấp 4 theo Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ và Biên bản
định giá tài sản tranh chấp ngày 06/7/2023 của Ta án nhân dân thị xã Bến Cát
bao gồm:
1.1. Phần sơn nước: diện tích 15,63m
2
x 600.000 đồng/m
2
= 9.378.000
đồng;
1.2. Vách tường gạch xây tô sơn nước hoàn thiện: diện tích 33,6m
2
x
2.700.000 đồng/m
2
= 90.720.000 đồng;
1.3. 01 Cửa chính là cửa cuốn sắt (kéo bằng mô tơ điện) trị giá 7.000.000
đồng;
1.4. 01 Cửa hông là cửa cuốn sắt (kéo bằng tay) trị giá 3.000.000 đồng;
1.5. 01 Phần tường gạch xây tô ốp gạch ceramic có diện tích 5,25m
2
x
3.000.000 đồng/m
2
= 15.750.000 đồng;
1.6. 01 Bộ bồn nước inox 1000 lít có chân trụ sắt trị giá 3.000.000 đồng.
Tổng cộng là: 128.848.000 đồng (một trăm hai mươi tám triệu, tám trăm
bốn mươi tám nghìn đồng).
2. Buộc ông Lê Hoàng L1 thanh toán cho bà L công sức đóng góp gìn giữ,
cải tạo tài sản với giá trị tăng lên là 1.951.420.000 đồng (một tỷ, chín trăm năm
mươi mốt triệu, bốn trăm hai mươi nghìn đồng).
Tổng cộng bà L yêu cầu ông L1 thanh toán cho bà L số tiền là
2.080.268.000 đồng (hai tỷ, không trăm tám mươi triệu, hai trăm sáu mươi tám
nghìn đồng).
Quá trình tham gia tố tụng cũng như tại phiên tòa, bị đơn ông Lê Hoàng
L1 trình bày:
Phần đất thuộc thửa đất số 30, tờ bản đồ số 54 tọa lạc tại phường M, thị xã
B là tài sản của ông L1 mua của ông Lê Văn Q vào năm 2018. Ông L1 đã được
Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
CL 855512 (số vào sổ cấp GCN: CS15980) ngày 27/02/2018 và đã được xác định
cụ thể lại theo nội dung Bản án số 25/2022/DS-ST ngày 02/6/2022 của Ta án
nhân dân thị xã Bến Cát và Bản án phúc thẩm số 226/2022/DS-PT ngày 21/9/2022
của Ta án nhân dân tỉnh Bình Dương. Theo nội dung 02 bản án nêu trên đã tuyên
bà Lê Thị Thu L phải trả lại cho ông L1 bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất và giao trả cho ông L1 phần đất có diện tích 174m
2
nằm trong tổng diện tích
348m
2
của thửa đất số 30, tờ bản đồ số 54 tọa lạc tại phường M, trên đất có 01 căn
nhà số C có kết cấu: móng cột bê tông; tường ốp gạch cegamic cao 1,8m; mái lợp
tole; trần nhựa; cửa đi khung sắt kính; cửa sổ khung nhôm; cửa cổng sắt cuốn; 01
gác lửng đổ bê tông (có bản vẽ kèm theo bản án).
4
Sau khi ông L1 mua đất vào năm 2018, ông L1 sửa lại nhà và cho bà L là
chị gái ruột ở nhờ trong thời gian bà L chờ mua nhà. Nhưng sau đó, khi ông L1
không có ở nhà, bà L đã lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ mẹ ông L1 để
mang đi khởi kiện ông L1 yêu cầu ông L1 tách đất cho bà L và không chịu bàn
giao nhà trả lại cho ông L1. Sau khi được Ta án giải quyết, bà L không tự nguyện
thi hành án nên Cơ quan Thi hành án đã cưỡng chế giao nhà vào ngày 15/3/2023.
Trong thời gian bà L ông L1 cho bà L ở nhờ trên đất, bà L không có sửa chữa,
mua sắm gì mới đối với ngôi nhà và không có đóng góp gì trong việc làm tăng giá
trị tài sản. Ông L1 đã cho bà L ở nhờ, không lấy tiền thuê, bà L ở làm hao mn
nhà cửa của ông L1 nhưng ông L1 cũng không có yêu cầu đền bù, bồi hoàn gì mà
bà L lại yêu cầu ông L1 phải tính công sức đóng góp cho bà L là hoàn toàn vô lý.
Đối với các tài sản bà L yêu cầu ông L1 thanh toán giá trị theo Biên bản
xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 06/7/2023 bao gồm:
- Đối với 01 cửa chính là cửa cuốn sắt (kéo bằng điện) và 01 cửa hông là
cửa cuốn sắt (kéo bằng tay) và 01 bộ bồn nước inox 1000 lít có chân trụ sắt đã có
sẵn khi ông L1 mua lại đất và nhà của ông Q.
- Đối với: Phần sơn nước diện tích 15,63m
2
; vách tường gạch xây tô sơn
nước hoàn thiện có diện tích 33,6m
2
; 01 phần tường gạch xây tô ốp gạch ceramic
có diện tích 5,25m
2
, toàn bộ những phần tài sản này do ông L1 xây dựng khi sửa
lại ngôi nhà sau khi ông L1 mua lại nhà và đất của ông Q vào năm 2018. Bà L về
ở trên đất không có xây dựng, sửa chữa gì.
Vì vậy, đối với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà L về việc yêu cầu ông L1
thanh toán tiền sửa chữa, mua sắm và công sức đóng góp gìn giữ, cải tạo tài sản
đối với phần đất thuộc thửa đất số 30, tờ bản đồ số 54 tọa lạc tại phường M, thị
xã B và tài sản trên đất là không có căn cứ nên ông L1 không đồng .
Ngoài ra, bị đơn không có yêu cầu gì khác trong vụ án.
Quá trình tham gia tố tụng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà
Nguyễn Thị G trình bày:
Phần đất thuộc thửa đất số 30, tờ bản đồ số 54 tọa lạc tại phường M, thị xã
B do con trai bà G là ông Lê Văn L2 nhận chuyển nhượng và được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất năm 2018. Tiền mua đất là của bà G cho ông L2. Sau khi
mua phần đất này, do con gái của bà G là bà Lê Thị Thu L cũng cũng đang tìm
mua nhà đất để ở, chưa có chỗ ở nên ông L2 cho gia đình bà L ở nhờ trên ½ phần
đất này. Bà G và gia đình ông L2 ở trên ½ phần đất cn lại. Hiện nay, cơ quan thi
hành án đã cưỡng chế buộc gia đình bà L ra khỏi nhà đất thì bà G và gia đình ông
L2 đã dọn sang ở trên phần nhà đất trước kia bà L ở.
Khi ông L2 mua đất thì trên đất chỉ có 02 căn ki ốt chiều ngang mỗi căn là
05m x chiều dài 10m, đã có 02 cửa cuốn của chủ cũ có sẵn gắn chung với ki ốt vì
chủ cũ cũng bán tạp hóa và đã có sẵn bộ bồn nước inox 1000 lít của chủ cũ đang
sử dụng giao lại cho ông L2. Ông L2 mua nhà đất xong mới tiến hành xây dựng
02 căn nhà cấp 4 nối liền 02 căn ki ốt như hiện nay nên sơn nước, tường gạch xây
5
tô sơn, tường gạch xây tô ốp gạch ceramic đều là do ông L2 thuê thợ làm. Làm
xong thì gia đình bà L mới dọn vào ở nhờ. Từ khi gia đình bà L dọn vào ở nhờ
cho đến khi dọn đi, gia đình bà L không có xây dựng, sửa chữa, mua sắm gì thêm
đối với căn nhà, cn ở làm hư hao, cũ nhà. Hiện nay, tường sơn nước cũng đã rất
cũ.
Bà G không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà L vì bà L ở nhờ trên nhà
đất không có đóng góp gì, không có sửa chữa, mua sắm, xây dựng thêm tài sản
gì, cn làm cũ và hư hao nhà cửa nên yêu cầu của bà L là không đúng. Bà G không
có yêu cầu gì trong vụ án, đề nghị Tòa án giải quyết đúng quy định.
Quá trình tham gia tố tụng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà
Nguyễn Thị Thùy D trình bày: Thống nhất với toàn bộ lời trình bày và yêu cầu
của chồng bà D là ông Lê Hoàng L1. Toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà L là không
có căn cứ nên bà D không đồng .
Quá trình tham gia tố tụng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Nguyễn Thế N trình bày:
Ông N là chồng của nguyên đơn bà Lê Thị Thu L. Vào năm 2017, vợ chồng
ông N, bà L có bỏ ra số tiền 890.000.000 đồng để hùn với ông L1 mua phần nhà
đất với giá tổng cộng là 1.780.000.000 đồng. Sau khi mua nhà đất, do căn nhà xây
dựng sơ sài nên vợ chồng ông N, bà L có bỏ ra số tiền gần 200.000.000 đồng để
sửa chữa căn nhà. Cụ thể vợ chồng ông N, bà L đã sơn lại căn nhà, làm vách tuờng
gạch xây tô, sơn nước hoàn thiện, làm cửa chính là cửa cuốn sắt (kéo bằng mô tơ
điện), làm cửa hông là cửa cuốn sắt (kéo bằng tay), làm tường gạch xây tô ốp gạch
ceramic và mua 01 bộ bồn nước inox 1000 lít có chân trụ sắt.
Vợ chồng ông N, bà L sinh sống trên căn nhà từ năm 2017 cho đến ngày
15/02/2023 phải bàn giao cho ông L1 do bị Cơ quan Thi hành án dân sự thị xã B
thi hành Bản án số 25/2017/DS-ST ngày 02/6/2022 của Ta án nhân dân thị xã
Bến Cát. Trong khoảng thời gian vợ chồng ông N, bà L sinh sống trên đất đã gìn
giữ, cải tạo, nâng cấp phần đất, đây là nhà đất vợ chồng ông N, bà L bỏ tiền ra
mua nhưng ông L1 lừa vợ chồng ông N, bà L để ông L1 đứng tên đất rồi sau đó
đã nhiều lần kêu người để bán phần đất này nhưng bị vợ chồng ông N, bà L ngăn
cản nên ông L1 không bán được. Nếu bán được thì đất lúc đó giá thấp chứ không
được như bây giờ. Phần đất tranh chấp có giá theo định giá tại thời điểm cơ quan
thi hành án bàn giao cho ông L1 ngày 15/02/2023 là 2.841.420.000 đồng, đã tăng
1.951.420.000 đồng so với giá tại thời điểm mua năm 2017.
Ông N đồng với yêu cầu khởi kiện của bà L, bởi vì vợ chồng ông N, bà
L đã mua đất từ năm 2017 và ở trên đất từ đó cho đến nay, quá trình ở trên đất vợ
chồng ông N, bà L đã đầu tư để tăng giá trị đất. Theo các Án lệ của Ta án nhân
dân tối cao thì công sức đóng góp của vợ chồng ông N, bà L được ghi nhận ít nhất
50% nếu không chứng minh được vợ chồng ông N, bà L bỏ tiển ra mua đất và ở
trên đất. Ông N, bà L đã chứng minh nên phải được hưởng 100% giá trị đầu tư và
giá trị tăng lên.
6
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 61/2024/DS-ST ngày 30/5/2024 của Ta án
nhân dân thành phố Bến Cát, tỉnh Bình Dương đã quyết định:
Căn cứ vào các Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 92, khoản 1 Điều 147, Điều
228, Điều 235, Điều 266, Điều 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 471 Bộ luật Dân sự.
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản l và sử
dụng án phí và lệ phí Ta án.
Tuyên xử:
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
Điều 70, Điều 71, Điều 91, Điều 147, Điều 157, Điều 165, Điều 228 và Điều 266
của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 494, 496, 497, 498, 499 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Căn cứ khoản 3 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản l và sử dụng án phí lệ phí Ta án.
Tuyên xử:
Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị Thu
L đối với bị đơn ông Lê Hoàng L1 về việc “Tranh chấp yêu cầu thanh toán tiền
sửa chữa, mua sắm và công sức đóng góp, gìn giữ, cải tạo tài sản”.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm cn tuyên về án phí, chi phí xem xét, thẩm định
tại chỗ và định giá tài sản tranh chấp, quyền kháng cáo cho các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 13 tháng 6 năm 2024, nguyên đơn bà Lê Thị
Thu L kháng cáo toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 61/2024/DS-ST ngày
30/5/2024 của Ta án nhân dân thành phố Bến Cát, tỉnh Bình Dương yêu cầu Ta
án cấp phúc thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Vào ngày 11/9/2024, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn có đơn yêu
cầu định giá lại.
Tại phiên ta phúc thẩm, các đương sự không thống nhất được với nhau về
việc giải quyết vụ án. Đại diện hợp pháp của nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu
kháng cáo và yêu cầu triệu tập ông Q là người bán nhà đất tranh chấp để đảm bảo
quyền lợi của nguyên đơn. Bị đơn yêu cầu Ta án giữ nguyên bản án cấp sơ thẩm
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương phát biểu kiến:
- Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đã thực hiện
đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự tại cấp phúc thẩm.
- Về nội dung: Căn cứ vào Bản án số 25/2022/DS-ST ngày 02/6/2022 của
Ta án nhân dân thị xã Bến Cát và Bản án phúc thẩm số 226/2022/DS-PT ngày
21/9/2022 của Ta án nhân dân tỉnh Bình Dương về việc “Tranh chấp quyền sử
7
dụng đất, yêu cầu thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và kiện đi tài sản”,
giữa nguyên đơn bà Lê Thị Thu L với bị đơn ông Lê Hoàng L1. Theo nội dung
02 bản án nêu trên đã tuyên buộc bà Lê Thị Thu L phải trả lại cho ông L1 bản
chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và giao trả cho ông L1 phần đất có diện
tích 174m
2
nằm trong tổng diện tích 348m
2
của thửa đất số 30, tờ bản đồ số 54 tọa
lạc tại phường M, tỉnh Bình Dương. Nhận thấy, theo nội dung của Bản án sơ thẩm
số 25/2022/DS-ST ngày 02/6/2022 của Ta án nhân dân thị xã (nay là thành phố)
B và Bản án phúc thẩm số 226/2022/DS-PT ngày 21/9/2022 của Ta án nhân dân
tỉnh Bình Dương và Thông báo số 661/TB-VKS-DS ngày 24/7/2023 của Viện
kiểm sát cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, về việc không có căn cứ kháng nghị
giám đốc thẩm theo đơn đề nghị của bà L, xác định: Không có căn cứ xác định bà
Lê Thị Thu L có hùn tiền với ông Lê Hoàng L1 để nhận chuyển nhượng quyền sử
dụng đất thửa đất số 30, tờ bản đồ số 54, có diện tích 348m
2
tọa lạc tại phường M,
tỉnh Bình Dương. Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật bà L không tự nguyện thi
hành án, nên Cơ quan thi hành án đã cưỡng chế giao nhà vào ngày 15/3/2023 để
bàn giao tài sản cho ông L1.
Nay bà Lê Thị Thu L tiếp tục khởi kiện yêu cầu bị đơn ông L1 phải thanh
toán tiền sửa chữa, mua sắm và công sức đóng góp, gìn giữ, cải tạo tài sản trên
đất đối với căn nhà cấp 4 nằm trên ½ diện tích thửa số 30, tờ bản đồ số 54 tọa lạc
tại phường M, thị xã B theo Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ và Biên bản định
giá tài sản tranh chấp ngày 06/7/2023 của Ta án nhân dân thị xã Bến Cát. Tuy
nhiên, quá trình tố tụng tại cấp sơ thẩm nguyên đơn bà L không có tài liệu, chứng
cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình, nên Ta án cấp sơ thẩm không chấp
nhận yêu cầu này là có căn cứ.
Đối với yêu cầu của nguyên đơn bà L về việc buộc bị đơn ông L1 phải thanh
toán cho bà L công sức đóng góp, gìn giữ, cải tạo tài sản với giá trị tăng lên là
1.951.420.000 đồng, nhưng quá trình tố tụng nhận thấy: theo quyết định của các
Bản án sơ thẩm số 25 ngày 02/6/2022, Bản án phúc thẩm số 226 ngày 21/9/2022
và Bản án sơ thẩm số 61 ngày 30/5/2024, đều thể hiện: Sau khi ông L1 mua đất
vào năm 2018, ông L1 sửa lại nhà và cho bà L (chị ruột ông L1) ở nhờ trong thời
gian bà L chờ mua nhà. Chứng cứ xác định phần đất này được ông L1 nhận chuyển
nhượng vào ngày 17/01/2018, các hóa đơn mua sắm vật tư xây dựng, sửa chữa
nhà trên đất ghi thời gian đến khoảng tháng 5/2018 đều không có cơ sở xác định
bà L sửa chữa lại nhà, nên có căn cứ xác định ông L1 cho chị gái là bà L ở nhờ
trong 01 căn nhà cấp 4 nằm trên ½ diện tích thửa đất nêu trên. Đến tháng 9/2019,
hai bên đã xảy ra tranh chấp đối với phần đất nêu trên, bà L khởi kiện ông L1, đến
ngày 19/02/2022, ông L1 có đơn phản tố, trong đó có yêu cầu bà L di dời ra khỏi
nhà đất của ông L1. Do đó, có căn cứ xác định việc bà L quản l, sử dụng đất theo
sự đồng của ông L1 trong một khoảng thời gian từ năm 2018, đến năm 2019 thì
các bên xảy ra mâu thuẫn và bà L khởi kiện ông L1; quá trình các bên tranh chấp
và trong thời gian Ta án các cấp giải quyết đến tháng 02/2022, nhưng từ sau ngày
19/02/2022, ông L1 đã yêu cầu bà L giao trả lại nhà đất (theo yêu cầu phản tố),
nhưng bà L không đồng . Bản án có hiệu lực pháp luật, ông L1 có đơn yêu cầu
thi hành án. Ngày 15/02/2023 đến khi Chi cục Thi hành án dân sự thị xã (nay là
8
thành phố) B thực hiện việc cưỡng chế, thì bà L mới bàn giao lại nhà đất cho ông
L1, nên Ta án sơ thẩm nhận định “bà L không chứng minh được có việc bà L
mua sắm, sửa chữa tài sản, cũng không có căn cứ xác định bà L có công sức đóng
góp, giữ gìn, tôn tạo tài sản nhà và đất nên việc bà L yêu cầu được hưởng 100%
giá trị nhà đất tăng thêm là 1.951.420.000 đồng” và không chấp nhận toàn bộ yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn bà L là có căn cứ.
Đối với việc nguyên đơn yêu cầu định giá lại tài sản, trường hợp Hội đồng
xét xử chấp nhận yêu cầu của đương sự về định giá lại, thì căn cứ vào kết quả định
giá đề nghị sửa lại phần án phí cho phù hợp với quy định của pháp luật.
Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015, không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Lê Thị Thu L. Giữ
nguyên Bản án dân sự số 61/2024/DS-ST ngày 30/5/2024 của Ta án nhân dân
thành phố Bến Cát, tỉnh Bình Dương.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ được thẩm tra tại phiên ta,
lời trình bày của đương sự và căn cứ vào kết quả tranh tụng, kiến của Kiểm sát
viên,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng: nguyên đơn bà Lê Thị Thu L kháng cáo trong thời hạn luật
định nên đủ điều kiện để Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết theo quy định của pháp
luật. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Thế N được Tòa án triệu
tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên ta nhưng vắng mặt không l do. Người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Thùy D, bà Nguyễn Thị G có đơn
xin giải quyết vắng mặt. Căn cứ vào Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội
đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.
Đối với yêu cầu định giá lại của người đại diện hợp pháp của nguyên đơn do
thời gian Ta án định giá ngày 06/7/2023 đến nay hơn 06 tháng nên giá trị phần
đất hiện nay cao hơn. Ngày 25/9/2024, Ta án nhân dân tỉnh Bình Dương đã tiến
hành xác minh tại Ủy ban nhân dân phường M, thành phố B, tỉnh Bình Dương với
Hội đồng định giá theo Quyết định số 121/2023/QĐ-ĐG ngày 04/7/2023 của Tòa
án nhân dân thị xã (nay là thành phố) B. Theo đó, TAND được cung cấp về giá
đất đã định giá ngày 06/7/2023 xác định giá đất thuộc thửa số 30 tờ bản đồ số 54
có giá 10.000.000 đồng/m
2
, qua khảo sát thị trường đất hiện nay trên địa bàn thì
phần đất nêu trên có giá không cao hơn 10.000.000 đồng/m
2
; về tài sản trên đất
thì giá trị giảm theo thời gian sử dụng. Do đó, yêu cầu định giá lại của người đại
diện hợp pháp của nguyên đơn đưa ra là không có căn cứ.
Đối với yêu cầu của người đại diện hợp pháp của nguyên đơn về việc triệu
tập ông Q là người bán nhà đất tranh chấp để làm rõ nội dung vụ án. Xét thấy,
tình tiết vụ án đã được làm rõ, ông Q không liên quan đến vụ án, việc triệu tập
ông Q là không cần thiết nên yêu cầu của người đại diện hợp pháp của nguyên
đơn là không có căn cứ.
9
[2] Căn cứ Điều 293 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ
xem xét phần của bản án sơ thẩm có kháng cáo hoặc có liên quan đến việc xem
xét nội dung kháng cáo. Xét kháng cáo của nguyên đơn bà Lê Thị Thu L, Hội
đồng xét xử nhận thấy:
[2.1] Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn ông
L1 thanh toán tiền sửa chữa, mua sắm đối với: Phần sơn nước diện tích 15,63m
2
là 9.378.000 đồng; xây vách tường gạch xây tô sơn nước hoàn thiện diện tích
33,6m
2
là 90.720.000 đồng; mua 01 cửa chính là cửa cuốn sắt (kéo bằng mô tơ
điện) là 7.000.000 đồng; mua 01 cửa hông là cửa cuốn sắt (kéo bằng tay) là
3.000.000 đồng; xây 01 phần tường gạch xây tô ốp gạch ceramic có diện tích
5,25m
2
là 15.750.000 đồng; mua 01 bộ bồn nước inox 1.000 lít có chân trụ sắt trị
giá 3.000.000 đồng, tổng cộng là 128.848.000 đồng. Bà L không cung cấp chứng
cứ chứng minh cho việc bà L sửa chữa, mua sắm các tài sản nêu trên.
Đồng thời theo kết quả xác minh tại địa phương vào ngày 05/01/2024 (bút
lục 372 đến 375) xác định: Phần đất thuộc thửa số 30, tờ bản đồ số 54 tọa lạc tại
phường M, thị xã B trước khi ông L1 nhận chuyển nhượng đã có sẵn 02 căn ki ốt
(chiều ngang mỗi căn là 05m x chiều dài 10m) của chủ đất cũ. Sau khi ông L1
nhận chuyển nhượng lại đất mới tiến hành xây dựng 02 căn nhà cấp 4 nối liền
phía sau 02 căn ki ốt như hiện nay. Trong đó, 02 căn ki ốt đã có sẵn cửa cuốn, còn
cửa cuốn bên hông, bồn nước và việc sửa chữa sau khi đã xây dựng nhà cấp 4 thì
không xác định được do ai mua, ai lắp đặt, có sửa chữa hay không.
Tại Tòa án cấp sơ thẩm, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có
đơn yêu cầu về việc đề nghị Tòa án hỗ trợ thu thập tài liệu, chứng cứ, Tòa án cấp
sơ thẩm đã tiến hành thu thập các tài liệu, chứng cứ tại hồ sơ vụ án dân sự phúc
thẩm thụ lý số 191/2022/TLPT-DS ngày 03/8/2022. Theo các tài liệu, chứng cứ
đã thu thập, thì không có căn cứ nào xác định bà L là người đã sửa chữa, mua sắm
đối với các tài sản như bà L đã trình bày.
Do đó, Ta án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn yêu
cầu bị đơn ông L1 thanh toán tiền sửa chữa, mua sắm đối với: Phần sơn nước diện
tích 15,63m
2
là 9.378.000 đồng; xây vách tường gạch xây tô sơn nước hoàn thiện
diện tích 33,6m
2
là 90.720.000 đồng; mua 01 cửa chính là cửa cuốn sắt (kéo bằng
mô tơ điện) là 7.000.000 đồng; mua 01 cửa hông là cửa cuốn sắt (kéo bằng tay)
là 3.000.000 đồng; xây 01 phần tường gạch xây tô ốp gạch ceramic có diện tích
5,25m
2
là 15.750.000 đồng; mua 01 bộ bồn nước inox 1.000 lít có chân trụ sắt trị
giá 3.000.000 đồng, tổng cộng là 128.848.000 đồng là phù hợp.
[2.3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà L về việc buộc ông L1 thanh
toán công sức đóng góp, gìn giữ, cải tạo tài sản với giá trị tăng lên là 1.951.420.000
đồng.
Theo tài liệu, chứng cứ đã thu thập tại Tòa án cấp sơ thẩm thì phần đất này
được ông L1 nhận chuyển nhượng vào ngày 17/01/2018 và các hóa đơn mua sắm
vật tư xây dựng, sửa chữa nhà trên đất ghi thời gian đến khoảng tháng 5/2018.
Ông L1 cho chị gái là bà L ở nhờ trong 01 căn nhà cấp 4 nằm trên ½ diện tích
10
thửa đất nêu trên. Đến tháng 9/2019, hai bên đã xảy ra tranh chấp đối với phần
đất nêu trên, bà L nộp đơn khởi kiện tại Ta án, đến ngày 19/02/2022, ông L1 có
đơn phản tố trong đó có yêu cầu bà L di dời ra khỏi nhà đất của ông L1. Như vậy
việc bà L quản lý, sử dụng đất hợp pháp theo sự đồng ý của chủ sử dụng đất là
ông L1 chỉ trong một khoảng thời gian từ năm 2018 đến tháng 02/2022, từ sau
ngày 19/02/2022, ông L1 đã có yêu cầu bà L giao trả lại nhà đất nhưng bà L không
đồng ý. Khi Chi cục Thi hành án dân sự thị xã (nay là thành phố) Bến C thực hiện
việc cưỡng chế vào ngày 15/02/2023 thì bà L mới bàn giao lại nhà đất cho ông
L1. Bà L không cung cấp chứng cứ chứng minh được có việc bà L mua sắm, sửa
chữa tài sản cũng như không có căn cứ xác định bà L có công sức đóng góp, giữ
gìn, tôn tạo tài sản nhà và đất nên Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu
của bà L vê việc được hưởng 100% giá trị nhà đất tăng thêm là 1.951.420.000
đồng tại thời điểm bàn giao nhà ngày 15/02/2023 so với thời điểm ông L1 nhận
chuyển nhượng là có cơ sở.
[3] Từ những phân tích nêu trên, kháng cáo của nguyên đơn bà Lê Thị Thu
L là không có cơ sở để chấp nhận.
[4] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tại
phiên tòa phúc thẩm là phù hợp.
[5] Án phí dân sự phúc thẩm: Người kháng cáo phải nộp do yêu cầu kháng
cáo không được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 147, Điều 148, khoản 1 Điều 308, Điều 313 của Bộ luật Tố
tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản l và sử
dụng án phí và lệ phí Ta án:
1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn bà Lê Thị Thu L.
2. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 61/2024/DS-ST ngày 30/5/2024 của
Tòa án nhân dân thành phố Bến Cát, tỉnh Bình Dương.
3. Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Lê Thị Thu L phải nộp 300.000 đồng (ba
trăm nghìn đồng) được trừ vào số tiền tạm ứng đã nộp theo Biên lai thu số 0003372
ngày 18/6/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bến Cát, tỉnh Bình
Dương.
Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương;
- Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bến
Cát;
- Tòa án nhân dân thành phố Bến Cát;
- Lưu: hồ sơ, Tổ Hành chính tư pháp, Ta Dân
sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Nguyễn Thanh Tùng
11
Tải về
Bản án số 554/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 554/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 04/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 04/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 30/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 28/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 24/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 23/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 11/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 10/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 10/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm