Bản án số 929/2024/DS-PT ngày 28/10/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 929/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 929/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 929/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 929/2024/DS-PT ngày 28/10/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 929/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 28/10/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | sửa bản án sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
—————————
Bản án số: 929/2024/DS-PT
Ngày: 28 - 10 - 2024
V/v: “Tranh chấp quyền sở hữu nhà”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Hà Huy Cầu
Các Thẩm phán: Ông Mai Xuân Thành
Bà Lê Thị Tuyết Trinh
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Trọng Tâm – Thư ký Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Phạm Ba Duy – Kiểm sát viên.
Ngày 28 tháng 10 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý
số: 240/2024/TLPT-DS ngày 03 tháng 4 năm 2024 về việc “Tranh chấp quyền
sở hữu nhà”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 2580/2023/DS-ST ngày 12 tháng 12 năm
2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 3061/2024/QĐ-PT
ngày 11 tháng 10 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Khưu Ngọc C, sinh năm 1927 (chết ngày 02/10/2014).
Địa chỉ: Số D H, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn:
1/Ông Ngô Văn L, sinh năm 1930 (chết ngày 01/6/2024);
Những người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của ông L:
- Bà Chiêm Mộc A, sinh năm 1949 (vắng mặt);
Địa chỉ: Số D H, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bà Chiêm Sang S, sinh năm 1985 (vắng mặt);
Địa chỉ: Số C Tỉnh lộ 10, phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
2
Người đại diện theo ủy quyền của bà Mộc A, bà Sang S: Ông Trịnh T,
sinh năm 1962 (có mặt);
Địa chỉ: Số D H, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
2/Bà Trịnh Hương H, sinh năm 1953 (vắng mặt);
Địa chỉ: Số F T, Phường A, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh.
3/Bà Trịnh Thị E, sinh năm 1958 (vắng mặt);
Địa chỉ: B lầu A T, Phường A, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh.
4/Bà Khưu Thị A1, sinh năm 1960 (vắng mặt);
Địa chỉ: Số A P, Phường C, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh.
5/Ông Khưu Ngọc T1, sinh năm 1962 (vắng mặt);
6/Bà Khưu Ngọc E1, sinh năm 1969 (vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Số D H, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Ngô Văn L, bà Khưu Ngọc E1, ông
Khưu Ngọc T1, bà Trịnh Hương H, bà Trịnh Thị E, bà Khưu Thị A1: Bà Đào Thị
H1, sinh năm 1977 (có mặt);
Địa chỉ: Số F Quốc lộ A, phường H, thành phố T, Thành phố Hồ Chí
Minh.
7/Ông Trịnh T, sinh năm 1964 (có mặt);
Địa chỉ: Số D H, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị đơn: Bà Huỳnh Mỹ M, sinh năm 1942 (chết ngày 27/6/2024).
Những người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của bà M:
1/Ông Huỳnh M1, sinh năm 1966 (vắng mặt);
B1, sinh năm 1968 (vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Số D H, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Huỳnh M1 và ông Huỳnh L1: Ông
Huỳnh L2, sinh năm 1969 (có mặt);
Địa chỉ: Số D H, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
3/Ông Huỳnh L2, sinh năm 1969 (có mặt);
Địa chỉ: Số D H, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
4/ Bà Huỳnh Thiếu N, sinh năm 1972 (vắng mặt);
Địa chỉ: F E, Bed Ford P, Australia.
3
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/Ông Ngô Văn L, sinh năm 1930 (chết ngày 01/6/2024);
Những người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của ông L:
- Bà Chiêm Mộc A, sinh năm 1949 (vắng mặt);
Địa chỉ: Số D H, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bà Chiêm Sang S, sinh năm 1985 (vắng mặt);
Địa chỉ: Số C Tỉnh lộ 10, phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
2/Bà Trịnh Hương H, sinh năm 1953 (vắng mặt);
Địa chỉ: Số F T, Phường A, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh.
3/Bà Trịnh Thị E, sinh năm 1958 (vắng mặt);
Địa chỉ: B lầu A T, Phường A, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh.
4/Bà Khưu Thị A1, sinh năm 1960 (vắng mặt);
Địa chỉ: Số A P, Phường C, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh.
5/Ông Khưu Ngọc T1, sinh năm 1962 (vắng mặt);
6/Bà Khưu Ngọc E1, sinh năm 1969 (vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Số D H, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
7/Ông Trịnh T, sinh năm 1964 (có mặt);
Địa chỉ: Số D H, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
8/Ông Huỳnh M1, sinh năm 1966 (vắng mặt);
I, sinh năm 1968 (vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Số D H, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Huỳnh M1 và ông Huỳnh L1: Ông
Huỳnh L2, sinh năm 1969 (có mặt);
Địa chỉ: Số D H, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
10/Ông Huỳnh L2, sinh năm 1969 (có mặt);
Địa chỉ: Số D H, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
11/Bà Huỳnh Thiếu N, sinh năm 1972 (vắng mặt);
Địa chỉ: F E, Bed Ford P, Australia.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Huỳnh Thiếu N: Ông Huỳnh L2,
sinh năm 1969 (có mặt).
4
Địa chỉ: Số D H, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người kháng cáo: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Huỳnh
Liệt .
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Căn cứ theo đơn khởi kiện, bản tự khai và lời khai trong các buổi làm việc
đại diện phía nguyên đơn trình bày:
Năm 1964, ông Trịnh L3 và bà Khưu Ngọc C thuê hai căn nhà số D và D
L, Quận A của ông Hồ Vĩnh C1 để ở. Vài tháng sau, ông Trịnh Văn T2 là cháu
ruột của ông Trịnh Lục V ở nhờ tại căn nhà số D L, Quận A, Thành phố Hồ Chí
Minh.
Tháng 8/1969, ông L3, bà C mua hai căn nhà số D và D lò Siêu Q của ông
Hồ Vĩnh C1. Đến tháng 11/1969, ông L3, bà C tiếp tục mua thêm căn nhà 42 L,
Quận A (liền kề với hai căn nhà số D và D lò Siêu Q) của ông Hồ Vĩnh C1.
Sau khi mua 03 căn nhà trên, ông L3 và bà C tiếp tục cho ông T2 ở nhờ
thêm 10 năm nữa, đồng thời chuyển gia đình ông T2 qua ở nhờ căn nhà số D.
Sau khi ông T2 chết, các con ông T2 tiếp tục ở trong căn nhà nêu trên.
Năm 1977, gia đình bà M kê khai nhà, gia đình bà C không biết nên đến
năm 1999, bà C mới kê khai và đóng thuế.
Nay, phía nguyên đơn khởi kiện yêu cầu:
- Buộc bị đơn bà Huỳnh Mỹ M trả lại căn nhà D L, Quận A, số mới
45/27/2 H, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh cho bà Khưu Ngọc C.
- Công nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở căn nhà D L,
Quận A, số mới 45/27/2 H, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh cho bà
Khưu Ngọc C.
- Buộc bị đơn bà Huỳnh Mỹ M và những người đang cư trú trong căn nhà
số D L, Quận A, số mới 45/27/2 H, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí
Minh di dời toàn bộ người và tài sản ra khỏi nhà, giao trả nhà cho bà C ngay khi
bản án có hiệu lực pháp luật.
Người đại diện bị đơn trình bày trình bày:
Nguồn gốc căn nhà D L, Quận A, số mới 45/27/2 H, Phường A, Quận A,
Thành phố Hồ Chí Minh là do bà Huỳnh Mỹ M và ông Trịnh Văn T2 tạo lập từ
năm 1964, nhà tự xây cất trên đất của chùa K (theo xác nhận của Công an Q và
khai sinh của con bà M và ông T2 là Huỳnh L1 vào năm 1968).
Năm 1977, ông Trịnh Văn T2 đã kê khai đăng ký có xác nhận của Ủy ban
nhân dân phường và đóng thuế đầy đủ. Năm 2001, bà mãng tiếp tục đăng ký kê
khai theo quy định của nhà nước. Từ lúc xây nhà cho đến nay, gia đình bà M có
sửa chữa nhưng không đáng kể.
5
Phía bị đơn không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Ông Trịnh T là người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn
đồng thời là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày: Thống nhất với
yêu cầu khởi kiện của phía nguyên đơn và không có ý kiến gì khác.
Những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn đồng thời
là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: ông Ngô Văn L, bà Khưu Ngọc E1,
ông Khưu Ngọc T1, bà Trịnh Hương H, bà Trịnh Thị E, bà Khưu Thị A1 có bà
Đào Thị H1 là đại diện theo ủy quyền trình bày: Thống nhất với yêu cầu khởi
kiện của phía nguyên đơn và không có ý kiến gì khác
Ông Huỳnh L2 là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đồng thời là
người đại diện theo ủy quyền của ông Huỳnh M1, ông Huỳnh L1 và bà Huỳnh
Thiếu N trình bày: Thống nhất với ý kiến của bị đơn.
*Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 849/2014/DS-ST ngày 28/7/2014 của Tòa
án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Khưu Ngọc C và những
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm các ông, bà Ngô Văn L, Trịnh
Hương H, Trịnh Thị E, Khưu Thị A1, Trịnh T, Khưu Thị E2, Khưu Ngọc T1 về
việc công nhận chủ quyền sở hữu nhà và đòi nhà số D L (số mới là 45/27/2 H,
Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh đối với bà Huỳnh Mỹ M.
*Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 40/2015/DS-PT ngày 11/3/2015 của
Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh (nay là Tòa
án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh) đã quyết định:
Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 849/2014/DS-ST ngày 28/7/2014 của Tòa
án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh; Chuyển hồ sơ vụ án về cho Tòa án cấp sơ
thẩm giải quyết lại vụ án theo quy định pháp luật.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 2580/2023/DS-ST ngày 12 tháng 12 năm
2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định như sau:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
Buộc bị đơn bà Huỳnh Mỹ M trả lại căn nhà D L (số mới 45/27/2 H),
Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh cho những người kế thừa quyền,
nghĩa vụ tố tụng của bà Khưu Ngọc C gồm ông Ngô Văn L, bà Trịnh Hương H,
bà Trịnh Thị E, bà Khưu Thị A1, ông Khưu Ngọc T1, ông Trịnh T và bà Khưu
Thị E2; Công nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở căn nhà D L (số
mới 45/27/2 H), Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh cho những người
kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bà Khưu Ngọc C; Buộc bị đơn bà Huỳnh
Mỹ M và những người đang cư trú trong căn nhà số D L (số mới 45/27/2 H),
Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh di dời ra khỏi nhà, giao trả nhà cho
những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bà Khưu Ngọc C.
6
Những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bà Khưu Ngọc C được
quyền liên hệ cơ quan chức năng để đăng ký quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng
đất đối với nhà và đất số 42/1A L (số mới 45/27/2 H), Phường A, Quận A,
Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định pháp luật.
Ghi nhận sự tự nguyện của những người kế thừa quyền, nghĩa vụ của
nguyên đơn tự nguyện hỗ trợ cho bị đơn chi phí di dời khi trả lại nhà là
50.000.000 (năm mươi triệu) đồng.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, chi phí tố tụng và quyền
kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 20/12/2023 người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan ông Huỳnh L2 kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người có kháng cáo ông Huỳnh L2 vẫn giữ
nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm không
chấp nhận yêu cầu khởi kiện. Nguyên đơn bà Khưu Ngọc C (nay là người kế
thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của bà C) không đồng ý yêu cầu kháng cáo, đề nghị
Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Trong phần tranh luận:
Ông Huỳnh L2 trình bày ý kiến tranh luận: Căn nhà đang tranh chấp là do
ông T2 và bà M (cha mẹ ông) tạo lập từ năm 1964, nên không chấp nhận yêu
cầu đòi nhà của nguyên đơn. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng
cáo của phía bị đơn, sửa bản án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn.
Bà Đào Thị H1 trình bày ý kiến tranh luận: Bị đơn cho rằng đã xây nhà từ
năm 1964 là không có cơ sở vì nhà số D và D Lò Siêu là liền kèo, liền cột, liền
mái tole. Bản án sơ thẩm đã xét xử là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử không
chấp nhận kháng cáo của ông L2, và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:
- Về tố tụng: Tòa án cấp phúc thẩm đã thực hiện đầy đủ thủ tục tố tụng
theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Bản án sơ thẩm đã xét xử là có căn cứ. Ông L2 có kháng
cáo nhưng không có tài liệu chứng cứ mới để chứng minh. Đề nghị Hội đồng xét
xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông L2 và giữ nguyên bản án sơ
thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại
diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
7
[1] Đơn kháng cáo của ông Huỳnh L2 làm trong hạn luật định nên hợp lệ.
[2] Quá trình giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm, ông Ngô Văn L (người
kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn bà Khưu Ngọc C) và bị đơn bà
Huỳnh Mỹ M chết. Căn cứ quy định tại Điều 74 Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015, người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của đương sự được xác định như
sau:
- Người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của ông Ngô Văn L gồm bà
Chiêm Mộc A và bà Chiêm Sang S (Theo Bản tường trình quan hệ nhân thân
của bà Chiêm Mộc A được Ủy ban nhân dân Phường A2, Quận A, Thành phố
Hồ Chí Minh xác nhận ngày 04/9/2024).
- Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bà Huỳnh Mỹ M gồm ông
Huỳnh L1, ông Huỳnh M1, ông Huỳnh L2 và bà Huỳnh Thiếu N (Theo Tờ
tường trình về quan hệ nhân thân ngày 06/9/2024 của ông Huỳnh L2).
[3] Nguyên đơn bà Khưu Ngọc C (nay là người kế thừa quyền nghĩa vụ
tố tụng của bà C) cho rằng căn nhà D L, Quận A (số mới 4 H, Phường A, Quận
A) Thành phố Hồ Chí Minh là do bà C mua của ông Hồ Vĩnh C1 vào năm 1964
bằng giấy tay. Năm 1969, bà C cho gia đình ông Trịnh Văn T2 (chồng bà Huỳnh
Mỹ M) vào ở nhờ. Sau khi ông T2 chết, vợ và các con vẫn tiếp tục ở tại căn nhà
trên. Do đó, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bà M giao trả lại nhà đất trên.
Chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn gồm:
- Kết quả xác minh và văn bản trả lời số 23/TNMT ngày 08/01/2014 của
Phòng T4 thì: “Nguồn gốc căn nhà D L (số mới 45/27/2 H) Quận A, TP . của
ông Hồ Vĩnh C1 được mẹ ruột là bà Trầm T3 cho lại từ trước năm 1969; ngày
22/8/1969 ông Hồ Vĩnh C1 lập giấy tay bán căn nhà trên cho bà Khưu Ngọc C”.
- Ngày 01/9/1999 bà C đã tiến hành đăng ký kê khai nhà, đất nói trên, có
xác nhận của Ủy ban nhân dân Phường A2, Quận A với nguồn gốc là “mua nhà
lại của Hồ Vĩnh C1” kèm Giấy tay sang nhà ngày 22/8/1969.
- Tại bản tường trình ngày 13/9/2006 và lời khai tại biên bản lấy lời khai
ngày 07/6/2016, bà Du B cũng xác nhận: Năm 1969 ông Hồ Vĩnh C1 có bán hai
căn nhà 42/1 và D Lò Siêu cho bà Khưu Ngọc C và bà cũng xác nhận chữ ký
trong Tờ sang nhà ngày 22/8/1969 giữa bà Khưu Ngọc C và ông Hồ Vĩnh C1 là
do ông C1 (ba bà B) ký.
[4] Bị đơn bà Huỳnh Mỹ M (nay là người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng
của bà M) không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, vì nhà đất này là do
vợ chồng bà tạo lập từ năm 1964, nhà tự cất trên đất của chùa K.
Chứng cứ chứng minh lời trình bày của bị đơn là:
- Bản kê khai nhà cửa ngày 27/12/1977 ông T2 là người đứng tên kê khai,
thể hiện nguồn gốc “đất là của nhà chùa K1”, nhà thì “tự cất”;
8
- Theo giấy khai sinh thì ông Huỳnh L1 (con ông T2, bà M) sinh năm
1968, đã sinh ra tại địa chỉ nhà, đất này;
- Xác nhận của Đội quản lý hành chính và trật tự xã hội Công an Q ngày
19/11/2004, căn cứ vào danh sách nhân khẩu năm 1976 bà Huỳnh Mỹ M từ Bạc
Liêu đến ở nhà D L từ năm 1964.
[5] Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[5.1] Về nguồn gốc nhà, đất:
Các tài liệu, chứng cứ mà nguyên đơn nêu ra để chứng minh cho yêu cầu
khởi kiện, đều thể hiện nguồn gốc căn nhà đang tranh chấp là do bà C mua từ
ông Hồ Vĩnh C1 vào năm 1969. Xét, tại Kết quả xác minh và văn bản trả lời số
23/TNMT ngày 08/01/2014 của Phòng T4 thì: “Nguồn gốc căn nhà D L (số mới
45/27/2 H) Quận A, TP . của ông Hồ Vĩnh C1 được mẹ ruột là bà Trầm T3 cho
lại từ trước năm 1969; ngày 22/8/1969 ông Hồ Vĩnh C1 lập giấy tay bán căn
nhà trên cho bà Khưu Ngọc C”, nhưng theo Trích sao sổ điền thổ ngày
15/12/2015 của Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố H thì từ thời điểm sau
năm 1950 đến trước năm 1969 trong hồ sơ không thể hiện ai là người kê khai,
đăng ký sử dụng và đóng thuế đối với nhà, đất trên. Do vậy, chưa đủ căn cứ xác
định nguồn gốc căn nhà đang tranh chấp là của bà Trầm T3 đã tặng cho ông C1
và sau đó ông C1 lập giấy tay bán cho bà C.
Trong khi đó, bị đơn cho rằng nguồn gốc đất là của chùa K. Tại biên bản
lấy lời khai ngày 16/6/2008 của ông Châu V1 (trụ trì chùa K) thì: Ngoài nhà
42/1A Lò Siêu còn có nhiều gia đình khác đã lấn chiếm phần đất của chùa để
xây dựng nhà ở, nếu đúng phần diện tích đất của nhà chùa thì nhà chùa cho lại
chủ nhà 45/27/2 tiếp tục sử dụng nhà chùa không đòi lại. Theo nội dung trên thì
cũng không đủ căn cứ để xác định nguồn gốc đất theo lời trình bày của bị đơn.
[5.2] Về quá trình quản lý, sử dụng:
Nguyên đơn và bị đơn đều xác định nhà, đất trên do gia đình bị đơn đang
quản lý sử dụng, nhưng khác nhau về thời điểm. Theo nguyên đơn thì bà C đã
cho gia đình ông T2 ở nhờ nhà từ năm 1969, phía bị đơn thì xác định đã ở tại
căn nhà trên từ năm 1964. Quá trình quản lý, sử dụng, ông T2 đã đăng ký kê
khai nhà, đất được Ủy ban nhân dân phường xác nhận ngày 27/12/1977. Năm
2001, bà M (vợ ông T2) tiếp tục đăng ký kê khai nhà, đất trên với nguồn gốc
“mua năm 1969 không giấy tay (nay chủ nhà đã chết)”. Nguyên đơn trình bày:
Ngày 01/9/1999 bà C đã tiến hành đăng ký kê khai nhà, đất nói trên, có xác nhận
của Ủy ban nhân dân Phường A2, Quận A với nguồn gốc là “mua nhà lại của
Hồ Vĩnh C1” kèm Giấy tay sang nhà ngày 22/8/1969.
Xét, các tài liệu đăng ký kê khai nhà, đất thể hiện nguồn gốc nhà, đất theo
đăng ký, kê khai của ông T2, bà M, bà C là khác nhau. Theo nhận định nêu trên
các bên đương sự đều không đủ căn cứ để chứng minh nguồn gốc nhà, đất nên
việc đăng ký kê khai nhà, đất cũng không đủ cơ sở để xác định quyền sở hữu
9
nhà, đất. Đối với việc nguyên đơn cho rằng cho bị đơn ở nhờ từ năm 1969, thì
nguyên đơn không có tài liệu, chứng cứ chứng minh. Các chứng cứ bị đơn nêu
là giấy khai sinh thì ông Huỳnh L1, và xác nhận của Đội quản lý hành chính và
trật tự xã hội Công an Q ngày 19/11/2004 thể hiện gia đình bị đơn đã ở tại nhà,
đất này từ năm 1964. Nhưng theo Tờ đơn xin sao lục tờ khai gia đình chế độ cũ
của ông Trịnh Văn T2 ngày 29/9/1997, Công an Q xác nhận ngày 04/10/1997
với nội dung: “không có tờ khai gia đình cũ, căn cứ nhân khẩu năm 1976 Trịnh
Văn T2 (cháu bà C và là chồng bà M) khai đến năm 1975”. Ngoài ra, hồ sơ vụ
án không có tờ khai gia đình cũ năm 1964 – 1976 thể hiện gia đình bà M sống
trong căn nhà D L. Do vậy, bị đơn cũng không có đủ căn cứ để xác định đã ở tại
căn nhà này từ năm 1964. Tuy nhiên, nếu lời trình bày của nguyên đơn về việc
gia đình bị đơn đã ở tại nhà, đất này từ năm 1969 là có căn cứ chấp nhận, thì tại
thời điểm phát sinh tranh chấp gia đình bị đơn đủ điều kiện được xác lập quyền
sở hữu theo quy định pháp luật do chiếm hữu sử dụng liên tục, công khai, ngay
tình (Điều 247 Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 236 Bộ luật dân sự năm 2015).
Do đó, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bị đơn giao trả nhà, đất
đang tranh chấp là không có căn cứ để chấp nhận.
[6] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy Tòa án cấp sơ
thẩm chưa đánh giá đầy đủ toàn diện tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
Yêu cầu kháng cáo của phía bị đơn là có căn cứ. Do vậy. Hội đồng xét xử
không chấp nhận quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa; Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của
ông Huỳnh L2; Sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn.
[7] Án phí và chi phí tố tụng:
- Về chi phí tố tụng: Nguyên đơn phải chịu. Do nguyên đơn đã tự nguyện
chịu chi phí, nên nguyên đơn đã nộp xong.
- Án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn được miễn theo quy định tại Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Bị đơn không phải chịu.
- Án phí dân sự phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo được chấp nhận, nên
người có kháng cáo không phải chịu.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự,
I/Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Huỳnh L2;
Sửa bản án sơ thẩm số 2580/2023/DS-ST ngày 12/12/2023 của Tòa án
nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
10
Áp dụng Điều 9, Điều 163, Điều 164, Điều 165, Điều 167, Điều 169,
Điều 170, Điều 247, Điều 255, Điều 256 Bộ luật dân sự năm 2005; Nghị quyết
số 58/1998/NQ-UBTVQH10 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thông tư liên
tịch 01/1999/TTLT- TANDTC- VKSNDTC25/01/1999 của Tòa án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Xử:
1/Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Khưu Ngọc C
(nay là người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của bà C) về việc:
- Buộc bị đơn bà Huỳnh Mỹ M (nay là người thừa kế của bà Huỳnh Mỹ
M) trả lại căn nhà D L (số mới 45/27/2 H), Phường A, Quận A, Thành phố Hồ
Chí Minh cho những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bà Khưu Ngọc
C gồm ông Ngô Văn L (nay là người thừa kế của ông Ngô Văn L), bà Trịnh
Hương H, bà Trịnh Thị E, bà Khưu Thị A1, ông Khưu Ngọc T1, ông Trịnh T và
bà Khưu Thị E2;
- Công nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở căn nhà D L (số
mới 45/27/2 H), Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh cho những người
kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bà Khưu Ngọc C;
- Buộc bị đơn bà Huỳnh Mỹ M (nay là người thừa kế của bà Huỳnh Mỹ
M) và những người đang cư trú trong căn nhà số D L (số mới 45/27/2 H),
Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh di dời ra khỏi nhà, giao trả nhà cho
những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bà Khưu Ngọc C.
2/Về chi phí tố tụng: Nguyên đơn phải chịu. Do nguyên đơn đã tự nguyện
chịu chi phí, nên nguyên đơn đã nộp xong.
3/Án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn được miễn. Nguyên đơn bà Khưu
Ngọc C (nay là người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của bà C) được nhận lại
2.000.000 đồng (hai triệu đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số
004535 ngày 15/10/2004 của Đội thi hành án dân sự Quận A.
Bị đơn không phải chịu.
II/Án phí dân sự phúc thẩm:
Ông Huỳnh L2 không phải chịu, hoàn trả 300.000 đồng (Ba trăm nghìn
đồng) theo biên lai tạm ứng án phí số 0031578 ngày 10/01/2024 của Cục thi
hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9
11
Luật Thi hành án Dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSND cấp cao tại TP.HCM
- TAND TP.HCM;
- VKSND TP.HCM;
- Cục THADS TP.HCM;
- NĐ (1);
- BĐ (1);
-NLQ (11);
- Lưu (10) 28b (Án BDA).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Hà Huy Cầu
Tải về
Bản án số 929/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 929/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 04/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 15/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 04/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 30/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 24/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 23/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 11/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 10/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm