Bản án số 31/2024/DS-PT ngày 23/10/2024 của TAND tỉnh Lào Cai về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 31/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 31/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 31/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 31/2024/DS-PT ngày 23/10/2024 của TAND tỉnh Lào Cai về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Lào Cai |
Số hiệu: | 31/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 23/10/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp, đòi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn bà Hoàng Thị H và bị đơn bà Vũ Thị Ánh T |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LÀO CAI
Bản án số: 31/2024/DS - PT
Ngày 23 - 10 - 2024
V/v “Tranh chấp, đòi lại giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÀO CAI
- Thành phần hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Văn Nghĩa
Các Thẩm phán: Ông Chu Văn Thanh
Ông Trương Quyết Thắng
- Thư ký phiên tòa: Bà Lương Kim Ngân - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Lào Cai.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lào Cai tham gia phiên tòa: Bà
Đoàn Quỳnh Anh - Kiểm sát viên.
Ngày 23/10/2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai xét xử phúc thẩm
công khai vụ án thụ lý số 23/2024/TLPT-DS ngày 08/8/2024 về việc “Tranh chấp
đòi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”. Do bản án dân sự sơ thẩm số
17/2023/DS-ST ngày 02/7/2023 của Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Lào Cai
bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1448/2024/QĐ-PT ngày 04/9/2024,
Quyết định hoãn phiên tòa số 2562/2024/QĐ-PT ngày 16/9/2024 và Quyết định
hoãn phiên tòa số 2655/2024/QĐ-PT ngày 30/9/2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Hoàng Thị H , sinh năm 1960.
Địa chỉ: Tổ 34, phường C, thành phố L, tỉnh Lào Cai. Vắng mặt.
Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn bà Hoàng Thị H : bà Nguyễn
Thị Hải Y – Luật sư, Công ty Luật TNHH N và Đội ngũ Công sự, thuộc đoàn
Luật sư thành phố Hà Nội. Địa chỉ: Số: 05 A3, đường Lạc Chính, phường T, quận
B, thành phố Hà Nội, Có mặt.
2. Bị đơn: Bà Vũ Thị Ánh T , sinh năm 1972.
2
Địa chỉ: Tổ 25, phường C, thành phố L, tỉnh Lào Cai. Có mặt.
3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Hoàng Văn T, sinh năm 1966.
Địa chỉ: Nơi đăng ký thường trú: Số nhà 004, đường Lương Ngọc Quyến,
phường L, thành phố L, tỉnh Lào Cai. Nơi ở hiện nay: Số nhà 004, đường Lê Quý
Đôn, tổ 34, phường C, thành phố L, tỉnh Lào Cai.
Ông Hoàng Văn T bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, (Theo quyết
định sơ thẩm giải quyết việc dân sự số: 01/2024/QQĐST-VDS ngày 30/3/2024
của Toà án nhân dân thành phố L, tỉnh Lào Cai). Người giám hộ của ông Hoàng
Văn T là bà Hoàng Thị Thanh H – sinh năm; 1985 (Là vợ của ông Hoàng Văn T).
Địa chỉ: Chung cư TECCO, số 414 đường Hoàng Liên, phường K , thành phố L,
tỉnh Lào Cai, Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Hoàng Thị Thanh Huyền:
Ông Phạm Quang H và ông Phạm Trung K– Địa chỉ: Tầng 6 (phòng 601), tòa
nhà số 2, ngõ 1 Phùng Chí Kiên, quận C, thành phố Hà Nội. Có mặt.
3.2. Ủy ban nhân dân thị xã S, tỉnh Lào Cai.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Tô Ngọc L – Chức vụ: Chủ tịch.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Tô Ngọc L là ông Nguyễn Phước T
– Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường thị xã S (Theo văn bản uỷ quyền ngày
10/4/2024). Địa chỉ: Phường S , thị xã S, tỉnh Lào Cai, Có đơn đề nghị xét xử
vắng mặt.
4. Người làm chứng: Chị Nguyễn Cẩm T , 1980.
Địa chỉ: Số nhà 257, tổ 18b, phường L, thành phố L, tỉnh Lào Cai. Có mặt
tại phiên tòa.
5. Người kháng cáo: Nguyên đơn bà Hoàng Thị H .
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện nộp ngày 16/11/2023 và lời khai trong quá trình giải
quyết vụ án, nguyên đơn bà Hoàng Thị H , đều trình bày: Ngày 06/3/2014 bà
Hoàng Thị H nhận chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất 583,4m2, loại đất
trồng cây hàng năm khác, tại tổ 08, thị trấn S , huyện S, tỉnh Lào Cai (Nay là tổ
06, phường S , thị xã S, tỉnh Lào Cai) của vợ chồng ông Lê Thanh H và bà Nguyễn
Thị K . Ngày 03/4/2014 được Ủy ban nhân dân huyện S, tỉnh Lào Cai cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số: BO 756507 mang tên bà Hoàng Thị H . Quá
trình thực hiện việc chuyển nhượng thửa đất 583,4m2, tại tổ 08, thị trấn S , huyện
S, tỉnh Lào Cai, là do em trai bà Hoàng Thị H là ông Hoàng Văn T đứng ra nhận
chuyển nhượng sau đó giao lại cho bà Hoàng Thị H có quyền sử dụng. Hợp đồng
3
chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 06/3/2014 là do ông Lê Thanh Hải, bà
Nguyễn Thị K và ông Hoàng Văn T xác lập, bà Hoàng Thị H không tham gia
giao dịch nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Nguồn tiền để trả cho ông Lê
Thanh Hải, bà Nguyễn Thị K khi nhận chuyển nhượng đất là của bà Hoàng Thị
H , chuyển vào tài khoản của Công ty du lịch lữ hành quốc tế tỉnh Lào Cai do ông
Hoàng Văn T làm giám đốc, để ông Hoàng Văn T thanh toán. Số tiền được ông
Hoàng Văn T chuyển khoản làm nhiều lần và nhờ nhân viên chuyển khoản, còn
ai là người chuyển khoản cho ông Lê Thanh H, bà Nguyễn Thị K , bà Hoàng Thị
H không nhớ. Sau khi nhận chuyển nhượng ông Hoàng Văn T là người quản lý
sử dụng đất và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để ở két của công ty, ông
Hoàng Văn T quản lý. Bà Hoàng Thị H không tham gia xác lập đàm phán hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nên việc ghi giá chuyển nhượng trong
hợp đồng do ông Hoàng Văn T và chủ sử dụng đất cũ ghi, bà Hoàng Thị H không
biết.
Tại phiên toà nguyên đơn bà Hoàng Thị H , người đại diện theo uỷ quyền
của nguyên đơn là bà Lê Thị Kim Ngân và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Hải Y có thay đổi lời khai về việc nhận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất và đều trình bày: Việc giao kết nhận chuyển
nhượng quyền sử dụng thửa đất 583,4m2, loại đất trồng cây hàng năm khác tại tổ
08, thị trấn S , huyện S, tỉnh Lào Cai (nay là tổ 06, phường S , thị xã S, tỉnh Lào
Cai) của vợ chồng ông Lê Thanh Hvà bà Nguyễn Thị K do ông Hoàng Văn T
thực hiện. Khoản tiền bỏ ra đề nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất là của bà
Hoàng Thị H đi vay tiền mặt về đưa cho ông Hoàng Văn T, nhờ ông Hoàng Văn
T chuyển trả cho ông Lê Thanh Hvà bà Nguyễn Thị K . Khi lập hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ngày 06/3/2014 bà Hoàng Thị H có lên thị trấn S ,
huyện S, nhưng do say xe bà Hoàng Thị H nằm ở nhà nghỉ bà Hoàng Thị H
không nhớ ai mang hợp đồng chuyển nhượng đến cho bà Hoàng Thị H ký vào
hợp đồng, chữ ký trong hợp đồng là của bà Hoàng Thị H .
Năm 2022, bà Hoàng Thị H tìm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của
thửa đất 583,4m2 để xin điều chỉnh thông tin nhưng không thấy và bà Hoàng Thị
H đã trình báo mất giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với Ủy ban nhân dân
phường S , thị xã S, tỉnh Lào Cai. Ngày 08/12/2022, Ủy ban nhân dân phường S
thị xã S, tỉnh Lào Cai đã có thông báo số: 349/TB-UBND về việc niêm yết công
khai việc mất giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Hoàng Thị H . Tháng
3/2023, bà Hoàng Thị H đã nộp hồ sơ xin cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho Văn phòng đăng ký đất đai thị xã S, tỉnh Lào Cai. Nhưng bà được Chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã S, tỉnh Lào Cai trả lời, xác định bà Vũ
Thị Ánh T đang chiếm giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: BO 756507,
do ủy ban nhân dân huyện S, tỉnh Lào Cai cấp ngày 03/4/2014 của bà Hoàng Thị
H . Do đó, bà Hoàng Thị H yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Lào Cai
buộc bà Vũ Thị Ánh T phải trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: BO
756507, do ủy ban nhân dân huyện S, tỉnh Lào Cai (nay là Ủy ban nhân dân thị
xã S, tỉnh Lào Cai) cấp ngày 03/4/2014, cho bà Hoàng Thị H . Ngoài ra bà Hoàng
Thị H không có yêu cầu gì khác.
4
Trong nội dung các bản tự khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như
tại phiên toà, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn Vũ Thị Ánh T là ông Trần
Mạnh Hùng đều trình bày: Bà Vũ Thị Ánh T và ông Hoàng Văn T là anh em con
bác – con dì. Trong nhiều năm bà Vũ Thị Ánh T có hỗ trợ ông Hoàng Văn T
trong công việc làm ăn, bà Vũ Thị Ánh T cho ông Hoàng Văn T vay tiền nhiều
lần và diễn ra thường xuyên. Khi vay tiền, ông Hoàng Văn T có giao giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là bản
gốc cho bà Vũ Thị Ánh T giữ để làm tin. Do mối quan hệ họ hàng và cũng đã cho
vay tiền nhiều lần nên hai bên có sự tin tưởng. Việc vay tiền và giữ giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất giữa bà Vũ Thị Ánh T với ông Hoàng Văn T chỉ viết
giấy với nhau. Ngày 20/12/2016, bà Vũ Thị Ánh T có cho ông Hoàng Văn T vay
số tiền là 900.000.000VNĐ, ông Hoàng Văn T có đưa cho bà Vũ Thị Ánh T giữ
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc quyền sử dụng của ông Hoàng Văn T,
chứng nhận quyền sử dụng diện tích đất tại tổ 08, thị trấn S , huyện S, tỉnh Lào
Cai để đảm bảo làm tin cho khoản vay. Quyền sử dụng thửa đất này bà Vũ Thị
Ánh T biết rất rõ có nguồn gốc là do ông Hoàng Văn T nhận chuyển nhượng từ
bà Nguyễn Thị K và ông Lê Thanh Hải. Vì lý do ông Hoàng Văn T đang công
tác nên không trực tiếp đứng tên trên hợp đồng chuyển nhượng cũng như trên giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất mà lấy tên chị ruột là bà Hoàng Thị H đứng tên.
Việc nhận chuyển nhượng đất của ông Hoàng Văn T và việc lấy tên bà Hoàng Thị
Hâu đứng tên hộ ông Hoàng Văn T trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
nhiều người trong gia đình, cơ quan và người chuyển nhượng đất cho ông Hoàng
Văn T là bà Nguyễn Thị K và ông Lê Thanh Hđều biết. Việc nhận chuyển nhượng
đất và thanh toán tiền từ năm 2014 bà Hoàng Thị H không hề biết và không tham
gia vào việc thoả thuận nhận chuyển nhượng. Tất cả các văn bản giấy tờ từ đặt
cọc, giao nhận tiền, giao kết hợp đồng nhận chuyển nhượng đều do ông Hoàng
Văn T trực tiếp thực hiện, thỏa thuận và ký kết với bên chuyển nhượng. Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất được Ủy ban nhân
dân thị trấn S , tỉnh Lào Cai chứng thực ngày 06/03/2014 là cơ sở để cơ quan đăng
ký đất đai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất cũng do ông Hoàng Văn T xác lập với bên chuyển nhượng.
Chữ ký trong hợp đồng ký bên nhận chuyển nhượng là chữ ký của ông Hoàng
Văn T chứ không phải chữ ký của bà Hoàng Thị H . Sau khi giao kết hợp đồng
chuyển nhượng tại Ủy ban nhân dân thị trấn S , ông Hoàng Văn T cũng là người
trực tiếp tiến hành thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất. Bà Hoàng Thị H hoàn toàn
không biết và không tham gia hay đóng góp gì vào quá trình nhận chuyển nhượng
đối với quyền sử dụng diện tích đất tại tổ 08, thị trấn S , huyện S, tỉnh Lào Cai.
Sau khi tiến hành thủ tục sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên
bà Hoàng Thị H , ông Hoàng Văn T vẫn là người giữ giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất và là người trực tiếp quản lý sử dụng thửa đất, bà Hoàng Thị H chỉ là
người ông Hoàng Văn T ghi tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, không
phải là chủ sử dụng đất hợp pháp. Đến khi ông Hoàng Văn T bị tai biến năm 2021,
bà Hoàng Thị H mới biết có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên bà
Hoàng Thị H . Vì vậy, việc bà Hoàng Thị H khởi kiện yêu cầu bà Vũ Thị Ánh T
trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BO756507 số vào sổ cấp giấy chứng
5
nhận CH 00004 ngày 03/4/2014 là không có căn cứ. Bà Vũ Thị Ánh T đề nghị
Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Lào Cai không chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của bà Hoàng Thị H . Bà Vũ Thị Ánh T chỉ trả lại giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho ông Hoàng Văn T, khi ông Hoàng Văn T hoàn trả các khoản tiền đã
vay.
Trong nội dung đơn đề nghị ngày 17/6/2024, người giám hộ của người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Hoàng Văn T là bà Hoàng Thị Thanh H trình
bầy: Bà Hoàng Thị Thanh H và ông Hoàng Văn T có quan hệ là vợ chồng. Trong
quá trình chung sống ông Hoàng Văn T là người chủ động trong việc làm ăn kinh
tế, có tạo dựng được tài sản khối tài sản chung. Bà Hoàng Thị Thanh H được biết
có nhận chuyển nhượng một số diện tích đất tại thị xã S, nhưng việc làm ăn kinh
tế của ông Hoàng Văn T bà Hoàng Thị Thanh H không can thiệp, nên việc vay
tiền của bà Vũ Thị Ánh T để làm ăn và việc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng
đất tại thị xã S, bà Hoàng Thị Thanh H để ông Hoàng Văn T tự chủ động. Từ năm
2021 khi ông Hoàng Văn T bị tai biến tôi và gia đình vẫn chăm sóc, sau đó bà
Hoàng Thị H là chị chồng tôi có đưa ông Hoàng Văn T về chăm sóc, từ đó có
xảy ra việc tranh chấp vay tài sản và đòi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do
ông Hoàng Văn T nhận chuyển nhượng tại thị xã S. Đến nay, theo quyết định giải
quyết việc dân sự số: 01/2024/QĐST-VDS ngày 20/3/2024 của Toà án nhân dân
thành phố L, tỉnh Lào Cai, đã tuyên bố ông Hoàng Văn T mất năng lực hành vi
dân sự và chỉ định bà Hoàng Thị Thanh H là người giám hộ cho ông Hoàng Văn
T và thực hiện các quyền của người giám hộ theo quy định tại Điều 53, 57 và Điều
58 của Bộ luật dân sự. Bà Hoàng Thị Thanh H sẽ thực hiện đúng quyền của người
giám hộ đối với ông Hoàng Văn T, đề nghị Toà án giải quyết vụ án đảm bảo các
quyền về tài sản cho ông Hoàng Văn T theo quy định của pháp luật.
Trong nội dụng văn bản số: 1059/UBND-TNMT ngày 08/4/2024 người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Uỷ ban nhân dân thị xã S, tỉnh Lào Cai đã trình bày:
Tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên bà Hoàng Thị H
được thực hiện theo quy định của Luật đất đai năm 2003, thuộc thẩm quyền của
Ủy ban nhân dân huyện S (nay là Ủy ban nhân dân thị xã S), tỉnh Lào Cai. Đối
với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BO 756507 cấp ngày 03/4/2014 vào
sổ cấp GCN: CH 00004 do Ủy ban nhân dân huyện S (nay là Ủy ban nhân dân thị
xã S) đã cấp mang tên bà Hoàng Thị H là người sử dụng thửa đất với diện tích
583,4 m2 đất trồng cây hàng năm khác tại tổ 6, phường S , thị xã S, tỉnh Lào Cai.
Nguồn gốc thửa đất là do nhận chuyển nhượng của ông Lê Thanh Hvà bà Nguyễn
Thị K . Ủy ban nhân dân thị xã S, tỉnh Lào Cai căn cứ vào hồ sơ cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất mang tên bà Hoàng Thị H gồm: Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số: BO 756193 do Ủy ban nhân dân huyện S cấp ngày 24/6/2013, với
diện tích 583,4 m2, loại đất trồng cây hàng năm khác, địa chỉ tại tổ 08, thị trấn S
, huyện S, tỉnh Lào Cai mang tên ông Lê Thanh H (vợ là bà Nguyễn Thị K ). Ngày
06/03/2014, ông Lê Thanh Hvà bà Nguyễn Thị K chuyển nhượng cho bà Hoàng
Thị H , theo Hợp đồng chuyển nhượng số 06/HĐ-DS, được Ủy ban nhân dân thị
trấn S chứng thực ngày 06/3/2014. Ngày 06/03/2014 Ủy ban nhân dân thị trấn S
thẩm tra tại thực địa về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Ngày 28/03/2014
6
phòng Tài nguyên và Môi trường có Tờ trình số 160/TTr-TNMT, Tờ trình số
161/TTr-TNMT đề nghị thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Lê
Thanh Hvà đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Hoàng Thị H
. Ngày 03/4/2014, Ủy ban nhân dân huyện S ban hành Quyết định số 141/QĐ-
UBND thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Lê Thanh Hvà
Quyết định số 142/QĐ-UBND cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên
bà Hoàng Thị H . Đề nghị Tòa án nhân dân thành phố L căn cứ vào các hồ sơ, tài
liệu chứng cứ có liên quan giải quyết vụ án theo quy định. Sau khi có bản án có
hiệu lực của pháp luật, Ủy ban nhân dân thị xã S, tỉnh lào Cai sẽ căn cứ vào nội
dung bản án giải quyết theo quy định.
Bản án dân sự sơ thẩm số 17/2024/DS-ST ngày 02/7/2024 của Tòa án nhân
dân thành phố L, tỉnh Lào Cai đã quyết định:
Căn cứ vào khoản 1, Điều 147; khoản 1, Điều 227; khoản 3, Điều 228
Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 116, Điều 500, Điều 501, Điều 502 và Điều 503
Bộ luật dân sự. Khoản 16, Điều 3, Điều 97; điểm c, khoản 1, Điều 99, Điều
105, điểm d, khoản 2, Điều 106 Luật Đất đai và Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Hoàng Thị H về
việc yêu cầu bà Vũ Thị Ánh T phải trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số:
BO 756507, số vào sổ cấp GCN: CH 00004 đối với đất diện tích 583,4 m2, loại
đất trồng cây hàng năm khác, tại tổ 08, thị trấn S , huyện S (nay là tổ 06, phường
S , thị xã S), tỉnh Lào Cai.
Kiến nghị với Ủy ban nhân dân thị xã S, tỉnh Lào Cai, thu hồi lại giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số: BO 756507, số vào sổ cấp GCN: CH 00004, cấp ngày
03/4/2014, đối với đất diện tích 583,4 m2, loại đất trồng cây hàng năm khác, tại
tổ 08, thị trấn S , huyện S (nay là tổ 06, phường S , thị xã S), tỉnh Lào Cai mang
tên bà Hoàng Thị H .
Bà Hoàng Thị Thanh H là người giám hộ của ông Hoàng Văn T là được
quyền liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để đăng ký cấp lại giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 583,4 m2, loại đất trồng cây hàng năm
khác, tại tổ 08, thị trấn S , huyện S (nay là tổ 06, phường S , thị xã S), tỉnh Lào
Cai mang tên người sử dụng đất là ông Hoàng Văn T theo quy định của pháp luật
đất đai.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng
cáo cho các đương sự.
Ngày 17/7/2024, Nguyên đơn bà Hoàng Thị H kháng cáo kháng cáo toàn
7
bộ bản án dân sự sơ thẩm số 17/2024/DS-ST ngày 02/7/2024 của Tòa án nhân dân
thành phố L, tỉnh Lào Cai, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của bà Hoàng Thị H , buộc bà Vũ Thị Ánh T phải trả lại cho
bà Hoàng Thị H 01 bản gốc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BO 756507,
diện tích 583,4m2, đất trồng cây ở tổ 06, thị trấn S (nay là tổ 06, thị xã S), thời
hạn sử dụng đến năm 2033 do Ủy ban nhân dân huyện S (nay là thị xã S) cấp ngày
24/6/2013.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn bà Hoàng Thị H giữ
nguyên yêu cầu kháng cáo và đề nghị đưa thêm người có quyền lợi và nghĩa vụ
liên quan bà Nguyến Cẩm Tú vào tham gia tố tụng; Đề nghị xem xét lại việc
mất năng lực hành vi dân sự của ông Hoàng Văn T và đề nghị tạm dừng phiên
tòa.
Bị đơn đề nghị giữ nguyên ý kiến như quá trình giải quyết tại cấp sơ thẩm.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi và nghĩa
vụ liên quan bà Hoàng Thị Thanh H giữ nguyên ý kiến như quá trình giải quyết
tại cấp sơ thẩm và đề nghị Tòa án xem xét xử lý việc bà Hoàng Thị H và bà
Nguyễn Cẩm T cung cấp tài liệu, chứng cứ trong vụ án sai sự thật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lào Cai phát biểu ý kiến:
Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước
thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì Hội đồng xét xử, thư ký tòa án đã thực hiện
đúng theo trình tự, thủ tục tố tụng dân sự, những người tham gia tố tụng đều chấp
hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ
khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự: Không chấp nhận kháng cáo của
nguyên đơn bà Hoàng Thị H , giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 17/2024/DS-
ST ngày 02/7/2024 của Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Lào Cai.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại
phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét, đánh
giá đầy đủ, toàn diện các chứng cứ. Hội đồng xét xử nhận định.
[1] Về hình thức: Đơn kháng cáo của Nguyên đơn bà Hoàng Thị H có đầy
đủ nội dung, nộp đúng thời hạn theo quy định của pháp luật, là căn cứ để Tòa án
nhân dân tỉnh Lào Cai đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.
8
[2] Về thủ tục tố tụng: Cấp sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp và đưa
người tham gia tố tụng đầy đủ và đúng quy định.
[3] Xét kháng cáo của nguyên đơn bà Hoàng Thị H :
[3.1] Xét giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BO 756507, số vào sổ cấp
GCN: CH 00004, được Ủy ban nhân dân huyện S (nay là Ủy ban nhân dân thị xã
S), tỉnh Lào Cai cấp cho bà Hoàng Thị H ngày 03/4/2014, đối với diện tích đất
583.4 m
2
, loại đất trồng cây hàng năm khác, địa chỉ tại tổ 08, thị trấn S (nay là tổ
06, phường S , thị xã S), tỉnh Lào Cai.
Về nguồn gốc sử dụng đất: diện tích đất 583,4 m2, tại tổ 08, thị trấn S ,
huyện S (Nay là tổ 06, phường S , thị xã S), tỉnh Lào Cai. Đây là diện tích đất
trồng cây hàng năm khác, Ủy ban nhân dân huyện S, tỉnh Lào Cai, đã cấp quyền
sử dụng đất cho ông Lê Thanh Hvà bà Nguyễn Thị K vào ngày 24/6/2013, theo
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: BO 756193, số vào sổ cấp GCN: CH
00017. Ngày 06/03/2014, ông Lê Thanh Hvà bà Nguyễn Thị K thực hiện chuyển
nhượng quyền sử dụng tích đất 583,4 m2, loại đất trồng cây hàng năm khác, tại tổ
08, thị trấn S , huyện S (Nay là tổ 06, phường S , thị xã S), tỉnh Lào Cai, theo hợp
đồng chuyển nhượng số 06/HĐ-DS, được Ủy ban nhân dân thị trấn S chứng thực
ngày 06/3/2014 ghi tên người nhận chuyển nhượng là bà Hoàng Thị H . Căn cứ
vào hợp đồng chuyển nhượng và hồ sơ chuyển nhượng đất, ngày 03/4/2014, Ủy
ban nhân dân huyện S, tỉnh Lào Cai ban hành Quyết định số 141/QĐ-UBND và
Quyết định số 142/QĐ-UBND thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp
cho ông Lê Thanh Hvà bà Nguyễn Thị K để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số: BO 756507, số vào sổ cấp GCN: CH 00004 đối với đất diện tích 583,4 m2,
loại đất trồng cây hàng năm khác, tại tổ 08, thị trấn S , huyện S (nay là tổ 06,
phường S , thị xã S), tỉnh Lào Cai cho bà Hoàng Thị H .
[3.2] Xét quá trình chuyển nhượng đất:
Bà Hoàng Thị H kháng cáo cho rằng khoảng thời gian năm 2013-2014, bà
H có bán 02 thửa đất ở thành phố L và đi vay tiền một số người khác cho đủ 4.7
tỷ đồng để đưa cho em trai là ông Hoàng Văn T và nhờ ông T tìm mua đất ở thị
trấn S . Việc đưa tiền mặt cho ông T chỉ có hai người biết, không có ai chứng
kiến. Bà H nhờ ông T thực hiện toàn bộ các giao dịch như đi tìm đất, đàm phán,
thương lượng giá đất, trả tiền cọc, trả tiền cho chủ đất, bà H chỉ đến ký hợp đồng
mua bán đất đối với diện tích đất 583.4 m
2
, tại địa chỉ tổ 08, thị trấn S , huyện S
(Nay là tổ 06, phường S , thị xã S), tỉnh Lào Cai. Ngoài ra, bà H cũng đã nhiều
lần đưa tiền, góp tiền đưa cho ông T để mua 2 thửa đất khác tại thị trấn S .
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Tòa án cấp phúc
thẩm thấy rằng: Ngày 06/03/2014, ông Lê Thanh Hvà bà Nguyễn Thị K thực hiện
9
chuyển nhượng quyền sử dụng tích đất 583,4 m2, loại đất trồng cây hàng năm
khác, tại tổ 08, thị trấn S , huyện S (Nay là tổ 06, phường S , thị xã S), tỉnh Lào
Cai là có thật. Theo thoả thuận thực tế, thì bên chuyển nhượng là ông Lê Thanh
Hvà bà Nguyễn Thị K và bên nhận chuyển nhượng là ông Hoàng Văn T. Nhưng
các bên có thống nhất ghi trong hợp đồng chuyển nhượng số 06/HĐ-DS, ngày
06/3/2014 ghi tên người nhận chuyển nhượng là bà Hoàng Thị H . Thực tế bà
Hoàng Thị H không phải là người nhận chuyển nhượng quyền sử dụng diện tích
đất 583,4 m2, loại đất trồng cây hàng năm khác, tại tổ 08, thị trấn S , huyện S
(Nay là tổ 06, phường S , thị xã S), tỉnh Lào Cai.
Quá trình giải quyết tại cấp sơ thẩm: Theo lời khai của bà Hoàng Thị H xác
định: “Nguồn gốc diện tích 583,4m2 đất trồng cây, tại tổ 08 nay đổi thành tổ 06
phường S , thị xã S, tỉnh Lào Cai do em trai tôi là Hoàng Văn T đứng ra nhận
chuyển nhượng sau đó giao lại cho tôi có quyền sử dụng. Đã có hợp đồng chuyển
nhượng giữa người chủ đất cũ và em trai tôi Hoàng Văn T. Còn tôi không tham
gia giao dịch nhận chuyển nhượng. Khi nhận chuyển nhượng đất của chủ cũ, việc
thanh toán được đặt cọc từ 1 tỷ đến 1,5 tỷ tôi không nhớ rõ, số còn lại được chuyển
khoản làm nhiều lần do ông Hoàng Văn T chuyển khoản và nhờ nhân viên chuyển
khoản, còn ai là người chuyển khoản tôi không nhớ. Nguồn tiền để trả cho chủ
đất để nhận chuyển nhượng diện tích là của tôi, tôi chuyển vào công ty du lịch lữ
hành quốc tế tỉnh Lào Cai do ông Hoàng Văn T làm giám đốc. Tôi không có tài
liệu chứng cứ gì chứng minh việc chuyển tiền vào tài khoản của công ty du lịch
lữ hành quốc tế tỉnh Lào Cai do ông Hoàng Văn T để thanh toán tiền mua đất vì
cũng đã lâu rồi. Khi nhận chuyển nhượng tôi không nhớ thời gian nhận chuyển
nhượng, tôi cũng không trực tiếp trao đổi với chủ sử dụng đất chuyển nhượng đất,
mọi thủ tục nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất do ông Hoàng Văn T thực
hiện, chữ ký trong các thủ tục này do ai ký thì tôi không rõ, tôi có ký 1 vài lần,
còn thủ tục như thế nào tôi không rõ vì tôi không tham giao dịch”. Như vậy, bà
H thừa nhận việc bà H không phải là người trực tiếp thực hiện các giao dịch
chuyển nhượng đất.
Tại phiên tòa sơ thẩm bà H có thay đổi lời khai “Khoản tiền bỏ ra đề nhận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất là của bà Hoàng Thị H đi vay tiền mặt về đưa
cho ông Hoàng Văn T, nhờ ông Hoàng Văn T chuyển trả cho ông Lê Thanh Hvà
bà Nguyễn Thị K . Khi lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
06/3/2014 bà Hoàng Thị H có lên thị trấn S , huyện S, nhưng do say xe bà Hoàng
Thị H nằm ở nhà nghỉ bà Hoàng Thị H không nhớ ai mang hợp đồng chuyển
nhượng đến cho bà Hoàng Thị H ký vào hợp đồng, chữ ký trong hợp đồng là của
bà Hoàng Thị H ”. Tuy nhiên, bà H và người đại diện theo uỷ quyền của nguyên
đơn và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn không cung cấp
10
được chứng cứ chứng minh việc giao tiền cho ông Hoàng Văn T để trả cho bên
chuyển nhượng, kể cả số tiền giao cho ông Hoàng Văn T là bao nhiêu để nhận
chuyển nhượng thì đều không cung cấp được. Chứng cứ trong hồ sơ vụ án thể
hiện bà Hoàng Thị H không biết giá chuyển nhượng thửa đất là bao nhiêu, không
biết thời gian nhận chuyển nhượng đất chính xác, không biết diện tích đất nhận
chuyển nhượng tại vị trí nào và cũng không cung cấp được giấy chuyển quyền sử
dụng đất từ ông Hoàng Văn T cho bà Hoàng Thị H . Từ khi các bên thực hiện việc
chuyển nhượng quyền sử dụng đất năm 2014 đến nay bà Hoàng Thị H cũng không
phải là người quản lý giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và cũng không sử dụng
đất. Tại phiên tòa sơ thẩm bà Hoàng Thị H có cung cấp vi bằng xác định việc bà
Hoàng Thị H vay tiền vào khoảng tháng 02/2014, nhưng tài liệu này chỉ thể hiện
việc bà Hoàng Thị H lấy xác nhận có vay tiền chứ không có giá trị chứng minh
đối với việc vay tiền để nhận chuyển nhượng đất của ông Lê Thanh Hvà bà
Nguyễn Thị K vào ngày 06/3/2014.
Ngày 23/10/2024, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là bà
Nguyễn Thị Hải Y cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh việc bà H đã bán mảnh
đất tại khu chợ Duyên Hải vào năm 2013 với giá 700.000.000 đồng, có xác nhận
của người mua là bà Hoàng Thị Giáp, văn bản không có công chứng, chứng thực,
không có xác nhận của chính quyền địa phương. Đồng thời, bên nguyên đơn nộp
kèm theo 01 USB (Không có văn bản trình bày về xuất xứ của USB, không có
văn bản trình bày liên quan đến USB,..). Xét thấy, căn cứ quy định tại Điều 94,
Điều 95 Bộ luật tố tụng dân sự, các tài liệu, chứng cứ này không có giá trị chứng
minh, vì vậy Hội đồng xét xử phúc thẩm không có căn cứ để chấp nhận.
Căn cứ vào lời khai của ông Lê Thanh Hvà bà Nguyễn Thị K xác định vợ
chồng ông Hải, bà Khánh trực tiếp chuyển nhượng diện tích 583.4m
2
đất trồng
cây tại vị trí giữa đường Phan Si Păng và đường Vi Ô Lét thuộc tổ 8 nay là tổ 6
phường S , thị xã S cho ông Hoàng Văn T. Quá trình trao đổi thỏa thuận, thực
hiện việc chuyển nhượng thì vợ chồng ông Hải, bà Khánh trao đổi trực tiếp với
ông T , không gặp bà Hoàng Thị H lần nào, việc ký kết hợp đồng, thực hiện thủ
tục sang tên, ký vào hợp đồng đều là ông Hoàng Văn T thực hiện.
Đồng thời, căn cứ vào lời khai của những người làm chứng anh Trinh Văn
Tiến xác định việc “Được ông Hoàng Văn T cho biết có mua diện tích đất
583,4m2 đất trồng cây tại đường Phan Si Păng và đường Vi Ô Lét tổ 06 phường
S , thị xã S, tỉnh Lào Cai, nhờ tên chị gái là bà H đứng tên.”. Lời khai của anh
Hoàng Ngọc Tính xác định: Biết ông Hoàng Văn T có 02 diện tích đất tại S nhưng
đều lấy tên bà Hoàng Thị H , có biết việc ông Hoàng Văn T vay tiền của bà T có
ghi trong giấy vay tiền, thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để mang
11
giấy vay tiền sang đưa cho bà T cầm làm tin và đã được đi xem diện tích đất
583,4m2 đất trồng cây tại đường Phan Si Păng và đường Vi Ô Lét.
Ủy ban nhân dân thị xã S căn cứ vào Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất và tài sản khác gắn liền với đất số 06/HĐ-DS ngày 06/3/2014 và hồ sơ
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất 583.4m
2
, loại đất
trồng cây hàng năm khác, tại tổ 08, thị trấn S , huyện S (Nay là tổ 06, phường S ,
thị xã S), tỉnh Lào Cai đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BO 756507,
ngày 03/4/2014. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào Bản kết luận giám
định số 31/KLTL-PC09 ngày 10/7/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an
tỉnh Lào Cai đã xác định chữ viết mang tên Hoàng Thị H dưới mục BÊN NHẬN
CHUYỂN NHƯỢNG QSD ĐẤT là chữ ký của ông Hoàng Văn T. Và căn cứ vào
lời khai của bà Hoàng Thị H và những người làm chứng trong vụ án xác định bà
Hoàng Thị H không phải là người trực tiếp thực hiện viêc trao đổi thỏa thuận,
thực hiện thủ tục pháp lý chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với diện tích đất
nêu trên. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất
số 06/HĐ-DS, được Uỷ ban nhân dân thị trấn S , huyện S, tỉnh Lào Cai chứng
thực ngày 06/3/2014, bên nhận chuyển nhượng là ông Hoàng Văn T đã ghi không
đúng người thực tế nhận chuyển nhượng trong hợp đồng, không đúng theo quy
định tại Điều 116; Điều 500, 501, 502, 503 Bộ luật dân sự và không đúng căn cứ
để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại điểm c, khoản
1, Điều 99 Luật Đất đai.
Từ những căn cứ nêu trên, xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đầy đủ,
khách quan và toàn diện các chứng cứ, tài liệu và lời khai của các đương sự, người
làm chứng trong vụ án, có đủ căn cứ để khẳng định: bà Hoàng Thị H không phải
là người xác lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền
với đất số: 06/HĐ-DS, được Uỷ ban nhân dân thị trấn S , huyện S, tỉnh Lào Cai
chứng thực ngày 06/3/2014. Diện tích đất 583,4 m2, loại đất trồng cây hàng năm
khác, tại tổ 08, thị trấn S , huyện S (Nay là tổ 06, phường S , thị xã S), tỉnh Lào
Cai, bà Hoàng Thị H không phải là người chủ sử dụng đất thực tế. Các tài liệu
chứng cứ có trong hồ sơ vụ án xác định, việc Uỷ ban nhân dân huyện S (Thị xã
S), tỉnh Lào Cai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: BO 756507, số vào
sổ cấp GCN: CH 00004 đối với đất diện tích 583,4 m2, loại đất trồng cây hàng
năm khác, tại tổ 08, thị trấn S , huyện S (nay là tổ 06, phường S , thị xã S), tỉnh
Lào Cai cho bà Hoàng Thị H là không đúng đối tượng. Diện tích 583,4 m2, loại
đất trồng cây hàng năm khác, tại tổ 08, thị trấn S , huyện S (nay là tổ 06, phường
S , thị xã S), tỉnh Lào Cai, người sử dụng thực tế có quyền hợp pháp là ông Hoàng
Văn T. Do đó cần căn cứ vào điểm c, khoản 1, Điều 99, Điều 105, điểm d, khoản
2, Điều 106 Luật Đất đai, kiến nghị với Ủy ban nhân dân thị xã S, tỉnh Lào Cai,
12
thực hiện các thủ tục thu hồi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: BO
756507, số vào sổ cấp GCN: CH 00004, được Ủy ban nhân dân huyện S (Nay là
thị xã S), tỉnh Lào Cai, cấp ngày 03/4/2014 mang tên bà Hoàng Thị H .
Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà
Hoàng Thị H là có căn cứ, đúng theo quy định của pháp luật.
[3.3] Đối với yêu cầu xem xét xử phạt hành chính đối với bà Vũ Thị Ánh T
về hành vi “Cầm cố trái phép tài sản của người khác” khi bà T ký giấy cho ông
Hoàng Văn T vay tiền nhưng lại nhận cầm cố tài sản của bà Hoàng Thị H , không
phải là tài sản của ông T và không có giấy ủy quyền của chủ sở hữu tài sản hợp
pháp là bà. Chuyển hồ sơ sang Công an tỉnh Lào Cai nếu xét thấy hành vi của bà
T có đủ các yếu tố cấu thành tội “Công nhiên chiếm đoạt tài sản, vật, giấy tờ có
giá trị” theo quy định tại Điều 172 Bộ luật hình sự, bà H cho rằng bà T đang
cầm, giữ trái phép Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà, làm cản trở quyền
sử dụng đất, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà H . Xét thấy, yêu
cầu nêu trên của bà H không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Trong quá
trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa phúc thẩm, bà Vũ Thị Ánh T trình bày: do
là chỗ anh em trong gia đình nên tin tưởng nhau bà cho ông Hoàng Văn T vay
tiền, ông Hoàng Văn T tự nguyện đưa giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên
cho bà giữ để làm tin, chứ không làm văn bản giấy tờ cầm cố hay đặt cọc. Do đó,
Hội đồng xét xử phúc thẩm không có căn cứ để đề nghị xử lý.
[3.4] Đối với yêu cầu thu thập chứng cứ từ Văn phòng công chứng thành
phố L có liên quan đến việc bà H có nguồn tiền để mua đất ở S từ việc tôi bán
02 thửa đất ở thành phố L năm 2013-2014. Xem xét tính hợp pháp của Vi bằng
số 60/2024/VB-TPLST lập ngày 25/6/2024 tại Văn phòng thừa phát lại Trường
Sơn; Bổ sung thêm những người làm chứng là những người bà H trực tiếp cho
vay tiền năm 2014 để chứng minh nguồn tiền bà H đưa cho ông Hoàng Văn T để
mua được thửa đất diện tích 583,4 m2, loại đất trồng cây hàng năm khác, tại tổ
08, thị trấn S , huyện S (nay là tổ 06, phường S , thị xã S), tỉnh Lào Cai. Xét thấy,
căn cứ vào Vi bằng số 60/2024/VB-TPLST lập ngày 25/6/2024 và việc bà H bán
02 thửa đất tại thành phố L chỉ thể hiện việc bà H có nguồn tiền từ việc bán đất
và có việc vay tiền chứ không có giá trị chứng minh đối với việc bà H đưa số tiền
đó đưa cho công Hoàng Văn T để thực hiện việc nhận chuyển nhượng đất của ông
Lê Thanh Hvà bà Nguyễn Thị K vào ngày 06/3/2014. Đồng thời, đối với yêu cầu
bổ sung thêm những người làm chứng tham gia tố tụng chứng minh việc bà H có
vay tiền vào năm 2014 là không cần thiết, bởi việc này chỉ chứng minh việc bà H
có thực hiện việc đi vay tiền chứ không có giá trị chứng minh việc bà H sử dụng
số tiền này để thực hiện việc nhận chuyển nhượng đất từ vợ chồng ông Hải, bà
Khánh.
13
[4] Trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm, người kháng cáo bà
Hoàng Thị H có đơn đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm đưa thêm bà Nguyễn Cẩm T
vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong
vụ án. Bà H cho rằng giữa bà và bà Nguyễn Cẩm T có thực hiện hợp đồng cho
thuê mặt bằng sản xuất từ tháng 10/2020, thời hạn thuê là 10 năm, do vậy việc
giải quyết tranh chấp trong vụ án này ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của bà Tú. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm
nhận thấy:
Xét thấy Hợp đồng cho thuê mặt bằng sản xuất giữa bà Hoàng Thị H và bà
Nguyễn Cẩm T : Về hình thức, hợp đồng được lập thành văn bản, tuy nhiên không
được công chứng, chứng thực và cũng không có xác nhận của chính quyền địa
phương.Trong hợp đồng có ghi ngày ký kết hợp đồng là ngày 20/10/2020 tại địa
chỉ số 004 Lê Quý Đôn, phường C, thành phố L, tỉnh Lào Cai, tuy nhiên tại mục
căn cước công dân của các bên có ghi “Căn cước công dân của bà Hoàng Thị H
số: 015160003917 do Cục trưởng cục cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã
hội cấp ngày 30/08/2021”, “Căn cước công dân của Nguyễn Cẩm T số CCCD:
015180010497; cấp ngày 09/05/2021 do Cục CSQLHC về TTXH”, như vậy căn
cước công dân của bà Hoàng Thị H và bà Nguyễn Cẩm T được cấp sau ngày ký
kết hợp đồng thuê mặt bằng sản xuất. Trong hợp đồng có ghi địa chỉ thửa đất cho
thuê tại tổ 8, thị trấn S , huyện S, tỉnh Lào Cai. Tuy nhiên thời điểm ngày
20/10/2020, thửa đất trên đã được thay đổi địa chỉ thành tổ 6, phường S , thị xã S,
tỉnh Lào Cai. Tại bản ghị lời khai ngày 15/10/2024 của bà Nguyễn Cẩm T xác
định hai bên tiến hành lập hợp đồng thuê mặt bằng, giá thuê mặt bằng thống nhất
thỏa thuận là 5.000.000 đồng/ tháng và chị Tú đã trả 05 năm với tổng số tiền là
300.000.000đ ( Ba trăm triệu đồng), nhưng trong bản hợp đồng giá thuê mặt bằng
là 8.000.000 đồng/tháng, tại giấy biên nhận trả tiền thuê mặt bằng 05 năm là
480.000.000đ ( Bốn trăm tám mươi triệu đồng). Như vậy bản hợp đồng mà bà H
cung cấp là không có thực.
Ngày 23/10/2024, Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai nhận được văn bản của bà
Nguyễn Cẩm T đề ngày 22/10/2024 do bưu điện chuyển đến. Xét thấy, đơn của
bà Nguyễn Cẩm T ghi là đơn yêu cầu độc lập, nhưng bản chất nội dung đơn là
việc bà Nguyễn Cẩm T đề nghị hoãn phiên toà. Tại lời khai ngày 15/10/2024 tại
Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai và tại phiên tòa, bà T xác định bà không liên quan
đến việc giải quyết vụ án. Xét nội dung vụ án thấy rằng việc tranh chấp đòi lại
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giữa bà Hoàng Thị H và bà Vũ Thị Ánh T ,
việc giải quyết vụ án không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà
Nguyễn Cẩm T . Do vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy bà Nguyễn Cẩm T
không phải là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ án.
14
Tại phiên tòa người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Hoàng Thị
Thanh H đề nghị Tòa án xem xét việc xử lý đối với nguyên đơn bà Hoàng Thị H
và người làm chứng bà Nguyễn Cẩm T cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo
gian dối theo quy định tại Điều 382 của Bộ luật hình sự. Xét thấy, yêu cầu nêu
trên không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của bà Hoàng Thị Thanh H có quyền tố giác tin báo tội phạm đến
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để giải quyết theo quy định của pháp luật.
[5] Xét đề nghị tổ chức hòa giải giữa các đương sự của bà Hoàng Thị H :
Tại giai đoạn xét xử sơ thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành hòa giải, tuy nhiên
hai bên đương sự không thống nhất được quan điểm giải quyết vụ án. Sau khi Tòa
án cấp phúc thẩm ra Quyết định hoãn phiên tòa ngày 02/10/2024 bà Hoàng Thị H
có đơn đề nghị tổ chức một phiên hòa giải giữa các đương sự để thống nhất thỏa
thuận với nhau về việc giải quyết tranh chấp. Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại
diện theo ủy quyền của bà Hoàng Thị H là bà Nguyễn Thị Hải Y đề nghị tiến
hành hòa giải về việc giải quyết vụ án, phía bị đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của bà Hoàng Thị Thanh H không đồng ý hòa giải, nên Tòa án cấp phúc
thẩm tiến hành giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
[6] Xét yêu cầu tạm dừng phiên tòa của người đại diện theo uỷ quyền của
nguyên đơn bà Hoàng Thị H với lý do để giám định lại năng lực hành vi dân sự
của ông Hoàng Văn T và xem xét lại việc cử người giám hộ cho ông T là bà
Hoàng Thị Thanh H của Tòa án nhân dân thành phố L. Xét thấy việc giám định
năng lực hành vi dân sự của ông Hoàng Văn T đã được Trung tâm pháp y tâm
thần khu vực miền núi phía bắc giám định trực tiếp theo đúng quy định của pháp
luật và đã ban hành kết luận giám định sức khỏe tâm thần số: 14/2024/SKTTTC
ngày 01/3/2024 đối với ông Hoàng Văn T, xác định ông Hoàng Văn T bị bệnh các
rối loạn tâm thần khác do tổn thương và rối loạn chức năng não và bệnh lý cơ thể.
Do đó Tòa án nhân dân thành phố L tuyên bố ông Hoàng Văn T là người mất năng
lực hành vi dân sự và cử bà Hoàng Thị Thanh H (Vợ hợp pháp của ông T ) là
người giám hộ cho ông Hoàng Văn T là đúng quy định của pháp luật theo Quyết
định giải quyết việc dân sự số: 01/2024/QĐST-VDS ngày 20/3/2024 của Toà án
nhân dân thành phố L, tỉnh Lào Cai đã có hiệu lực pháp luật. Vì vậy việc yêu cầu
tạm dừng phiên tòa của người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn bà Hoàng
Thị H là không có căn cứ.
Từ những nhận định nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận toàn bộ
yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn bà Hoàng Thị H về việc yêu cầu bà Vũ Thị
Ánh T phải trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: BO 756507, số vào sổ
cấp GCN: CH 00004 đối với đất diện tích 583,4 m2, loại đất trồng cây hàng năm
khác, tại tổ 08, thị trấn S , huyện S (nay là tổ 06, phường S , thị xã S), tỉnh Lào Ca
là có căn cứ pháp luật. Vì vậy, kháng cáo của nguyên đơn không được chấp nhận.
[7] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận, nên
người kháng cáo nguyên đơn bà Hoàng Thị H phải chịu tiền án phí dân sự phúc
thẩm theo quy định của pháp luật.
15
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308, Điều 148 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Không chấp nhận kháng cáo của Nguyên đơn bà Hoàng Thị H . Giữ
nguyên toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 17/2024/DS-ST ngày 02/7/2024 của
Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Lào Cai.
2. Về án phí dân sự phúc thẩm:
Bà Hoàng Thị H phải chịu 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí
dân sự phúc thẩm. Xác nhận bà Hoàng Thị H đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc
thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí ký
hiệu BLTU/24P, số 0000669 ngày 30/7/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự
thành phố L, tỉnh Lào Cai. Bà Hoàng Thị H đã nộp đủ tiền án phí dân sự phúc
thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và
9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Lào Cai (2);
- TAND thành phố L;
- Chi cục THADS thành phố L;
- Các đương sự;
- Người BV Q&LI HP;
- Lưu VT, HSVA.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Văn Nghĩa
16
CÁC THẨM PHÁN
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trương Quyết Thắng
Chu Văn Thanh
Trần Văn Nghĩa
Tải về
Bản án số 31/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 31/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 04/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 04/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 30/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 28/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 24/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 11/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 10/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 10/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm