Bản án số 526/2024/DS-PT ngày 01/11/2024 của TAND tỉnh Tiền Giang về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về danh dự, nhân phẩm, uy tín
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 526/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 526/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 526/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 526/2024/DS-PT ngày 01/11/2024 của TAND tỉnh Tiền Giang về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về danh dự, nhân phẩm, uy tín |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về danh dự, nhân phẩm, uy tín |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Tiền Giang |
Số hiệu: | 526/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 01/11/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ngày 18/6/2024, nguyên đơn Trần Thị Mộng Thùy T có đơn kháng cáo với nội dung |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH TIỀN GIANG
Bản án số: 526/2024/DS-PT
Ngày: 01/11/2024
V/v tranh chấp: “Bồi thường thiệt hại
danh dự, nhân phẩm bị xâm phạm”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Ái Đoan
Các Thẩm phán: Bà Trương Thị Tuyết Linh
Ông Trương Vĩnh Hữu
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thúy Phương - Thư ký Tòa án nhân
dân tỉnh Tiền Giang.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang
tham gia phiên tòa:
Ông Dương Thanh Quang - Kiểm sát viên.
Ngày 01 tháng 11 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 377/2024/TLPT-DS ngày 01 tháng 10
năm 2024 về tranh chấp “Bồi thường thiệt hại danh dự, nhân phẩm bị xâm
phạm”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 221/2024/DS-ST ngày 04 tháng 6 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 428/2024/QĐ-PT ngày
10 tháng 10 năm 2024, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Trần Thị Mộng Thùy T, sinh năm 1975 (Có mặt).
Địa chỉ: khu phố D, thị trấn V, huyện G, Tiền Giang.
Bị đơn: Trần Thành K, sinh năm 1973 (Có mặt).
Địa chỉ: khu phố D, thị trấn V, huyện G, Tiền Giang.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1/ Nguyễn Hữu P, sinh năm 1972 (Xin vắng mặt).
2/ Nguyễn Hoàng P1, sinh năm 1981 (Xin vắng mặt).
Cùng địa chỉ: khu phố D, thị trấn V, huyện G, Tiền Giang.
- Người kháng cáo: Nguyên đơn Trần Thị Mộng Thùy T
2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo án sơ thẩm, nguyên đơn chị T trình bày: Chị yêu cầu anh K bồi
thường số tiền thiệt hại danh dự, nhân phẩm, vu khống là 30.000.000đồng. Do
anh K vu khống chị là chị không có nói là ông P, ông P1 chửi chị khi chị đến
dọn dẹp ở Miễu, chị có điện thoại hỏi anh K thì anh K khẳng định là chị có nói
ngày nào xuống M cũng bị ông P, ông P1 chửi. Anh Khoa khẳng định tại buổi
tiếp xúc cử tri của huyện, tỉnh tại Nhà văn hóa huyện G là chị có phát biểu “ngày
nào chị xuống quét dọn Miễu thì ông P, ông P1 chửi chị” nhưng chị không có
phát biểu như vậy. Anh Khoa khẳng định ngày đó có hàng trăm cán bộ, người
dân chứng kiến. Sự việc này chị nghe đứa cháu nói lại nên chị mới điện thoại
hỏi anh K.
Ngày 22/6/2023, tại buổi tiếp xúc cử tri ở khu phố D, thị trấn V, huyện G
chị bức xúc sự việc của anh K nói chị như vậy nên chị có phát biểu nội dung nêu
trên tại buổi tiếp xúc cử tri, anh K có đứng lên khẳng định là chị có nói là ông P,
ông P1 chửi chị. Chị khẳng định là không có nói như thế. Sự việc này chị có viết
đơn gửi đến Ủy ban nhân dân thị trấn V giải quyết thì Ủy ban nhân dân thị trấn
V hướng dẫn gửi đơn đến Tòa án giải quyết.
Bị đơn anh K trình bày: Tại buổi tiếp xúc cử tri huyện, tỉnh thì chị T có
phát biểu “mỗi lần xuống đốt nhang ở M thì ông P, ông P1 chửi”. Qua ngày hôm
sau, lúc anh đang đi thu thuế thì chị T có điện thoại hỏi anh là “bộ anh có nói
cho thằng P là tôi có phát biểu mỗi lần tôi xuống M là thằng P, thằng P1 chửi
tôi”. Anh trả lời là không có gặp, không có nói chuyện với thằng P nên anh
không có biết gì thì chị T hỏi thêm “hôm qua em có phát biểu vấn đề này không
thì anh trả lời là có ở lần phát biểu thứ hai” sau đó anh có nói trong điện thoại
đang thu thế nên anh tắt máy.
Đến khi tiếp xúc cử tri ở khu phố D, thị trấn V thì chị T có phát biểu vấn đề
là anh vu khống nói chị T phát biểu mỗi lần xuống Miễu, ông P, ông P1 chửi thì
anh mới trả lời là chị T có phát biểu như vậy tại buổi tiếp xúc cử tri của huyện,
tỉnh. Liên quan đến việc phát biểu của chị T, anh sợ nghe lầm nên anh có hỏi lại
ông Đặng Văn H là tưởng khu phố D, thị trấn V thì ông H có nói y như anh nói.
Nay, anh không đồng ý bồi thường theo yêu cầu của chị T.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh P trình bày: Chị T thường
xuống Miễu (để cúng bà hàng năm ở khu phố nào cũng có cái Miễu) làm gì làm,
anh và anh P1 không quan tâm, không biết gì việc chị T xuống Miễu. Anh và
anh P1 chỉ là người dân sống ở gần M, không phải là người được giao trông coi
hay gìn giữ Miễu này. Anh và anh P1 không có nói năng gì việc chị T xuống
Miễu.
Chị T sống ở địa phương thường xuyên gây mẫu với mọi người ở hàng
xóm. Trước đây, chị T cũng thưa anh và anh P1 tại Ủy ban nhân dân thị trấn V
nhưng sau đó chị T rút đơn lại. Anh biết mỗi lần chị T đi tiếp xúc cử tri ở thị
3
trấn, huyện, tỉnh thường phát biểu cho rằng anh cầm mã tấu chém bà Trần Thị
H1, thường xuyên đi vu khống và phát biểu những việc không có, làm ảnh
hưởng đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của anh. Cụ thể theo đơn khởi kiện của
chị T đối với anh K thì anh xác định không có nói gì với chị T hết. Chị T phát
biểu nêu tên anh tại buổi tiếp xúc cử tri thị trấn, huyện, tỉnh cho rằng anh K nói
anh chửi mắng chị T mỗi lần chị T xuống Miễu là không có. Chị T tự đặt điều
để thưa anh K.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh P1 trình bày: Chị T sống ở địa
phương thường xuyên gây mâu thuẫn với mọi người ở hàng xóm. Trước đây, chị
T xúi mọi người đi thưa anh, ủy quyền cho chị T tham gia tố tụng, sau đó rút
đơn lại. Chị T xuống Miễu dọn dẹp, đốt nhang hay làm gì thì làm, anh không có
quan tâm hay nói năng gì vì nhà anh ở gần cái Miễu, anh cũng không có chửi
mắng gì chị T. Đối với việc chị T kiện anh K, anh xác định không có căn cứ,
kiện không đúng bởi lẽ chị T vu khống anh K, chị T đi tiếp xúc cử tri huyện thì
chị T có nói anh và anh P mỗi lần chị T xuống Miễu dọn dẹp thì anh và anh P
chửi. Sự việc này chị T nói, anh K nghe nhưng không có nói anh biết mà anh
nghe mọi người xung quanh nói chị T nói như thế, không thừa nhận là chị nói,
chị vu khống anh K.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 221/2024/DS-ST ngày 04 tháng 6 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang đã áp dụng: Điều 26,
Điều 35, Điều 39, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 584,
Điều 585, Điều 592 Bộ luật dân sự 2015; Nghị quyết số 02/2022/NQ-HĐTP
ngày 06/9/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp
dụng một số quy định của Bộ luật dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ
ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí, lệ phí Tòa án xử:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Mộng Thùy T.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của đương sự.
Ngày 18/6/2024, nguyên đơn Trần Thị Mộng Thùy T có đơn kháng cáo với
nội dung: Yêu cầu Tòa phúc thẩm giải quyết bao gồm: Buộc anh K bồi thường
danh dự nhân phẩm bằng tiền và nhận lỗi trước nhân dân tại trụ sở khu phố 4 và
xác minh những cán bộ và tổ trưởng tổ A anh Nguyễn Văn T1, và xử lý anh P,
anh P1 vu khống làm chứng cho anh K là chị gây rối trật tự rút đơn là không có.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và
giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau
về việc giải quyết vụ án.
Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phúc thẩm:
4
- Về tố tụng: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã tuân thủ theo đúng
quy định của pháp luật. Các đương sự cũng chấp hành theo đúng quy định của
pháp luật về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự.
- Về nội dung vụ án và yêu cầu kháng cáo của chị Trần Thị Mộng Thùy T:
Xét yêu cầu khởi kiện của chị T yêu cầu anh K bồi thường số tiền thiệt hại danh
dự, nhân phẩm, vu khống là 30.000.000đồng vì chị T cho rằng anh K nói với
nhiều người là chị nói mỗi lần chị T đi xuống dọn miễu thì bị ông P và ông P1
chưởi. Bị đơn anh K cho rằng không có nói với ai như chị T trình bày. Khi chị T
điện thoại hỏi anh thì anh có trả lời sự việc trên là do chị T phát biểu tại cuộc tiếp
xúc cử tri. Việc anh K xác định chị T sự việc trên không làm ảnh hưởng đến
danh dự nhân phẩm của chị T. Chị T không có chứng cứ gì để chứng minh là chị
bị hàng xóm xa lánh, cuộc sống chị vẫn diễn ra bình thường. Án sơ thẩm xử là
có căn cứ pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên án sơ thẩm.
Qua nghiên cứu toàn bộ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được
thẩm tra tại phiên tòa, nội dung yêu cầu kháng cáo của bà Trần Thị Mộng Thùy
T, lời trình bày của các đương sự và kết quả tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm,
ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng: Về xác định thẩm quyền và quan hệ tranh chấp “Bồi
thường thiệt hại danh dự nhân phẩm bị xâm phạm” của Tòa án cấp sơ thẩm là
phù hợp với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn theo quy định tại khoản 6 Điều
26 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đơn kháng cáo ngày 18/6/2024 của bà Trần Thị
Mộng Thùy T trong thời hạn quy định nên được chấp nhận.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Hữu P và anh
Nguyễn Hoàng P1 có đơn xin vắng mặt nên Hội đồng xét xử xử vắng mặt anh P
và anh P1 theo quy định tại khoản 2 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung vụ án và xét yêu cầu kháng cáo của bà Trần Thị Mộng
Thùy T:
Nguyên đơn bà T kiện ông K có hành vi vu khống bà vì ông K nói tại
buổi tiếp xúc cử tri ngày 22/6/2023 bà T có phát biểu: “Mỗi lần bà T xuống quét
miễu thì bị ông Nguyễn Hữu P và ông Nguyễn Hoàng P1 chưởi”. Ông K trình
bày khi bà T gọi điện thoại hỏi thì ông có nói bà T có phát biểu tại cuộc họp cử
tri như đã nêu trên nhưng ông không có nói với ai khác về nội dung nêu trên. Bà
T kiện yêu cầu ông K bồi thường thiệt hại danh dự, nhân phẩm bị xâm phạm số
tiền là 30.000.000 đồng.
5
Tòa sơ thẩm xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T, bà T không
đồng ý nên có đơn kháng cáo.
Đối với việc chị T kháng cáo yêu cầu anh K nhận lỗi trước nhân dân tại
khu phố P, xét thấy yêu cầu chị T không khởi kiện nên không được Hội đồng xét
xử xem xét.
Đối với việc chị T yêu cầu anh K bồi thường số tiền thiệt hại danh dự,
nhân phẩm, vu khống là 30.000.000đồng, theo biên bản xác minh ông Đặng Văn
H là trưởng khu phố D, thị trấn V, huyện G, tỉnh Tiền Giang, tại buổi tiếp xúc cử
tri bà T có phát biểu nội dung mỗi khi bà T xuống miễu quét dọn thì bị ông
Nguyễn Hữu P và ông Nguyễn Hoàng Phi C. Phía ông P cũng chỉ thừa nhận khi
bà T gọi điện thoại hỏi thì ông K xác nhận tại cuộc họp bà T có phát biểu như
trên nhưng anh không có nói với ai. Mặc khác bà T cũng thừa nhận sau khi sự
việc xảy ra thì cuộc sống của bà vẫn bình thường.
Từ những phân tích trên, xét thấy việc bà T kiện yêu cầu ông K bồi
thường thiệt hại danh dự nhân phẩm bị xâm phạm cho bà số tiền 30.000.000
đồng là không có căn cứ. Tòa sơ thẩm xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của bà T là có căn cứ pháp luật.
Bà T kháng cáo nhưng không cung cấp thêm được chứng cứ gì mới để
chứng minh nên không có căn cứ để chấp nhận.
[3] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang là có
căn cứ và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[4] Về án phí: Căn cứ điểm d khoản 1 Điều 12 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án
miễn án phí cho bà T.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 293, khoản 1 Điều 308, Điều 313, và khoản 1 Điều 148
của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Trần Thị Mộng Thùy T.
- Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 221/2024/DS-ST ngày 04 tháng 6
năm 2024 của Toà án nhân dân huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang.
Căn cứ Điều 26, Điều 35, Điều 39, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân
sự năm 2015;
Căn cứ Điều 584, Điều 585, Điều 592 Bộ luật dân sự 2015;
6
Căn cứ Điều 2 Nghị quyết số 02/2022/NQ-HĐTP ngày 06/9/2022 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định
của Bộ luật dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng;
Căn cứ điểm d khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
Xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Mộng Thùy T yêu
cầu anh K bồi thường số tiền thiệt hại danh dự, nhân phẩm, vu khống là
30.000.000đồng,
2. Về án phí: Miễn án phí cho chị Trần Thị Mộng Thùy T.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại TP.HCM;
- VKSND tỉnh Tiền Giang;
- TAND huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang;
- Chi cục THADS h. Gò Công Tây, Tiền Giang;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Ái Đoan
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 24/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 05/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 05/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 13/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 08/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 15/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 31/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 17/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 10/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm