Bản án số 484/2024/DS-PT ngày 21/11/2024 của TAND TP. Cần Thơ về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 484/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 484/2024/DS-PT ngày 21/11/2024 của TAND TP. Cần Thơ về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Cần Thơ
Số hiệu: 484/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 21/11/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Lưu Phương K - Nguyễn Thị H, Trần Văn T - Tranh chấp QSDĐ
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ CẦN THƠ Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 484/2024/DS-PT
Ngày: 21.11.2024
V/v “Tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất”
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ
- Thành phần hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa: Bà Hà Thị Phương Thanh
Các Thẩm phán: Ông Phạm Văn Bình
Ông Võ Bảo Anh
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Trí Khương – Thẩm tra viên Tòa án nhân dân
thành phố Cần Thơ.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ: Ông Nguyễn Văn
Phi - Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Vào ngày 19 21 tháng 11 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân n thành phố
Cần Thơ xét xử công khai vụ án thụ số 286/2024/TLPT-DS ngày 01 tháng 10 năm
2024 về “Tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự thẩm số 24/2024/DS-ST ngày 29 tháng 5 năm 2024 của
Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 449/2024/QĐPT-DS ngày
31 tháng 10 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Lưu Phương K, sinh năm 1964. Trú tại: Ấp T, thị trấn C,
huyện C, thành phố Cần T (có mặt).
Người đại diện hợp pháp cho K: Ông Châu Thanh B, sinh năm 1976. Trú
tại: Số A, đường C, phường C, quận N, thành phố Cần Thơ Văn bản ủy quyền ngày
25/9/2023 (có mặt).
- Bị đơn:
1. Ông Trần Văn T, sinh năm 1984. Trú tại: Ấp T, thị trấn C, huyện C, thành
phố Cần Thơ (xin vắng mặt).
2. Nguyễn Thị H, sinh năm 1941. Địa chỉ: Ấp T, thị trấn C, huyện C, thành
phố Cần Thơ (mất tháng 8/2024).
Người kế thừa tố tụng:
2.1. Phú H1, sinh năm: 1982. Trú tại: ấp T, Thị trấn C, huyện C, Tp Cần
Thơ (vắng mặt).
2
2.2. Lê Hà N, sinh năm: 1977 (vắng mặt).
2.3. Thị T1, sinh năm: 1973. Cùng địa chỉ: ấp T, Thị trấn C, huyện C, Tp
Cần Thơ (vắng mặt).
Người đại diện hợp pháp cho những người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng
của bà H:
1. Nguyễn Thị Diễm T2, sinh năm 1988. Trú tại: B, V, phường A, quận N,
thành phố Cần T (có mặt).
2. Bà Lê Thùy T3, sinh năm 1991. Trú tại: Số B, đường V, phường A, quận N,
thành phố Cần T (vắng mặt).
Văn bản uỷ quyền lập ngày 15/11/2024.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ủy ban nhân dân huyện C, thành phố Cần Thơ. Địa chỉ: Ấp T, thị trấn C,
huyện C, thành phố Cần T (vắng mặt).
Phía bà K:
2. Ông Lưu Minh Đ, sinh năm 1970 (vắng mặt).
3. Lưu Phương V, sinh năm 1965. Cùng trú tại: Ấp T, thị trấn C, huyện C,
thành phố Cần T (vắng mặt).
4. Bà Lưu Phương T4, sinh năm 1968. Trú tại: Ấp T, T, huyện T, thành phố
Cần Thơ (vắng mặt).
5. u Phương C, sinh năm 1963. Trú tại: Số A P, phường A, quận N,
thành phố Cần T (vắng mặt).
Người đại diện hợp pháp cho ông Đ, V, T4, C: Lưu Phương K -
Văn bản uỷ quyền lập ngày 24/3/2023 (có mặt).
Phía bị đơn ông T:
6. Ông Trần Bá T5, sinh năm 1960 (vắng mặt).
7. Bà Nguyễn Thị H2, sinh năm 1960 (xin vắng mặt).
8. Bà Trần Kim K1, sinh năm 1993 (xin vắng mặt).
9. Bà Trần Thị Nhớ Đ1, sinh năm 1988 (xin vắng mặt).
10. Bà Trần Thị Ngọc T6, sinh năm 1990 (xin vắng mặt).
Cùng trú tại: ấp T, thị trấn C, huyện C, thành phố Cần T.
Người đại diện hợp pháp cho người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông T5:
Nguyễn Thị Diễm T2, sinh năm 1988. Trú tại: B, V, phường A, quận N, Tp.Cần
Thơ. Văn bản uỷ quyền ngày 15/11/2024 (có mặt).
Phía bị đơn bà H:
11. Ông Nguyễn Thiện M, sinh năm 1986 (vắng mặt)
3
12.Ông Lê Phú H1, sinh năm 1982 (vắng mặt)
13. Bà Trần Thị Phương T7, sinh năm 1986 (vắng mặt)
14. Ông Lê Hà N, sinh năm 1977 (vắng mặt)
15. Ông Nguyễn Thành Đ2, sinh năm 2001 (vắng mặt)
16. Bà Nguyễn Thị Yến O, sinh năm 1996 (vắng mặt)
17. Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1970 (vắng mặt)
18. Bà Lê Thị T1, sinh năm 1973. Cùng trú tại: ấp T, thị trấn C, huyện C, thành
phố Cần Thơ (vắng mặt)
19. Ông Kiều Viết T8, sinh năm 1964; Trú tại: ấp T, thị trấn C, huyện C, thành
phố Cần Thơ (xin vắng mặt).
20. Kiều Thị T9, sinh năm 1963 (xin vắng mặt).
21. Bà Kiều Thị V1, sinh năm 1964 (xin vắng mặt)
22. Bà Kiều Thị Mười Ú, sinh năm 1979 (xin vắng mặt)
23. Ông Kiều Tiến D, sinh năm 1965. Cùng trú tại: ấp A, xã T, huyện C, thành
phố Cần Thơ.
24. Kiều Thị H3, sinh năm 1969. Trú tại: ấp T, T, huyện T, thành phố
Cần Thơ (xin vắng mặt)
25. Bà Phạm Thị T10, sinh năm 1934 (vắng mặt)
26. Bà Kiều Thị N1, sinh năm 1971 (xin vắng mặt)
27. Bà Kiều Thị Q, sinh năm 1973 (xin vắng mặt)
28. Ông Kiều Xuân H4, sinh năm 1975. Cùng trú tại: Ấp T, thị trấn C, huyện
C, thành phố Cần Thơ (xin vắng mặt)
29. Nguyễn Văn T11, sinh năm 1987. Trú tại: Ấp T, thị trấn C, huyện C, thành
phố Cần Thơ (vắng mặt)
- Người kháng cáo:Lưu Phương K nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện cũng như trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn
bà K trình bày và yêu cầu khởi kiện như sau: Nguồn gốc đất tranh chấp tại thửa đất số
01, 02, 03, 04 trước đây của gia đình tạo lập trước năm 1975, đất toạ lạc tại ấp
T, thị trấn C, huyện C, thành phố Cần Thơ. Khi Nông trường huyện T thành lập, gia
đình bà có giao các thửa đất trên cho Nông trường và nhận Sổ khoán số 7062 với diện
tích 2,2 ha do đứng tên sổ khoán 7063 diện tích khoản 2,2 ha do ông Lưu Văn
L đứng tên. Sau khi Nông trường giải thể, đất của ai thì về nhưng gia đình H
(đang sử dụng phần đất tranh chấp) đất cùng địa phương nhưng không giao
trả lại đất cho gia đình bà.
4
Cũng trong lúc giao thời, đất từ Nông trường chuyển giao cho Ủy ban nhân
dân huyện C quản thì ông Kiều Viết T12 (đã mất) từ nơi khác đến chiếm đất của
gia đình bà. Đến năm 2015, vợ chồng ông Kiều Viết T12, Phạm Thị T10 ông
Kiều Xuân H4 bán một phần diện tích đất bao chiếm cho ông Trần Bá T5. Dù biết đất
đang tranh chấp nhưng ông T5 vẫn mua hiện nay ông Trần Văn T (con ông T5)
đang quản lý sử dụng.
Theo kết quả đo đạc thực tế thể hiện thì H đang quản sdụng 3.928,3m
2
thuộc thửa đất số 02, 03, 04, cùng tờ bản đồ số 13A và bị đơn ông T người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông T5 đang quản lý, sử dụng diện tích 417,7 m
2
, thuộc
một phần thửa đất số 01, tờ bản đồ số 13A.
Năm 2010, Ủy ban nhân dân thành phố C ban hành Quyết định số 2199/QĐ-
UBND, ngày 12/8/2010 về việc thu hồi đất của Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Một
thành viên N2 giao cho Ủy ban nhân dân huyện C đầu xây dựng Trung tâm
hành chính huyện. đã chấp hành giao đất ruộng đang canh tác đã nhận được
số tiền bồi thường trên phần diện tích đất đã giao. Năm 2011, Ủy ban nhân dân thành
phố C ban hành Quyết định 969/QĐ-UBND ngày 18/4/2011 về việc thu hồi phần đất
do Công ty N2 quản giao cho Ủy ban nhân dân huyện C quản tại thị trấn C,
huyện C khu dân đang để giao đất cấp giấy chứng nhận QSD đất cho các
hộ dân. Tháng 3/2012, Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên Môi trường thành phố C
tiến hành khảo sát, xác định ranh giới thửa đất.
Ngày 31/3/2016, UBND thành phố C ban hành Công văn s1166/UBND-KT
thống nhất chủ trương giao đất thu tiền sử dụng đất cho hộ gia đình, nhân sử
dụng phần đất thuộc khu chồng lấn tại ấp T, thị trấn C, huyện C. Ngày 18/6/2016, bà
nhận được thư mời của UBND thị trấn C nội dung: Triển khai việc đo đạc khu đất để
lập thủ tục giao đất thu tiền sử dụng đất. Đến 23/12/2020, Chi nhánh Văn phòng
đăng ký đất đai huyện C xác nhận hồ sơ địa chính cho bà trên phần đất bị bao chiếm.
Đến năm 2019, bà có đơn yêu cầu UBND huyện C cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất diện tích 4.820m
2
. Ngày 25/02/2019, UBND huyện C ban hành Công văn
số 364/UBND - TNMT về việc trả lời yêu cầu của trường hợp của không đủ
điều kiện cấp giấy chứng nhận QSD đất. đã khởi kiện quyết định hành chính yêu
cầu huỷ Công văn này và buộc Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho đối với phần diện tích đất 4.820m
2
cho rằng các gia đình bị
đơn đã bao chiếm sdụng đất của bà. Tại Bản án hành chính số 26/2019/HC- ST
ngày 01/11/2019 của Toà án nhân dân thành phố Cần Thơ vviệc khiếu kiện Công
văn trả lời đơn và hành vi hành chính yêu cầu cấp giấy chứng nhận QSDĐ. Nội dung
giải quyết: Bác yêu cầu khởi kiện của về việc yêu cầu huỷ toàn bộ Công văn số
364/UBND-TNMT ngày 25/02/2019 của Chủ tịch UBND huyện C và yêu cầu UBND
huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất diện tích 4.820m
2
mà những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đang sử dụng.
Không đồng ý với kết quả giải quyết trên, bà kháng o bản án hành chính trên
yêu cầu Toà án nhân dân Cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử lại theo trình tự
phúc thẩm. Tại phiên toà, đại diện theo uỷ quyền của rút toàn bộ yêu cầu kháng
5
cáo nên Toà án ra Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm, Bản án hành chính số
26/2019/HC-ST có hiệu lực pháp luật.
Do các bị đơn H, ông T người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông T5
không trả lại đất nên bà khởi kiện yêu cầu bị đơn bà H có trách nhiệm trả lại quyền sử
dụng diện tích 3.928,3m
2
, thuộc thửa đất số 02, 03, 04, tờ bản đồ số 13A và yêu cầu
bị đơn ông T người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông T5 trách nhiệm trả lại
quyền sử dụng diện tích 417,7m
2
thuộc thửa đất số 01, tờ bản đồ số 13A. Đất cùng
toạ lạc tại ấp T, thị trấn C, huyện C, thành phố Cần T.
* Trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, các bị đơn lần lượt có ý kiến:
- H ý kiến: Trước đây, gia đình bà T công nhân của Nông
trường huyện T (giai đoạn năm 1990), nay Công ty TNHH MTV N2. Do T tiến
hành thành lập chợ nên buộc gia đình di dời nhà đi nơi khác sinh sống. xin
giám đốc Nông trường cho gia đình một phần diện tích đất ở, vị trí đất chạy dọc
theo kinh Bốn Tổng đường lộ mới tiếp giáp thổ của ông Kiều Viết T12 gia
đình ông Tám V2. Ngày 25/12/1990, Giám đốc Nông trường chấp thuận đơn của
cho phép gia đình được cất nhà trên phần đất tranh chấp. Theo kết quả đo đạc
thực tế thể hiện phần diện tích đất đang quản lý, sử dụng 3.928,3m
2
, thuộc thửa
đất số 02, 03, 04, tờ bản đồ số 13A, đất toạ lạc tại ấp T, thị trấn C, huyện C, thành
phố Cần Thơ. Từ khi được Nông trường cho đất đến nay, gia đình đã sinh sống,
ổn định lâu dài trên 30 năm và không có bất kỳ tranh chấp gì.
Đến năm 2019, bà K có yêu cầu UBND huyện C cấp giấy chứng nhận QSD đất
diện tích 4.820m
2
. Ngày 25/02/2019, UBND huyện Công văn số 364/UBND-
TNMT huyện trả lời yêu cầu của K trường hợp của không đủ điều kiện cấp
giấy chứng nhận QSDĐ. K đã khiếu kiện Công văn này, K cho rằng gia đình
bà đã bao chiếm đất của K. Tại Bản án hành chính số 26/2019/HC- ST của Toà án
nhân dân thành phố Cần Thơ về việc khiếu kiện Công văn trả lời đơn và hành vi hành
chính yêu cầu cấp giấy chứng nhận QSDĐ. Toà án bác yêu cầu khởi kiện của K.
Việc K cho rằng gia đình bao chiếm đất không đúng. đã trình bày về
nguồn gốc đất và điều này đã được UBND huyện C thừa nhận tại trang 03 của Bản án
hành chính số 26/2019/HC- ST ngày 01/11/2019 của Toà án nhân dân thành phố Cần
Thơ với nội dung như sau: Vào năm 1977, Bộ N3 đã ban hành Quyết định số
51/QĐ.TC ngày 25/01/1977 về việc thành lập Nông trường Cờ Đỏ do Bộ N3 quản lý.
Đến năm 1987, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã quyết định số 247/HĐBT chuyển
giao Nông trường C cho Ủy ban nhân dân Tỉnh H (cũ) nay thành phố Cần Thơ.
Đến năm 1990, Nông trường bố trí một phần diện tích đất cho gia đình cất nhà ở.
Năm 1997, Ủy ban nhân dân tỉnh C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00023
cho Nông trường quốc doanh Cờ Đỏ diện tích 50.950,46 ha (trong đó, bao gồm phần
đất của đang sử dụng). Năm 2010, UBND thành phố C quyết định thu hồi diện
tích 200.511,9m
2
do Công ty N2 quản và giao cho UBND huyện C quản đầu
xây dựng Trung tâm hành chính huyện C. Năm 2011, UBND thành phố C thu hồi
diện tích 43.919m
2
do Công ty N2 quản lý và giao cho UBND huyện C quản lý tại thị
trấn C, huyện C. Như vậy, có thể khẳng định việc K khởi kiện yêu cầu gia đình bà
phải trả quyền sử dụng diện tích 3.928,3m
2
thuộc thửa 02, 03, 04, tờ bản đồ số 13A là
6
không có căn cứ. Do đó, bà không đồng ý trả lại đất cho nguyên đơn bà K.
- Ông T5 và ông T ý kiến: Vào ngày 15/9/2002, ông T5 nhận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất của vợ chồng ông Kiều Viết T12, Phạm Thị T10
ông Kiều Xuân H4 (con ruột của ông T12, T10) diện tích kích thước chiều
ngang 11,7m, chiều dài tính tlộ giao thông đến tiếp giáp Kinh Bốn Tổng với
số tiền 135.000.000 đồng có xác nhận của T13 ấp ông Trần Hoàng B1.
Về nguồn gốc đất tranh chấp, trước đây ông T12 công tác tại Nông trường
huyện T nên được Ban giám đốc Nông trường cấp phần đất thổ với chiều rộng
80m, chiều dài từ lgiao thông đến tiếp giáp kênh Bốn Tổng. Ông T12 đã sinh sống
ổn định từ năm 1990 cho đến khi chuyển nhượng cho gia đình ông. Đến tháng
8/1998, ông T12 có làm đơn gửi đến Ban lãnh đạo Nông trường xác nhận việc này và
được Giám đốc Nông trường xác nhận đúng sự thật. Sau khi nhận chuyển nhượng
đất, gia đình ông T (con ông T5) đã cất nhà trên đất sinh sống n định phía gia
đình ông T12 không ai ý kiến về vấn đề này. Ngày 18/9/2017, ông T5 làm đơn
đề nghị xác nhận vào ngày 15/9/2002 nhận diện tích đất chiều ngang 11,7 m x
chiều dài 85,5m (phần đất tranh chấp) tại đường I (đường H), thị trấn C, huyện C
được Chủ tịch UBND thị trấn C xác nhận.
Năm 2019, bà K yêu cầu UBND huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đối với phần diện tích 4.820 m
2
(trong đó phần diện tích ông T đang sử
dụng). Ngày 25/02/2019, UBND huyện C có Công văn số 364/UBND - TNMT huyện
trả lời đơn yêu cầu của bà K trường hợp của bà K không đủ điều kiện cấp giấy.
K đã khiếu kiện Công văn này, cho rằng gia đình ông T đã lấn chiếm đất của bà.
Tại Bản án hành chính số 26/2019/HC- ST của Toà án nhân dân thành phố Cần Thơ
bác yêu cầu khởi kiện của K. Việc K cho rằng gia đình ông T bao chiếm đất
không đúng. Ông T đã trình bày về nguồn gốc đất điều này đã được UBND huyện
C thừa nhận tại trang 03 của Bản án hành chính số 26/2019/HC- ST ngày 01/11/2019
của Toà án nhân dân thành phố Cần Thơ với nội dung như sau: Vào năm 1977, Bộ
N3 đã ban hành Quyết định số 51/QĐ.TC ngày 25/01/1977 vviệc thành lập Nông
trường Cờ Đỏ do Bộ N3 quản lý. Đến năm 1987, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã
quyết định số 247/HĐBT chuyển giao Nông trường C cho Ủy ban nhân dân Tỉnh H
nay thành phố Cần Thơ. Đến năm 1990, Nông trường bố trí đất cho gia đình
ông Kiều Viết Tràng . Năm 1997, Ủy ban nhân dân tỉnh C cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số 00023 cho Nông trường quốc doanh Cờ Đỏ diện tích 50.950,46
ha (trong đó, bao gồm phần đất của ông Kiều Viết T12 đang sử dụng). Năm 2010,
UBND thành phố C quyết định thu hồi diện tích 200.511,9m
2
do Công ty N2 quản
lý và giao cho UBND huyện C quản lý đầu tư xây dựng Trung tâm hành chính huyện
C. Năm 2011, UBND thành phố C thu hồi diện tích 43.919m
2
do Công ty N2 quản lý
và giao cho UBND huyện C quản lý đất tại địa bàn thị trấn C, huyện C.
Việc ông T12 chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên cho gia đình ông T
hợp pháp và ông T đã thanh toán đầy đủ tiền chuyển nhượng cho ông T12. Việc bà K
khởi kiện yêu cầu gia đình ông T phải trả quyền sử dụng diện tích 417,7m
2
, thuộc
một phần thửa đất số 01, tờ bản đồ số 13A không căn cứ. Do đó, phía ông T
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông T5 không đồng ý trả lại đất cho K.
7
* Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan lần lượt trình bày:
- Ông Nguyễn Thiện M trình bày: Trước đây, gia đình ông T, bà Nguyễn
Thị H mẹ ông là công nhân của Nông trường huyện T (giai đoạn năm 1990). Do
T tiến hành lập chợ nên buộc gia đình ông phải tháo dở nhà đi nơi khác sinh sống. Mẹ
ông có làm đơn xin Ban giám đốc Nông trường cho gia đình một phần diện tích đất
để vị trí dọc theo Kinh Bốn Tổng đường lộ mới, phía bắc giáp thổ của gia
đình ông Kiều Viết T12, phía Nam giáp ông Tám V2. Ngày 25/12/1990, Giám đốc
Nông trường thay mặt Ban Giám đốc chấp thuận đơn và cho phép gia đình ông cất
nhà theo diện tích trên. Từ khi được Nông trường cho đất đến nay, gia đình ông
đã sinh sống, ổn định lâu dài trên đất hơn 30 năm không bất kỳ tranh chấp với
những người xung quanh. Qua yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu
buộc gia đình ông phải trả lại phần diện tích đất bao chiếm 3.928,3m
2
, thuộc thửa
đất số 02, 03, 04, cùng tờ bản đồ số 13A không căn cứ. Đề nghị bác yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn.
- Ông Phú H1, Trần Thị Phương T7, ông N, ông Nguyễn Thành
Đ2, Nguyễn Thị Yến O, ông Nguyễn Văn S, bà Thị T1 thống nhất lời trình bày
của ông Nguyễn Thiện M.
- Nguyễn Thị H2 trình bày: Vào ngày 15/9/2002, ông Trần Bá T5 chồng
nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ vợ chồng ông Kiều Viết T12,
Phạm Thị T10 và ông Kiều Xuân H4 diện tích đất kích thước chiều ngang
11,7m, chiều dài tính từ tiếp giáp mặt lộ tới mé sông, giá chuyển nhượng
135.000.000 đồng, xác nhận của ông Trần Hoàng B1 (trưởng ấp). vậy, qua yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu buộc gia đình ông trả lại đất bao chiếm
diện tích 417,7m
2
, thuộc thửa s01, tờ bản đồ số 13A hoàn toàn không căn cứ.
Đề nghị bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
- Trần Kim K1, Trần Thị Nhớ Đ1, Trần Thị Ngọc T6 thống nhất lời
trình bày của bà Nguyễn Thị H2.
- Ủy ban nhân dân huyện C ý kiến: Phần diện tích đất tranh chấp diện tích
3.928,3m
2
, thuộc thửa đất 02,03, 04 và diện tích 417,7 m
2
, thuộc một phần thửa đất s
01, cùng tờ bản đồ số 13A đã bị thu hồi theo Quyết định số 2199/QĐ-UBND ngày
12/10/2010 của Ủy ban nhân dân thành phố C về việc thu hồi đất của Công ty N2
giao cho Ủy ban nhân dân huyện C đầu xây dựng Trung tâm hành chính huyện C.
Đối với phần diện tích đất nêu trên, Ủy ban nhân dân huyện C ý kiến đnghị
không xem xét giải quyết tranh chấp quyền sdụng đất cho các hộ dân đang tranh
chấp.
- Ông Kiều Viết T8 trình bày: Cha ông ông Kiều Viết T12 (mất năm 2005),
mẹ bà Phạm Thị T10, sinh năm 1934. Cha mẹ có 09 người con gồm: Bà Kiều Thị T9,
ông Kiều Viết T8, Kiều Thị V1, ông Kiều Tiến D, Kiều Thị H3, Kiều Thị
N1, Kiều Thị Q, ông Kiều Xuân H4, Kiều Thị Mười Ú. Nguồn gốc đất tranh
chấp tại thửa 01, tờ bản đồ số 13A trước đây của Nông trường huyện T (cũ) nay
Công ty TNHH MTV N2 cấp cho cha mông diện ch 1.736,4m
2
quản lý, sử dụng
vào năm 1984. Đất toạ lạc tại ấp T, thị trấn C, huyện C, thành phố Cần Thơ. Quá
8
trình sử dụng đất cho đến nay, phần diện tích đất này chưa được nhà nước cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2002, mẹ ông chuyển nhượng một phần diện
tích 417,7 m
2
(theo kết quả đo đạc thực tế) cho ông Trần T5, giá chuyển nhượng
bao nhiêu lập giấy tờ thì ông không biết rõ. Sau khi thoả thuận xong, ông T5
giao đủ tiền chuyển nhượng mẹ ông giao phần đất chuyển nhượng cho ông T5 sử
dụng. Hiện tại, phần đất này do ông Trần Văn T (con ông T5) đang quản sử dụng.
Đối với phần diện tích còn lại thuộc thửa đất số 01, tờ bản đồ số 13A, hiện mẹ ông và
các anh em của ông đang quản lý sử dụng. Qua yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về
việc yêu cầu bị đơn ông Trần Văn T có trách nhiệm trả lại phần diện tích 417,7m
2
thì
ông không ý kiến, yêu cầu việc tranh chấp giữa các bên, các bên tự giải
quyết.
- Phạm Thị T10, Kiều Thị T9, Ông Kiều Viết T8, Kiều Thị V1, ông
Kiều Tiến D, bà Kiều Thị H3, bà Kiều Thị N1, bà Kiều Thị Q, ông Kiều Xuân H4, bà
Kiều Thị Mười Ú thống nhất lời trình bày của ông Kiều Viết Trà .1
- Ông Nguyễn Văn T11 trình bày: Trước đây, ông hợp đồng thuê quyền
sử dụng đất với Nguyễn Thị H, thời hạn thuê 05 năm, gthuê 48.000.000
đồng/năm, đóng tiền thuê hàng năm và đã sử dụng phần đất thuê được 02 năm. Đối
với việc tranh chấp giữa K với H, ông không ý kiến. Tuy nhiên, trường hợp
giải quyết vụ án, phần đất tranh chấp được công nhận đất cho nguyên đơn hoặc bị
đơn thì mong xem xét cho ông được tiếp tục thực hiện hợp đồng thuê đất đến khi hết
thời hạn của hợp đồng.
* Vụ việc hòa giải không thành được đưa ra xét xử thẩm công khai. Tại
Bản án sơ thẩm số 24/2024/DS-ST ngày 29 tháng 5 năm 2024 của Tòa án nhân dân
huyện Cờ Đỏ xét xử và quyết định như sau:
1. Bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lưu Phương K đối với các bị đơn
Nguyễn Thị H, ông Trần Văn T người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Trần Bá T5 về việc yêu cầu bị đơn bà H có trách nhiệm trả lại quyền sử dụng đất diện
tích 3.928,3m
2
, thuộc thửa đất số 02, 03, 04, cùng tờ bản đồ số 13A và yêu cầu bị đơn
ông T người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông T5 cùng trách nhiệm trả lại
quyền sdụng diện tích 417,7m
2
, thuộc một phần thửa đất số 01, tờ bản đồ số 13A.
Đất tọa lạc tại ấp T, thị trấn C, huyện C, thành phố Cần Thơ. Vị trí, kích thước các
thửa đất được xác định theo 02 mảnh trích đo địa chính đo Trung tâm Kỹ thuật i
nguyên và Môi trường thành phố C lập cùng ngày 09/8/2022.
2. Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí dân sự, chi phí thẩm định quyền
kháng cáo của các đương sự.
* Ngày 11 tháng 6 năm 2024, nguyên đơn bà K kháng cáo với yêu cầu Tòa án
cấp phúc thẩm xét xử và sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn.
* Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và kháng cáo.
9
- Đại diện bị đơn không đồng ý kháng cáo của nguyên đơn. Đề nghị giữ
nguyên án sơ thẩm.
- Đại diện cho những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phía bà K đại diện
giữ nguyên ý kiến nhưK.
- Đại diện cho người quyền lợi, nghĩa vliên quan ông T5 không đồng ý
kháng cáo của nguyên đơn và thống nhất án sơ thẩm.
* Đại diện Viện kiểm sát phát biểu tại phiên tòa phúc thẩm:
- Về tố tụng: Người tham gia tố tụng người tiến hành tố tụng đã thực hiện
đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.
- Về nội dung: Qua tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm xem xét các chứng
cứ trong hồ sơ, phần đất tranh chấp đã cấp giấy cho Nông trường Cờ Đỏ năm
1997, phía gia đình K không chứng minh được mình được quyền sử như một
trong các giáy tờ theo quy định Luật đất đai. Tuy nguồn gốc từ bà Thị C1
nhưng đất đã được cấp giấy cho người khác nên chủ không quyền đòi lại theo
quy định Luật đất qua các thời kỳ. Đề nghkhông chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn, giữ nguyên án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Việc đại diện nguyên đơn đề nghị hoãn phiên tòa để triệu tập Ủy ban nhân dân
huyện C tham gia phiên tòa, thấy rằng, quá trình xét xử sơ thẩm Ủy ban nhân dân
huyện C đã có văn bản thể hiện ý kiến về vụ việc tranh chấp và việc vắng mặt của đại
diện Ủy ban nhân dân huyện không ảnh hưởng đến việc xét kháng cáo nguyên đơn,
do đó, vụ án được tiếp tục xét xử vắng mặt Ủy ban huyện C mà không cần phải hoãn
phiên tòa.
[1.2] Bị đơn ông T, những người quyền lợi nghĩa vụ liên quan xin vắng mặt, một
số vắng mặt không do nhưng thấy việc xét kháng cáo không ảnh hưởng đến quyền
lợi của những người vắng mặt không ảnh hưởng đến việc xét kháng cáo của
nguyên đơn nên tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định pháp luật.
[2] Về kháng cáo của nguyên đơn: Qua quá trình tranh tụng tại phiên tòa cũng như
các chứng có trong hồ sơ vụ án, có cơ sở xác định:
[2.1] Xét về nguồn gốc đất: Qua lời trình bày của các đương sự, thấy rằng
nguồn gốc phần đất tranh chấp do gia đình K Thị C1 (bà ngoại K)
khai mở trước năm 1975. Năm 1977 khi thành lập Nông trường C thì toàn bộ diện
tích đất này đã được đưa vào giao cho Nông trường quản lý. Năm 1997, Nông
trường đã được Ủy ban nhân dân tỉnh C (cũ) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
phần đất tranh chấp hiện nay. Năm 2010, Ủy ban nhân dân thành phố C ban hành
Quyết định số 2199/QĐ-UBND ngày 12/8/2010 về việc thu hồi đất của Công ty N2
và giao cho Ủy ban nhân dân huyện C đầu tư xây dựng Trung tâm Hành chính huyện
C, thành phố Cần Thơ, trong đó phần đất tranh chấp diện tích 3.928,3m
2
, thuộc
thửa đất s02, 03, 04, cùng tờ bản đồ số 13A do bị đơn H đang quản lý, sử dụng
10
và diện tích 417,7m
2
, thuộc một phần thửa đất số 01, tờ bản đồ số 13A do bị đơn ông
T đang quản lý, sử dụng. Đối chiếu quy định tại khoản 2 Điều 2 Luật Đất đai năm
1993, tại khoản 2 Điều 10 Luật Đất đai 2003, tại khoản 5 Điều 26 Luật đất đai 2013
thì Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã được giao theo quy định của Nhà
nước cho người khác sdụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền N
Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trường hợp đất của gia
đình K thuộc trường hợp nêu trên do đó gia đình K không được đòi lại đất
này đất đã cấp cho Nông trường Nông trường đã phân chia giao đất cho các
hộ canh tác, trong đó cũng có gia đình bà K được giao.
[2.2] Phía đại diện K khởi kiện cho rằng đất của gia đình nên buộc các bị
đơn trả lại nhưng lại ý kiến cho rằng đất này đề nghị Ủy ban nhân dân huyện C
giao hình thức thu tiền sử dụng thông qua việc Nhà nước mời lên làm việc
để tiến hành thủ tục đo đạc cho bà phần đất này là mâu thuẩn bởi vì nếu đất của mình
sử dụng lâu thì không cần phải trả tiền sử dụng cũng chứng minh được mình chưa
được cơ quan có thẩm quyền giao đất. Và việc xác định ranh giới đất cũng không xác
định được vị trí đâu phải đất đang tranh chấp hay không, biên bản đo đạc
nguyên đơn cung cấp cũng không có giá trị công nhận quyền sử dụng đất cho nguyên
đơn. Phía nguyên đơn còn cho rằng chủ trương của Ủy ban nhân dân huyện C giao
đất cho các hộ dân thu tiền nhưng nay lại không đồng ý giao là không đúng. Về
vấn này thấy rằng, đây là thẩm quyền của Ủy ban huyện trong việc giao đất, việc giao
đất phải phù hợp với kế hoạch, quy hoạch sdụng đất của địa phương, hiện phía các
bị đơn cũng không được giao đất và đất này đang bị thu hồi để sử dụng cho mục đích
khác, do đó, ý kiến này của nguyên đơn là không đúng.
[3] Với những nhận định trên nên đnghị của đại diện Viện kiểm sát phù
hợp quy định pháp luật. Cấp thẩm đánh giá chứng cứ không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn là đúng nên giữ nguyên.
[4] Về án phí:
[4.1] Án phí sơ thẩm: giữ nguyên như án sơ thẩm
[4.2] Án phí phúc thẩm: Do kháng cáo của nguyên đơn không được chấp nhận
nên phải chịu. Tuy nhiên, là người cao tuổi nên được miễn.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
*Căn cứ: - Khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
- Nghquyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường
vụ Quốc hội.
*Tuyên xử:
1 - Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn.
2 - Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm số 24/2024/DS-ST ngày 29 tháng 5 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ.
11
3 - Về án phí phúc thẩm: nguyên đơn được miễn.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân s
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc
bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án
dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành
án dân sự./.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
-Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ;
-Viện kiểm sát cùng cấp;
-Cơ quan Thi hành án dân sự H.Cờ Đỏ;
-Các đương sự;
-Lưu hồ sơ.
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Hà Thị Phƣơng Thanh
Tải về
Bản án số 484/2024/DS-PT Bản án số 484/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 484/2024/DS-PT Bản án số 484/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất