Bản án số 477/2024/DS-PT ngày 05/12/2024 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 477/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 477/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 477/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 477/2024/DS-PT ngày 05/12/2024 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Cà Mau |
Số hiệu: | 477/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 05/12/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ông P yêu cầu Tòa án án công nhận cho ông được quyền điều chỉnh Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ông T1 đứng tên đối với phần đất diện tích theo đo đạc thực tế 2.676,1m2 trích đo một phần thửa số 561, tờ bản đồ số 10 (bản đồ chỉnh lý năm 2018),. Ông P yêu cầu Tòa án án công nhận cho ông được quyền điều chỉnh Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ông T1 đứng tên đối với phần đất diện tích theo đo đạc thực tế 2.676,1m2 trích đo một phần thửa số 561, tờ bản đồ số 10 (bản đồ chỉnh lý năm 2018). Ông P yêu cầu Tòa án án công nhận cho ông được quyền điều chỉnh Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ông T1 đứng tên đối với phần đất diện tích theo đo đạc thực tế 2.676,1m2 trích đo một phần thửa số 561, tờ bản đồ số 10 (bản đồ chỉnh lý năm 2018). Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
Bản án số: 477/2024/DS-PT
Ngày: 05 - 12 - 2024
V/v tranh chấp quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Hiền
Các Thẩm phán: Ông Ninh Quang Thế
Ông Đặng Minh Trung
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Xuân Thũy là Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Cà Mau.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên tòa: Ông
Hữu Duy Khánh - Kiểm sát viên.
Ngày 05 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 385/2024/TLPT-DS ngày 10 tháng 10
năm 2024 về việc: Tranh chấp quyền sử dụng đất.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 101/2024/DS-ST ngày 31 tháng 7 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 303/2024/QĐ-PT ngày 28 tháng 10
năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Huỳnh Tấn P, sinh năm 1966.
Người đại diện hợp pháp của ông P: Anh Huỳnh Thanh Nghị, sinh năm
1987; cùng địa chỉ ông P (Hợp đồng ủy quyền ngày 03/12/2024, có mặt).
Cùng địa chỉ: Ấp 1, xã T, huyện T, tỉnh C ..
- Bị đơn: Ông Trần Văn T1, sinh năm 1955 (có mặt).
Địa chỉ: Ấp 1, xã T, huyện T, tỉnh C ..
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông T1: Bà Quách Ngọc Lam,
là Luật sư ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý
tỉnh Cà Mau (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1965 (cùng địa chỉ ông P, có mặt).
2. Ông Đặng Hoài D1, sinh năm 1963 (có mặt).
2
Địa chỉ: Ấp 3, xã Thới Bình, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau.
3. Ông Trần Hoàng V (Trần Hoàng D2), sinh năm 1954 (có yêu cầu độc lập,
có mặt).
Địa chỉ: Ấp Tân Trung, xã Hòa Thành, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông T1: Ông Kim Chan Đa Ra,
là Luật sư ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý
tỉnh Cà Mau (có mặt).
4. Bà Lương Thị H, sinh năm 1955 (vắng).
5. Anh Trần Bảo Q (vắng).
6. Anh Trần Cu T2 (vắng).
7. Anh Trần Ô S (vắng).
8. Ủy ban nhân dân huyện Thới Bình (vắng).
Người kháng cáo: Ông Trần Văn T1 là bị đơn; ông Trần Hoàng V (Diễn) là
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Trình bày của ông Huỳnh Tấn P:
Nguồn gốc phần đất tranh chấp do cụ Huỳnh Văn Giác (cha ông P) nhận
sang nhượng của cụ Đặng Văn Ấu vào năm 1980, phần đất có diện tích 02 công
(tầm 3m), đo đạc thực tế 2.676,1m
2
, trích đo một phần thửa số 561, tờ bản đồ số 10
(bản đồ chỉnh lý năm 2018), tọa lạc tại ấp 1, xã Thới Bình, huyện Thới Bình, tỉnh
Cà Mau. Năm 1985, cụ Giác cho ông P, gia đình ông P quản lý, sử dụng phần đất
này liên tục cho đến năm 2022 thì nhà nước làm tuyến lộ cao tốc Cần Thơ – Cà
Mau đi ngang qua phần đất, thì mới phát hiện ông T1 đứng tên Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất chồng thửa đất của ông P.
Ông P yêu cầu Tòa án án công nhận cho ông được quyền điều chỉnh Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất do ông T1 đứng tên đối với phần đất diện tích theo
đo đạc thực tế 2.676,1m
2
trích đo một phần thửa số 561, tờ bản đồ số 10 (bản đồ
chỉnh lý năm 2018), đất tọa lạc tại ấp 1, xã Thới Bình, huyện Thới Bình, tỉnh Cà
Mau thuộc quyền sử dụng của ông P.
* Trình bày của ông Trần Văn T1 và bà Nguyễn Thị N
Ông T1 xác định phần đất tranh chấp nêu trên không phải đất của ông T1,
nhưng nằm trong thửa đất do ông T1 đứng tên Giấy chứng nhận. Nguồn gốc của cụ
Chót là mẹ ông Trần Hoàng V (Diễn), cụ Chót có 03 người con tên Trần Hoàng V
(Diễn), Đặng Hoài D1, bà Nguyễn Hồng Nho. Cụ Chót chết để lại đất này cho ông
V, không có giấy tờ cho đất. Sau đó, ông V giao cho ông T1 quản lý, sử dụng vào
năm 1979. Ông T1 chỉ giữ đất dùm ông V, không được sang bán, khi nào ông V về
ở trên đất thì ông T1 trả lại đất.
3
Nay ông T1 không chấp nhận yêu cầu của ông P với lí do là đất của ông V,
nếu ông V yêu cầu đòi đất thì ông T1 trả lại, ông T1 và ông V tự thỏa thuận với
nhau về thành quả lao động trên đất, không yêu cầu giải quyết trong vụ án này.
* Trình bày của ông Trần Hoàng V (Trần Hoàng D2):
Nguồn gốc phần đất đang tranh chấp do chính quyền địa phương ấp 1, xã
Thới Bình cấp cho mẹ ông là cụ Đặng Thị Chót, cách nay hơn 50 năm. Sau khi
được cấp đất, cụ Chót quản lý, sử dụng hơn 01 năm, do chiến tranh ác liệt nên cụ
Chót bỏ đất, đi vào vùng giải phóng sống, phần đất này không ai quản lý. Năm
1997, ông V giao đất cho ông T1 quản lý và giao cho ông T1 làm Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất nhưng không được quyền sang bán phần đất này, việc giao đất
cho ông T1 chỉ nói miệng, không có giấy tờ gì.
Sau khi gửi đất cho ông T1, ông V không gặp ông T1 để hỏi về phần đất; từ
sau năm 2022, ông V yêu cầu ông T1 trả lại đất, ông T1 đồng ý trả nhưng đất do
ông P quản lý nên ông P không đồng ý trả.
* Trình bày của ông Đặng Hoài D1:
Nguồn gốc phần đất tranh chấp hiện tại giữa ông Huỳnh Tấn P và ông Trần
Văn T1 là của Nhà nước cấp cho ông Đặng Văn Ấu và bà Đặng Thị Chót nhưng
không biết rõ thời gian cấp, lúc canh tác đất thì ông V không sống chung với gia
đình mà sống riêng với lí do trước đây đi bộ đội, sau đó lập gia đình và sinh sống
nơi khác. Từ năm 1975 cho đến năm 2022, không có lần nào ông V về quê tại ấp 1,
xã Thới Bình, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau để đặt vấn đề đòi lại đất.
Lúc sinh thời, ông Đặng Văn Ấu sang nhượng cho ông Huỳnh Văn Giác
phần đất có diện tích 02 công (tầm 3m), ông D1 lúc này khoảng 15 tuổi, được ông
Ấu bảo đến nhà ông Giác lấy lúa. Sau khi nhận sang nhượng, ông Giác quản lý, sử
dụng đất một thời gian thì cho lại con trai là Huỳnh Tấn P canh tác, sử dụng cho
đến nay.
Ông D1 xác định ý kiến của ông V là không đúng, lúc chiến tranh ác liệt thì
ông Ấu và bà Chót đi vào vùng giải phóng sống, phần đất này bỏ hoang, bà Chót
chết khi còn trong vùng giải phóng. Sau tiếp thu tức năm 1975, ông Ấu trở về phần
đất này canh tác, ông D1 và ông Ấu cùng canh tác, ông V không có về địa phương
nên không có quản lý, sử dụng đất.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 101/2024/DS-ST ngày 31 tháng 7 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Thới Bình đã quyết định:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Tấn P.
Điều chỉnh một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số E 0081401, số
vào sổ 11653 QSDĐ, cấp ngày 17/12/1996 do ông Trần Văn T1 đứng tên quyền sử
dụng, phần đất điều chỉnh có diện tích 2676,1m
2
(trong đó có 54,5m
2
là đường Bê
tông hiện trạng), tọa lạc tại ấp 1, xã Thới Bình, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau cho
ông P được quyền quản lý, sử dụng (vị trí được thể hiện tại bản Trích đo hiện trạng
ngày 29/12/2023 của Công ty TNHH Phát triển xanh Việt Nam).
4
Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu độc lập của ông Trần Hoàng V.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về quyền yêu cầu điều chỉnh Giấy chứng
nhận, về nghĩa vụ thi hành án, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 14 tháng 8 năm 2024, ông Trần Văn T1 là bị đơn và ông Trần Văn V
là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm giải
quyết:
- Ông Trần Văn T1 kháng cáo yêu cầu sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm
theo hướng không chấp nhận yêu cầu của ông Huỳnh Tấn P.
Không đồng ý hoàn trả chi phí tố tụng cho ông P số tiền 13.645.800 đồng, vì
ông T1 và ông P không có nghĩa vụ gì với nhau.
- Ông Trần Hoàng V kháng cáo yêu cầu sửa toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm
theo hướng không chấp nhận yêu cầu của ông Huỳnh Tấn P, đồng thời chấp nhận
yêu cầu phản tố của ông Trần Hoàng V.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Đại diện nguyên đơn, anh Huỳnh Thanh Nghị và người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan, bà Nguyễn Thị N trình bày: yêu cầu giữ nguyên bản án sơ thẩm,
không đồng ý kháng cáo của ông T1 và ông V với lý do: phần đất cụ Giác nhận
sang nhượng từ cụ Ấu; ông D1 là con ruột cụ Ấu ở cùng cụ Ấu xác nhận sự kiện
sang nhượng; gia đình ông P quản lý, sử dụng đất trên 40 năm, ông T1 cũng như
ông V không có ý kiến gì.
- Ông Trần Văn T1 và Luật sư bảo vệ cho ông T1 trình bày: giữ nguyên
kháng cáo. Ông P không có quyền khởi kiện; bản chất đất là của ông V, như vậy bị
đơn là ông T1 hay là ông T1 và ông V cùng là bị đơn để xác định trách nhiệm chịu
chi phí tố tụng.
- Ông Trần Hoàng V và Luật sư bảo vệ cho ông V trình bày: yêu cầu khởi
kiện của ông P không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án; cụ Giác mới có
quyền khởi kiện; ông V được cụ Chót cho đất, vì lý do sức khỏe nên gửi đất cho
ông T1 và ông T1 được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là hợp pháp; giấy
giao kèo sang bán là hợp thức hóa, làm cho Tòa án cấp sơ thẩm nhầm lẫn có sự
kiện cụ Ấu sang bán đất cho cụ Giác.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau phát biểu quan điểm:
Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử tiến hành đúng theo quy
định của pháp luật tố tụng và các đương sự cũng chấp hành đúng với quyền và
nghĩa vụ của các đương sự được pháp luật quy định.
Về nội dung: Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự; không chấp
nhận kháng cáo của ông T1, ông V; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm;
trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của người tham gia tố tụng.
5
[1] Đơn kháng cáo của ông Trần Văn T1 và ông Trần Hoàng V nộp trong
thời hạn luật định, hợp lệ nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Theo như ông P trình bày: ông P được cha ruột là cụ Giác tặng cho 02
công đất vườn, khi nhà nước có chủ trương cấp Giấy chứng nhận thì ông P kê khai
toàn bộ đất mà ông đang quản lý, sử dụng; năm 1997, ông P được cấp Giấy chứng
nhận có tổng diện tích 15.090m
2
, ông P nghĩ rằng đã được cấp Giấy chứng nhận
luôn cả phần đất cụ Giác tặng, đến khi nhà nước thu hồi đất làm Dự án thì mới
phát hiện Giấy chứng nhận bị thiếu đất, cho nên ông P khởi kiện đến Tòa án. Vì
vậy, ông P có quyền khởi kiện chứ không phải không có quyền khởi kiện như
người bảo vệ quyền lợi cho ông T1 và ông V trình bày tại phiên tòa.
[3] Các đương sự tranh chấp phần đất theo đo đạc thực tế có diện tích
2.676,1m
2
được trích đo một phần thửa số 561, tờ bản đồ số 10 (bản đồ chỉnh lý
năm 2018), tọa lạc tại ấp 1, xã Thới Bình, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau.
[4] Xét kháng cáo của ông Trần Văn T1
4.1- Ông T1 kháng cáo yêu cầu sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp
nhận khởi kiện của nguyên đơn ông Huỳnh Tấn P, ông T1 không đồng ý điều
chỉnh tên sang ông P; theo như ông T1 trình bày 2.676,1m
2
không phải là đất của
ông T1, mà là đất của ông V nhờ ông T1 đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, ông T1 chỉ đồng ý sang tên trả lại cho ông V. Qua ý kiến của ông T1, Hội
đồng xét xử xem xét:
- Xét về nguồn gốc đất: bị đơn ông T1 xác nhận quyền sử dụng 2.676,1m
2
đất đang tranh chấp không thuộc về ông T1, ông T1 không có phần đất này.
Theo như ông P trình bày, đất có nguồn gốc của cụ Đặng Văn Ấu sang bán
cho cụ Huỳnh Văn Giác (cha ông P) từ năm 1980, cụ Giác quản lý đất từ khi nhận
chuyển nhượng; năm 1985, ông P cưới vợ ra riêng, được cụ Giác cho đất và ông P
quản lý đến nay. Lời trình bày của ông P phù hợp với lời khai của ông Đặng Hoài
D1 là con ruột của cụ Ấu. Tại Biên bản làm việc của Tòa án huyện ngày 22/5/2024
(bút lục 122, 123) thể hiện nội dung ông D1 trình bày: phần đất tranh chấp có
nguồn gốc từ cụ Ấu sang bán cho cụ Giác giá 60 giạ lúa, ông D1 là người trực tiếp
đến nhà cụ Giác nhận lúa đầy đủ, cụ Ấu giao đất cho cụ Giác quản lý, sử dụng cho
đến nay; ông V là con riêng của cụ Nguyễn Thị Chót (cụ Chót là vợ sau của cụ
Ấu), cụ Chót không liên quan gì đến phần đất, bởi vì vợ chồng cụ Ấu, Chót là cha
mẹ ruột ông D1 chạy giặc sống ở vùng giải phóng, cụ Chót qua đời tại đây; chỉ có
hai cha con là cụ Ấu và ông D1 sinh sống cùng nhau trên mảnh đất, cụ Ấu được
nhà nước cấp đất, cho nên cụ mới bán bớt đi một phần cho cha của ông P; ông V
không liên quan gì đến phần đất.
- Liên quan đến nguồn gốc đất, ông V cho rằng đất của cụ Chót (mẹ ông V),
nhưng ông V không đưa ra căn cứ chứng minh đất của cụ Chót; ông V không có
căn cứ pháp lý để chứng minh cho việc nhờ ông T1 đứng tên hộ; ông V chưa từng
sinh sống tại địa phương (xã Thới Bình, huyện Thới Bình), chưa từng sinh sống
trên phần đất và từ năm 1980 đến năm 2022 chưa lần nào ông V đến phần đất điều
này được ông V, ông T1 và ông P xác nhận. Như vậy, nếu là đất của ông V nhờ
6
ông T1 đứng tên, tại sao gần 40 năm ông V không đòi lại đất.
- Xét về quá trình quản lý, sử dụng đất: từ năm 1980 cha ông P quản lý, sử
dụng đất; đến năm 1985, vợ chồng ông P quản lý, sử dụng ổn định cho đến nay,
không tranh chấp với ai được người dân tại địa phương xác nhận. Gia đình ông P
trồng trọt, khoảng từ năm 2010 khi bị nước mặn tràn, thì chuyển nuôi tôm và cất
nhà kiên cố trên đất (hiện nhà bị giải tỏa); phần diện tích đất tranh chấp 2.676,1m
2
nằm cùng trên thửa đất lớn của ông P được nhà nước cấp Giấy chứng nhận năm
1997 có diện tích 15.090m
2
; ông P cho rằng 2.676,1m
2
đã được cấp Giấy chứng
nhận trong diện tích chung này; về phía ông T1 cũng không biết được là ông T1
được cấp Giấy chứng nhận có phần đất tranh chấp. Cho đến năm 2022, khi thực
hiện Dự án lộ cao tốc Hậu Giang – Cà Mau, ông P lập thủ tục nhận tiền bồi
thường, lúc này mới phát hiện ông T1 đứng tên Giấy chứng nhận, từ đó xảy ra
tranh chấp.
- Thời điểm năm 1996 ông T1 được cấp Giấy chứng nhận; năm 1997 ông P
được cấp Giấy chứng nhận, cả hai đương sự đều không xác định được đất đang
quản lý sử dụng có đúng với diện tích trong Giấy hay không. Trên thực tế, ông T1
quản lý thửa đất giáp ranh đất ông P, cả hai hộ đều quản lý, sử dụng ổn định; phần
đất 2.676,1m
2
là phần đất nằm cùng thửa đất của ông P, do đó ông P xác định phần
đất thuộc quyền sử dụng của ông P là có cơ sở; ông T1 xác định không phải đất
của ông T1 mà cho rằng đất ông V nhờ đứng tên dùm, cả ông T1 và ông V đều
không đưa ra được căn cứ chứng minh đất của ông V; do đó, bản án sơ thẩm chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của ông P là phù hợp quy định pháp luật.
4.2- Xét kháng cáo của ông T1 không đồng ý trả lại tiền chi phí tố tụng cho
ông P.
Ông P khởi kiện đối với ông T1, về yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất,
ông T1 không đồng ý; Bản án sơ thẩm tuyên xử chấp nhận toàn bộ khởi kiện của
ông P. Căn cứ Điều 158 Bộ luật tố tụng dân sự thì ông P không phải chịu, ông T1
phải chịu toàn bộ chi phí tố tụng; ông P đã nộp đủ nên ông T1 phải hoàn trả lại cho
ông P chi phí tố tụng (chi phí đo đạc, thẩm định giá, thẩm định tại chỗ...) là phù
hợp quy định pháp luật.
Với phân tích trên, không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của ông T1.
[5] Xét kháng cáo của ông Trần Hoàng V, yêu cầu sửa bản án sơ thẩm theo
hướng bác toàn bộ khởi kiện của ông P, đồng thời chấp nhận yêu cầu phản tố của
ông V
Như đã phân tích trên đối với kháng cáo của ông T1, ông T1 và ông V
không đưa ra được căn cứ chứng minh đất tranh chấp là đất của ông V nhờ ông T1
đứng tên dùm. Phía ông P chứng minh được đất do cụ Giác nhận sang nhượng từ
cụ Ấu vào năm 1980, con ruột cụ Ấu là ông D1 sống cùng với cha cho đến khi cụ
Ấu qua đời, sinh thời cụ Ấu sang đất quy ra giá trị lúa, chính ông D1 trực tiếp nhận
lúa từ cụ Giác, ông D1 biết rõ cụ Ấu giao đất cho cụ Giác quản lý, sử dụng từ năm
1980; ông V không phải là con ruột cụ Ấu và không sống cùng với cụ Ấu và ông
D1; và từ năm 1980 đến năm 2022 ông V không đến phần đất trong khi ông V sinh
7
sống tại xã Hòa Thành, thành phố Cà Mau. Nếu là đất của ông V nhờ ông T1 đứng
tên dùm thì thời gian 40 năm qua ông V phải yêu cầu nhận lại đất; mặt khác, ông
T1 đứng tên dùm nhưng không biết vị trí đất, không có ý kiến phản đối khi ông P
xây cất nhà, sử dụng đất vào trồng trọt, nuôi trồng thủy sản…;
Do vậy, không chấp nhận kháng cáo của ông V.
[6] Án phí dân sự phúc thẩm ông T1 và ông V được miễn.
[7] Hội đồng xét xử điều chỉnh cách tuyên án chứ không cần thiết phải sửa
án sơ thẩm về cách tuyên án.
[8] Đề nghị của Viện kiểm sát tại phiên tòa được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của ông Trần Văn T1, không chấp nhận kháng
cáo của ông Trần Hoàng V (Trần Hoàng D2); giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm
số: 101/2024/DS-ST ngày 31/7/2024 của Tòa án nhân dân huyện Thới Bình, tỉnh
Cà Mau.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Tấn P.
Ông Huỳnh Tấn P được tiếp tục quản lý, sử dụng phần đất có diện tích
2676,1m
2
(trong đó có 54,5m
2
là đường Bê tông hiện trạng), tọa lạc tại ấp 1, xã
Thới Bình, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau, vị trí thửa đất thể hiện:
Cạnh mặt tiền giáp Kinh Xáng tính từ mốc M4-M5 dài 25,82m, từ mốc M5-
M6 dài 9,87m;
Cạnh mặt hậu giáp phần đất của Ban chỉ huy quân sự huyện Thới Bình tính
từ mốc M1-M2 dài 35,85m;
Cạnh phải nhìn từ mặt tiền giáp phần đất còn lại không tranh chấp của ông
Huỳnh Tấn P (dự án đường cao tốc) từ mốc M4-M3 dài 35,41m, tính từ mốc M3-
M2 dài 43,57m.
Cạnh trái nhìn từ mặt tiền giáp phần đất không tranh chấp của ông Trần Văn
T1 tính từ mốc M6-M7 dài 8,72m, từ mốc M7-M1 dài 67,66m.
(Kèm theo bản Trích đo hiện trạng ngày 29/12/2023 của Công ty TNHH
Phát triển xanh Việt Nam).
Phần đất do ông Trần Văn T1 đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số E 0081401, số vào sổ 11653 QSDĐ, cấp ngày 17/12/1996; ông Huỳnh Tấn P có
8
quyền liên hệ với Cơ quan chuyên môn làm thủ tục điều chỉnh Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đối với phần đất trên.
2. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu độc lập của ông Trần Hoàng V đối với
ông Trần Văn T1 về việc đòi lại phần đất có diện tích 2676,1m
2
, tọa lạc tại ấp 1, xã
Thới Bình, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau.
3. Về chi phí tố tụng ông Trần Văn T1 phải chịu. Ông Huỳnh Tấn P đã nộp
đủ, ông T1 có nghĩa vụ hoàn trả cho ông P số tiền 13.645.800 đồng (mười ba triệu
sáu trăm bốn mươi lăm nghìn tám trăm).
Trường hợp ông T1 chậm trả tiền cho ông P thì phải chịu lãi suất chậm thi
hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.
4. Về án phí
- Án phí dân sự sơ thẩm và án phí dân sự phúc thẩm ông Trần Văn T1 và
ông Trần Hoàng V được miễn.
- Ông Huỳnh Tấn P không phải chịu án phí. Ngày 20/4/2023, ông Huỳnh
Tấn P có nộp tạm ứng án phí 2.600.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện
Thới Bình theo Biên lai số 0003545, ông P được nhận lại.
5. Các Quyết định khác không có kháng cáo, kháng nghị phát sinh hiệu lực kể
từ thời điểm hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc
bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân
sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án
dân sự.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau;
- Tòa án nhân dân huyện Thới Bình;
- Chi cục THADS huyện Thới Bình;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu án văn;
- Lưu VT(TM:TANDTCM).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thị Hiền
9
THÀNH VIÊN HĐXX PHÚC THẨM
Ninh Quang Thế - Đặng Minh Trung
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thị Hiền
Tải về
Bản án số 477/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 477/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 04/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Bản án số 988/2024/DS-PT ngày 25/11/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 13/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 13/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 13/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm