Bản án số 485/2024/DS-PT ngày 09/12/2024 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 485/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 485/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 485/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 485/2024/DS-PT ngày 09/12/2024 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Cà Mau |
Số hiệu: | 485/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 09/12/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | ông Nguyễn Chí D và bà Nguyễn Thị Đ về việc buộc ông Nguyễn Chí H, bà Lâm Thị T, chị Nguyễn Triệu V, anh Nguyễn Chánh T2, anh Nguyễn Phương T1, chị Phạm Thị L cùng cháu Nguyễn Ngọc N, cháu Nguyễn Yến N1 (do anh Nguyễn Phương T1 và chị Phạm Thị L là người đại diện) trả lại cho ông Nguyễn Chí D và bà Nguyễn Thị Đ diện đất theo đo đạc thực tế 5.396,8 m2, thuộc thửa đất số 235, tờ bản đồ số 2 (bản đồ thành lập năm 2005), đất tọa lạc tại ấp A, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
Bản án số: 485/2024/DS-PT
Ngày 09 – 12 – 2024
V/v Tranh chấp quyền sử dụng đất
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Thành Lập
Các Thẩm phán: Ông Đỗ Cao Khánh
Ông Ninh Quang Thế
- Thư ký phiên tòa: Bà Hứa Như Nguyện - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Cà
Mau.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà: Ông
Phạm Văn Hùng – Kiểm sát viên.
Trong các ngày 25 tháng 9, ngày 22 tháng 10, ngày 12 tháng 11 và ngày
09/12/2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ
án dân sự thụ lý số: 298/2024/TLPT-DS ngày 20 tháng 8 năm 2024 về việc: Tranh
chấp quyền sử dụng đất.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 197/2024/DS-ST ngày 09 tháng 7 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 247/2024/QĐ-PT ngày
26 tháng 8 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Ông Nguyễn Chí D, sinh năm 1971
2. Bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1971
Cùng địa chỉ: Ấp M, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau.
Người đại diện hợp pháp theo uỷ quyền của ông Nguyễn Chí D và bà
Nguyễn Thị Đ: Ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1979; địa chỉ cư trú: Văn phong
Luật sư K, số A, Đ, khóm B, phường I, thành phố C (Có mặt).
- Bị đơn: Ông Nguyễn Chí H, sinh năm 1962;
Địa chỉ: Ấp A, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau.
Người đại diện hợp pháp theo uỷ quyền của ông Nguyễn Chí H: Ông Phan
Hoàng B, sinh năm 1959; địa chỉ cư trú: Đường H, khóm F, phường F, thành phố
C (Có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Lâm Thị T, sinh năm 1966 (Vắng mặt);
2. Chị Nguyễn Triệu V, sinh năm 1989 (Vắng mặt);
3. Anh Nguyễn Phương T1, sinh năm 1991 (Vắng mặt);
4. Anh Nguyễn Chánh T2, sinh năm 2003 (Vắng mặt);
5. Chị Phạm Thị L (Vắng mặt);
6. Cháu Nguyễn Ngọc N, sinh năm 2012 (Vắng mặt);
7. Cháu Nguyễn Yến N1, sinh năm 2013 (Vắng mặt)
Người đại diện hợp pháp theo pháp luật của cháu Ngọc N và cháu Yến N1:
Anh Nguyễn Phương T1 và chị Phạm Thị L (Là cha, mẹ ruột của cháu Ngọc N và
cháu Yến N1).
Cùng địa chỉ: Ấp A, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau.
8. Uỷ ban nhân dân (UBND) huyện T, tỉnh Cà Mau.
Địa chỉ: Khóm I, thị trấn T, huyện T, tỉnh Cà Mau.
- Người kháng cáo: Ông Nguyễn Chí H là bị đơn; Anh Nguyễn Phương T1,
là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo ông Nguyễn Chí D và bà Nguyễn Thị Đ trình bày:
Nguồn gốc đất là của cha mẹ ông D và ông H tên Nguyễn Văn M (chết năm
2019) và Nguyễn Thị Q (chết năm 2023) khai phá quản lý sử dụng, sau đó được L1
Ngư Trường Công Ích Trần Văn T3 giao khoán 01 phần đất diện tích 2,7 héc ta
vào năm 1990 (phần đất này cho ông H vào khoảng thời gian năm 1993 - 1994) và
nhận chuyển nhượng thành quả của ông Nguyễn Phương T4 01 phần đất với diện
tích 2,7 héc ta vào năm 1993 (phần đất này cho lại vợ chồng ông D và bà Đ). Quá
trình quản lý và sử dụng đất thì ông M và bà Q không được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) mà chỉ được giao khoán tổng diện tích 5,4 hecta
trên sổ hợp đồng, nhưng nhờ ông H đứng tên dùm. Đến năm 2005, L1 Ngư Trường
giải thể, có chủ trương giao cho Uỷ ban nhân dân (UBND) xã K xem xét cấp
quyền sử dụng đất (QSDĐ) cho các hộ dân được giao đất trước đó. Phần đất của
vợ chồng ông D và bà Đ được cho nằm cặp ranh đất ông Nguyễn Văn K1 và ông
Nguyễn Văn H1; phần đất của ông H1 nằm cặp ranh đất ông Nguyễn Văn K2 và
vợ chồng ông D và bà Đ. Cùng năm 2005, cha mẹ giao cho ông H1 đứng ra kê
khai đăng ký QSDĐ mỗi người 01 phần đất theo hiện trạng đất được cha mẹ cho
trước, thời điểm này ông H1 yêu cầu được nhận thêm 01 héc ta đất thì cha mẹ
không đồng ý, nên phát sinh tranh chấp và được UBND xã K hoà giải vào ngày
30/9/2005. Sau khi hoà giải thì cha mẹ thống nhất giao cho ông H1 01 héc ta đất
rừng ở vị trí đất khác và ông H1 đồng ý trả cho vợ chồng ông D và bà Đ đứng tên
QSDĐ đối với phần đất 2,7 héc ta theo hiện trạng được cho trước đây. Sau thời
điểm hoà giải, gia đình tiếp tục giao cho ông H1 đứng ra kê khai đăng ký QSDĐ
dùm theo hiện trạng đất được cho trước. Đến năm 2006, vợ chồng ông D và bà Đ
được cấp QSDĐ đối với thửa đất 656 có diện tích 22.144 m
2
, thời điểm được cấp
QSDĐ do không hiểu biết, nên không biết việc cấp QSDĐ không đúng hiện trạng
thực tế đất sử dụng, nhưng thực tế vợ chồng ông D và bà Đ vẫn sử dụng phần đất
như hiện trạng ban đầu từ tiền đến hậu ổn định không có tranh chấp. Đến năm
2021, có Đoàn công tác của huyện kết hợp với UBND xã và ấp tập hợp người dân
lại để xem xét điều chỉnh lại hiện trạng QSDĐ cho đúng thực tế thì mới biết đất
của gia đình ông D và bà Đ quản lý thì ông H1 đứng tên, còn đất ruộng ông H1
quản lý thì bà Đ đứng tên. Đối với phần đất mặt tiền của 02 dây đất thì ông H1
đứng tên. Năm 2021, vợ chồng ông D và bà Đ chuyển nhượng lại toàn bộ phần đất
cho ông Huỳnh Việt N2 và bà Nguyễn Thị T5, việc chuyển nhượng chỉ có làm
giấy tay, chứ chưa thực hiện thủ tục chuyển tên QSDĐ. Năm 2023, ông H1 khởi
kiện ông N2 và bà T5 yêu cầu trả phần đất mặt tiền ông N2 và bà T5 đang quản lý
sử dụng, sau đó khởi kiện bổ sung thêm phần diện tích đất ruộng phía sau hậu và
được Toà án chấp nhận, lý do QSDĐ cấp không đúng hiện trạng thực tế sử dụng
đất. Thời điểm này mới biết là 02 phần đất mặt tiền của 02 phần đất đều do ông H1
kê khai đăng ký đứng tên và được cấp GCNQSDĐ vào năm 2013. Toàn bộ phần
đất ông H1 đã lấy canh tác vào khoảng tháng 03/2023 và giao cho vợ chồng ông D
và bà Đ phần đất ruộng trước giờ ông H1 sử dụng nằm cặp ranh với ông Nguyễn
Văn K2 nhưng không có mặt tiền, còn phần đất mặt tiền có diện tích theo đo đạc
thực tế 5.396,8 m
2
ông H1 xác định đã được cấp QSDĐ, nên không cho ông D và
bà Đ sử dụng đất. Việc cấp QSDĐ sai hiện trạng thực tế sử dụng thì gia đình ông D
và bà Đ không biết, hiện nay gia đình ông H1 đã lấy và sử dụng phần đất của vợ
chồng ông D và bà Đ được cha mẹ cho trước đây đã quản lý và sử dụng trên 30
năm (nằm cặp ranh ông K1) thì phải giao lại phần đất (nằm cặp ranh ông K2) cho
vợ chồng ông D và bà Đ quản lý và sử dụng.
Nay ông D và bà Đ yêu cầu Tòa án buộc ông H1 cùng vợ và các con giao trả
cho vợ chồng ông D và bà Đ diện tích đất tranh chấp đo đạc thực tế 5.396,8 m
2
).
Yêu cầu Tòa án buộc gia đình ông H1 tháo dỡ và di dời toàn bộ nhà, công trình tài
sản và cây trồng trên đất tranh chấp để trả lại đất cho ông D và bà Đ; ông D và bà
Đ tự nguyện hỗ trợ chi phí di dời 50.000.000 đồng, yêu cầu ông H1 hoàn trả lại
toàn bộ chi phí tố tụng.
- Theo ông Nguyễn Chí H trình bày:
Nguồn gốc đất của L1 Ngư Trường Công Ích Trần Văn T3 cấp cho ông H
phần đất 2,9 héc ta vào khoảng thời gian từ năm 1989 đến 1990 và nhận chuyển
nhượng thành quả của ông Nguyễn Phương T4 01 phần với diện tích 2,5 héc ta vào
năm 1993, việc sang nhượng từ ông T4 không có làm giấy mà chỉ dựa vào việc
ông T4 xin trả đất, ông H xin nhận lại đất; tổng diện tích đất được cấp và nhận
chuyển nhượng là 5,4 héc ta. Quá trình quản lý và sử dụng đất thì ông H được L1
Ngư Trường giao khoán tổng diện tích 5,4 héc ta trên sổ hợp đồng vào khoảng năm
1993 đến năm 1995. Đến năm 2005 L1 Ngư Trường giải thể, có chủ trương giao
cho UBND xã K xem xét cấp QSDĐ cho các hộ dân được giao đất trước đó. Năm
2006 ông H tặng cho vợ chồng ông D và bà Đ diện tích đất 22.144 m
2
(đất ruộng).
Cùng năm 2006, bà Đ được cấp QSDĐ thửa số 656 – tờ bản đồ số 2; ông H được
cấp QSDĐ thửa 246 diện tích 25.038 m
2
(đất ruộng); hai phần đất ruộng nằm liền
kề nhau, phần đất ông H được cấp QSDĐ nằm cặp đất ông Nguyễn Văn K1, phần
đất ông D và bà Đ nằm cặp đất ông K2. Đối với phần đất vườn và đất ở, ông H
cũng kê khai đăng ký năm 2006, nhưng đến năm 2013 thì mới được cấp QSDĐ đối
với diện tích 6.212 m
2
– tại thửa số 235 – tờ bản đồ số 2 do ông H đứng tên. Phần
đất ông H tặng cho vợ chồng ông D thì ông H vẫn quản lý sử dụng từ trước đến
nay do vợ chồng ông D cho thuê lại. Giữa vợ chồng ông D và vợ chồng ông N2 có
giao dịch chuyển nhượng, cầm cố như thế nào ông không biết, nhưng năm 2022 vợ
chồng ông N2 và bà T5 đến chiếm toàn bộ phần đất của ông cặp với đất ông K1 để
sử dụng, nên phát sinh tranh chấp và ông đã khởi kiện yêu cầu trả lại đất, được Toà
án chấp nhận buộc ông N2 và bà T5 giao trả lại toàn bộ phần đất từ tiền đến hậu là
25.247,1 m
2
. Ông H xác định phần đất tranh chấp là của ông H được cấp QSDĐ
hợp pháp. Trong phần đất tranh chấp, ông có tặng cho con là anh Nguyễn Phương
T1 01 phần diện tích ngang 12 mét, dài 518 mét nhưng chưa tách QSDĐ. Ông H
không đồng ý yêu cầu khởi kiện của ông D và bà Đ. Trường hợp Toà án buộc ông
giao phần đất tranh chấp cho gia đình ông D thì gia đình ông D phải trả lại cho ông
giá trị đất 01 mét ngang bằng 50.000.000 đồng, tổng giá trị đất là 2.976.000.000
đồng; phần nhà, công trình tài sản và cây trồng trên đất tranh chấp gia đình ông tự
di dời và tháo dỡ, không yêu cầu bồi thường.
- Theo anh Nguyễn Phương T1 trình bày:
Anh Phương T1 thống nhất với trình bày của ông H. Trong phần đất tranh
chấp anh được cha mẹ cho phần đất ngang 12 mét, dài 518 mét, hiện nay chưa tách
QSDĐ. Trên phần đất tranh chấp có căn nhà và tài sản của gia đình anh. Anh
Phương T1 không đồng ý yêu cầu khởi kiện của vợ chồng ông D và bà Đ. Anh
Phương T1 không có yêu cầu gì trong vụ án này về hợp đồng tặng cho đất giữa cha
mẹ với anh. Trường hợp phần đất tranh chấp giao cho gia đình ông D thì gia đình
ông D phải trả lại giá trị đất 01 mét ngang bằng 50.000.000 đồng; nhà, công trình
và tài sản trên đất tranh chấp gia đình anh tự di dời và tháo dỡ.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 197/2024/DS-ST ngày 09 tháng 7 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời quyết định:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Chí D và bà Nguyễn Thị Đ.
+ Buộc ông Nguyễn Chí H, bà Lâm Thị T, chị Nguyễn Triệu V, anh Nguyễn
Chánh T2, anh Nguyễn Phương T1, chị Phạm Thị L cùng cháu Nguyễn Ngọc N,
cháu Nguyễn Yến N1 (do anh Nguyễn Phương T1 và chị Phạm Thị L là người đại
diện) có trách nhiệm và nghĩa vụ giao trả cho ông Nguyễn Chí D và bà Nguyễn Thị
Đ tổng diện đất tranh chấp 5.396,8 m
2
– đất tọa lạc tại ấp A, xã K, huyện T, tỉnh Cà
Mau – thuộc thửa đất số: 235 – tờ bản đồ số 2 - bản đồ thành lập năm 2005 theo
GCNQSDĐ số: BP 038344 của UBND huyện T, tỉnh Cà Mau cấp ngày 05/7/2013
cho hộ ông Nguyễn Chí H.
Ông Nguyễn Văn D1 và bà Nguyễn Thị Đ được quyền quản lý, sử dụng
phần đất nêu trên và thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất theo quy
định của pháp luật.
+ Buộc ông Nguyễn Chí H cùng bà Lâm Thị T, chị Nguyễn Triệu V, anh
Nguyễn Chánh T2 có trách nhiệm và nghĩa vụ tháo dỡ và di dời toàn bộ nhà, công
trình tài sản và cây trồng trên phần đất tranh chấp.
+ Buộc anh Nguyễn Phương T1, chị Phạm Thị L cùng cháu Nguyễn Ngọc
N, cháu Nguyễn Yến N1 (do anh Nguyễn Phương T1 và chị Phạm Thị L là người
đại diện) có trách nhiệm và nghĩa vụ tháo dỡ và di dời toàn bộ nhà, công trình tài
sản và cây trồng trên phần đất tranh chấp.
+ Buộc ông Nguyễn Chí D và bà Nguyễn Thị Đ bồi thường số tiền
50.000.000 đồng cho ông Nguyễn Chí H và bà Lâm Thị T (trong việc tháo dỡ và di
dời nhà, công trình tài sản và cây trồng trên đất tranh chấp).
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, lãi suất chậm trả, án phí
và quyền kháng cáo của đương sự.
Ngày 19/7/2024, ông Nguyễn Chí H có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ
thẩm yêu cầu cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận toàn
bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Ngày 19/7/2024, anh Nguyễn Phương T1 có đơn kháng cáo, yêu cầu sửa bản
án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu nguyên đơn; nếu chấp nhận yêu cầu nguyên
đơn thì buộc nguyên đơn bồi thường thiệt hại căn nhà bằng 250.000.000đ
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Nguyễn Chí H, anh Nguyễn Phương T1 giữ
nguyên kháng cáo.
Phần tranh luận tại phiên toà:
Ông B phát biểu tranh luận và đề nghị huỷ bản án sơ thẩm để giải quyết lại
vụ án.
Ông T1 phát biểu tranh luận thống nhất với ý kiến tranh luận của ông B.
Ông K phát biểu tranh luận và đề nghị không chấp nhận kháng cáo của ông
H và anh T1, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà phát biểu:
Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự,
chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Chí H, anh Nguyễn Phương T1, sửa bản án
sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông D và bà Đ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Xét kháng cáo của ông Nguyễn Chí H và anh Nguyễn Phương T1, Hội đồng
xét xử xét thấy:
[1] Ông Nguyễn Chí D và bà Nguyễn Thị Đ khởi kiện yêu cầu buộc ông H
trả lại diện tích đất theo đo đạc thực tế 5.396,8 m
2
thuộc thửa số 235, tờ bản đồ số
2 – bản đồ thành lập 2005, đất tọa lạc tại ấp A, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau, theo
GCNQSDĐ số: BP 038344 của UBND huyện T, tỉnh Cà Mau cấp ngày 05/7/2013
cho hộ ông Nguyễn Chí H đứng tên. Ông H xác định phần đất tranh chấp là của
ông H nên không đồng ý trả đất theo yêu cầu của ông D và bà Đ.
[2] Xét về nguồn gốc đất và quá trình sử dụng của các bên đương sự:
[2.1] Ông D và bà Đ cho rằng nguồn gốc phần đất ông H sử dụng là của cha
mẹ được cấp, đến năm 1993 – 1994 tặng cho lại ông H diện tích 2,7ha; Phần đất
ông D và bà Đ sử dụng là của cha mẹ sang nhượng của ông Nguyễn Phương T4
vào năm 1993, sau đó tặng cho lại ông D và bà Đ, diện tích 2,7ha. Ông H cho rằng
phần đất ông sử dụng là do ông được cấp chứ không phải do cha mẹ tặng cho.
[2.2] Mặc dù các bên trình bày không thống nhất nhau, nhưng xét về quá
trình quản lý sử dụng đất thì ông H đã quản lý sử dụng đất từ năm 1990, trong đó
có phần đất hiện nay đang tranh chấp. Ông H đã xây nhà kiên cố trên đât từ năm
1993, đồng thời ông H cũng đã đầu tư cải tại đất, đào ao nuôi cá, trồng cây lâu năm
trên đất; ngoài ra ông H còn tặng cho con là anh Nguyễn Phương T1 một phần đất
để cất nhà ở, anh T1 đã xây cất nhà ở ổn định trên đất từ khi được tặng cho đến nay
đã hơn 10 năm. Đối với ông H cũng đã quản lý sử dụng đất ổn định, tính từ thời
điểm ông H quản lý sử dụng đất đến khi xảy ra tranh chấp thời gian hơn 30 năm,
nhưng phía ông D và bà Đ cũng không có ý kiến gì. Đối với ông D và bà Đ từ
trước đến nay cũng không trực tiếp quản lý sử dụng, không đầu tư cải tạo và cũng
không có liên quan gì đến phần đất tranh chấp.
[2.3] Hơn nữa, quá trình quản lý sử dụng đất, các bên cũng đã đăng ký kê
khai cấp quyền sử dụng đất vào năm 2006. Ông H đăng ký kê khai thửa 246 và
thửa 235, đã được cấp quyền sử dụng thửa 246, còn lại thửa 235 chưa được cấp. Bà
Đ đăng ký kê khai thửa 656 và thửa 657, đã được cấp quyền sử dụng thửa 656, còn
lại thửa 657 chưa được cấp. Đến năm 2013, ông H tiếp tục đăng ký kê khai cấp
quyền sử dụng đất thửa 235 và được cấp quyền sử dụng đất diện tích 6.212m
2
. Từ
trước đến nay ông D và bà Đ cũng không có yêu cầu khiếu nại gì về việc cấp
quyền sử dụng đất cho ông D, bà Đ và ông H.
[3] Quá trình giải quyết vụ án, ông D và bà Đ cũng như người đại diện của
ông D và bà Đ cũng xác định phần đất tranh chấp không thuộc phần đất ông D và
bà Đ được cha mẹ tặng cho trước đây, mà thuộc phần đất ông H được tặng cho.
Nhưng do ông H khởi kiện ông N2 và bà T5 đòi trả lại phần đất mà ông D và bà Đ
đã chuyển nhượng cho ông N2 và bà T5, Toà án buộc ông N2 và bà T5 trả lại đất
cho ông H nên ông D và bà Đ khởi kiện yêu cầu ông H trả lại phần đất tranh chấp
nêu trên.
[4] Giã sử, phần đất nêu trên ông H chiếm giữ sử dụng không có căn cứ
pháp luật, nhưng ông H đã quản lý sử dụng ổn định liên tục hơn 30 năm; đối chiếu
với quy định tại Điều 236 của Bộ luật Dân sự thì việc ông D và bà Đ kiện đòi ông
H trả lại đất cũng không có cơ sở để chấp nhận.
[5] Từ nhận định trên, xét thấy Toà án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của ông D và bà Đ, buộc ông H và những người liên quan di dời nhà, tài sản
trả lại phần đất tranh chấp cho ông D và bà Đ là chưa phù hợp. Do đó, cấp phúc
thẩm chấp nhận kháng cáo ông Nguyễn Chí H và anh Nguyễn Phương T1, sửa bản
án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông D và bà Đ là phù hợp.
[6] Đối với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của
Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[7] Đối với đề nghị của người đại diện của ông H đề nghị huỷ bản án sơ
thẩm là không có cơ sở nên không được chấp nhận.
Chi phí tố tụng, án phí dân sự sơ thẩm ông D và bà Đ phải chịu theo quy
định.
[8] Án phí dân sự phúc thẩm ông H và anh T1 không phải chịu. Ông H là
người cao tuỗi đã được miễn dự nộp; anh T1 đã dự nộp 300.000 đồng được nhận
lại.
[9] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị nên không đặt
ra xem xét.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về án phí, lệ phí Tòa án.
Chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Chí H và anh Nguyễn Phương T1.
Sửa bản án dân sự sơ thẩm số: 197/2024/DS-ST ngày 09 tháng 7 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau.
Tuyên xử:
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Chí D và bà Nguyễn
Thị Đ về việc buộc ông Nguyễn Chí H, bà Lâm Thị T, chị Nguyễn Triệu V, anh
Nguyễn Chánh T2, anh Nguyễn Phương T1, chị Phạm Thị L cùng cháu Nguyễn
Ngọc N, cháu Nguyễn Yến N1 (do anh Nguyễn Phương T1 và chị Phạm Thị L là
người đại diện) trả lại cho ông Nguyễn Chí D và bà Nguyễn Thị Đ diện đất theo đo
đạc thực tế 5.396,8 m
2
, thuộc thửa đất số 235, tờ bản đồ số 2 (bản đồ thành lập năm
2005), đất tọa lạc tại ấp A, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số: BP 038344 ngày 05/7/2013 cho hộ ông Nguyễn Chí H đứng
tên.
(Có bản trích đo hiện trạng ngày 22/01/2024 của Công ty TNHH P (kèm
theo)).
- Về chi phí tố tụng số tiền 16.141.200 đồng: Ông Nguyễn Chí D và bà
Nguyễn Thị Đ tự chịu.
- Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Chí D và bà Nguyễn Thị Đ phải chịu
18.875.000 đồng. Ông D và bà Đ đã dự nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số:
0004007 ngày 06/11/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời,
tỉnh Cà Mau đối trừ còn phải nộp tiếp 18.575.000 đồng.
- Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Chí H và anh Nguyễn Phương
T1 không phải chịu án phí. Ông H đã được miễn dự nộp; anh T1 đã dự nộp
300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0005328 ngày 19/7/2024 của Chi
cục thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời được nhận lại.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu
lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật
thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau;
- Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời;
- Chi cục THADS huyện Trần Văn Thời;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu án văn;
- Lưu VT(TM:TANDTCM).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thành Lập
Tải về
Bản án số 485/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 485/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 05/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 04/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm