Bản án số 47/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 của TAND huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 47/2020/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 47/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 của TAND huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ
Tội danh:
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Kiên Lương (TAND tỉnh Kiên Giang)
Số hiệu: 47/2020/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 26/11/2020
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIÊN LƯƠNG, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 47/2020/HS-ST NGÀY 26/11/2020 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 26 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:

50/2020/TLST-HS ngày 30 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 116/2020/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Minh Đ; Sinh năm: 1989; Nơi sinh: huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang; Nơi cư trú: ấp K, xã T, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang; Nghề nghiệp: lái xe; Trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: Thiên Chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Họ và tên cha: Nguyễn Văn M, sinh năm 1953; Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị N, sinh năm 1953; Anh chị em ruột: Gồm 02 người, lớn nhất sinh năm 1989, nhỏ nhất sinh năm 1992; Tiền án: không, tiền sự: không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/7/2020 đến ngày 06/8/2020. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người đại diện hợp pháp cho bị hại Huỳnh Thị H:

1. Ông Phạm Văn Đ (tên gọi khác: M), sinh năm: 1971- đồng thời là bị hại (có mặt) 2. Anh Phạm Văn H, sinh năm: 1990 (có đơn xin vắng mặt) 3. Chị Phạm Yến L, sinh năm: 2002 (có đơn xin vắng mặt) 4. Ông Huỳnh Văn T, sinh năm: 1954 (có mặt) 5. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm: 1954 (có mặt) Địa chỉ: khu phố B, thị trấn Kiên Lương, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang.

* Bị đơn dân sự: Bà Trần Thị Kim H, sinh năm: 1972 (có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 1, ấp C, thị trấn Hòn Đất, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Phạm Văn H, sinh năm: 1990 (có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: khu phố B, thị trấn Kiên Lương, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang.

2. Nguyễn Văn M, sinh năm: 1953 (có mặt) Địa chỉ: ấp K, xã T, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 07 giờ 30 phút ngày 15/7/2020, Nguyễn Minh Đ trực tiếp điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 68C-047.52 chở đá lưu thông trên Quốc lộ 80 theo hướng Kiên Lương - Hà Tiên, đến đoạn đường thuộc tổ 06, ấp Bãi Ớt, xã Dương Hòa, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang, do không giữ khoảng cách an toàn đối với xe chạy liền trước nên Đ đã điều khiển xe đụng vào xe mô tô biển kiểm soát 68K1-178.42 do Phạm Văn Đ, sinh năm 1971 điều khiển chở Huỳnh Thị H, sinh năm 1973 cùng trú tổ 01, khu phố B, thị trấn Kiên Lương phía sau đang lưu thông cùng chiều phía trước gây tai nạn. Hậu quả Huỳnh Thị H tử vong tại chỗ, ông Đ bị thương nhẹ, xe mô tô bị hư hỏng nặng.

* Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật, xử lý vật chứng - Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Kiên Lương tạm giữ:

+ 01 (một) xe ô tô, biển số đăng ký 68C-047.52, nhãn hiệu: KAMAZ, số máy: 199469, số khung: 115C22170418, màu sơn: Xanh, đã qua sử dụng.

+ 01 (một) xe mô tô biển số đăng ký 68K1-178.42, đã bị hư hỏng.

+ 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 006300.

+ 01 (một) giấy chứng nhận kiểm định số 2144812.

+ 01 (một) giấy phép lái xe hạng C số 910170011910.

- Việc xử lý vật chứng: Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an huyện Kiên Lương đã trả lại cho chủ sở hữu các vật chứng trên.

* Bản kết luận giám định pháp y tử thi số: 587/KL-KTHS ngày 14/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang, kết luận nguyên nhân chết đối với Huỳnh Thị H, sinh năm 1973 như sau:

1. Các kết quả chính - Đầu và mặt xẹp biến dạng. Dập rách và bầm tụ máu phức tạp vùng đầu - mặt.

- Vỡ phức tạp xương hộp sọ và gãy vỡ phức tạp các xương vùng mặt.

- Dập não, thoát mô não ra ngoài.

2. Nguyên nhân chết: Do chấn thương sọ não.

* Bản kết luận định giá tài sản số: 14/BKL-HĐĐGTS ngày 10/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang kết luận: Xe mô tô 02 bánh BKS 68K1-178.42, nhãn hiệu YAMAHA, số loại EXCITER, số máy G3D4E412709, số khung RLCUG0610HY393607, đã qua sử dụng có giá trị 25.000.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 47/CT-VKSKL ngày 29 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang đã truy tố bị cáo Nguyễn Minh Đ về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên sau khi phân tích tính chất và mức độ nguy hiểm xã hội của hành vi vi phạm pháp luật mà bị cáo gây ra; đồng thời căn cứ vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh Đ phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 3 Điều 54 của Bộ luật hình sự; đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Minh Đ với mức hình phạt từ 06 đến 09 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo, bị đơn dân sự đã khắc phục theo yêu cầu của gia đình người bị hại với số tiền 276.800.000 đồng. Tại phiên tòa bị cáo và ông Đ thống nhất việc bị cáo bồi thường thêm cho ông Đ 5.000.000đ nên đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận.

Về các phương tiện đã trao trả cho chủ sở hữu nên không đề nghị xem xét.

Phía gia đình người bị hại: Ông Huỳnh Văn T và bà Nguyễn Thị T, anh Phạm Văn H, chị Phạm Yến L thống nhất với việc thỏa thuận bồi thường thiệt hại giữa ông Phạm Văn Đ với bị cáo, bị đơn dân sự. Không ai có ý kiến hay yêu cầu gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra huyện Kiên Lương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiên Lương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại và bị đơn dân sự không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tuy nhiên, quá trình điều tra không làm việc với ông Huỳnh Văn T và bà Nguyễn Thị T là thiếu sót. Và tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã hỏi và ông T, bà T cũng trình bày ý kiến của mình, không có yêu cầu hay khiếu nại. Xét thấy Hội đồng xét xử đã khắc phục thiếu sót trên, không cần thiết trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhưng cần rút kinh nghiệm chung.

[2] Về quyết định đưa vụ án ra xét xử có nhầm lẫn trong việc đánh máy nên ghi sai điểm khoản mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiên Lương truy tố, việc này Hội đồng xét xử đã đính chính tại phiên tòa, không ai có ý kiến hay khiếu nại gì.

[3] Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Minh Đ đã khai nhận: Vào khoảng 07 giờ 30 phút ngày 15/7/2020, Nguyễn Minh Đ trực tiếp điều khiển xe ô tô tải biển kiểm soát 68C-047.52 lưu thông trên Quốc lộ 80 theo hướng Kiên Lương- Hà Tiên, đến đoạn đường thuộc tổ 06, ấp Bãi Ớt, xã Dương Hòa, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang, do không đảm bảo khoảng cách an toàn với xe mô tô 68K1-178.42 lưu thông cùng chiều liền trước do ông Phạm Văn Đ điều khiển chở bà Huỳnh Thị H, xe của Đ điều khiển đụng vào phía sau xe của ông Đ.

Hậu quả bà Huỳnh Thị H tử vong do chấn thương sọ não, tài sản thiệt hại là xe mô tô 02 bánh BKS 68K1-178.42, nhãn hiệu YAMAHA, số loại EXCITER, số máy G3D4E412709, số khung RLCUG0610HY393607, đã qua sử dụng theo định giá có giá trị 25.000.000 đồng, ông Đ bị thương nhẹ. Do đó, đã có đủ cơ sở pháp luật để kết luận bị cáo Nguyễn Minh Đ phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 260 Bộ luật hình sự như truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiên Lương là đúng người, đúng tội.

[4] Xét hành vi của bị cáo Đ là nghiêm trọng. Bị cáo đã qua đào tạo sát hạch lái xe thì hơn ai hết, bị cáo phải nhận thức được việc điều khiển xe ôtô tải là nguồn nguy hiểm cao độ phải đi đúng làn đường và giữ khoảng cách an toàn với xe lưu thông liền trước, do chủ quan dẫn đến việc không thể xử lý tình huống khi xe phía trước giảm tốc độ, hậu quả làm chết một người. Hành vi của bị cáo gây ra sự tổn thất không gì bù đắp được cho gia đình người bị hại, không những xâm phạm đến trật tự an toàn công cộng mà còn gây hoang mang tư tưởng trong quần chúng nhân dân bởi tình trạng tai nạn giao thông hiện nay đáng báo động, hành vi của bị cáo làm phức tạp hơn tình hình an toàn giao thông của địa phương. Do đó, cần tuyên xử bị cáo ở mức án tương xứng với hành vi của bị cáo đã gây ra để thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật đồng thời để tuyên truyền giáo dục chung.

[5] Tuy nhiên, bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ ra biết ăn năn hối cải. Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, sau sự việc đến cơ quan công an đầu thú. Bị cáo và bị đơn dân sự đã bồi thường toàn bộ thiệt hại theo yêu cầu của gia đình người bị hại với số tiền 281.800.000 đồng. Bên cạnh đó, người đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Vì vậy, cần áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 3 Điều 54 Bộ luật hình sự xem xét xử bị cáo mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt như đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.

[6] Về xử lý vật chứng: Xét thấy việc cơ quan điều tra trao trả các tài sản cho chủ sở hữu là phù hợp, không ai có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo cùng bị đơn dân sự đã bồi thường thiệt hại theo yêu cầu của gia đình người bị hại với số tiền 276.800.000 đồng. Trước khi tuyên án, bị cáo khắc phục thêm 5.000.000đ theo yêu cầu của ông Đ và gia đình người bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét;

Bị đơn dân sự và ông Nguyễn Văn M không có yêu cầu gì về số tiền đã bồi thường cho gia đình bị hại nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh Đ phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 3 Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh Đ 09 (chín) tháng tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án, bị cáo được khấu trừ thời gian tạm giữ tạm giam từ ngày 15/7/2020 đến ngày 06/8/2020.

2. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Buộc bị cáo Nguyễn Minh Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

3. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Những người vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự .

Tải về
Bản án số 47/2020/HS-ST Bản án số 47/2020/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất