Bản án số 437/2024/DS-PT ngày 22/08/2024 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 437/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 437/2024/DS-PT ngày 22/08/2024 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bình Dương
Số hiệu: 437/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 22/08/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp quyền sử dụng đất BL-T
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 437/2024/DS-PT
Ngày 22-8-2024
V/v tranh chấp quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Bà Đinh Thị Mộng Tuyết.
Bà Nguyễn Thị Duyên Hằng;
Ông Nguyễn Trung Dũng.
- Thư phiên tòa: Nguyễn Thị Hồng Xuân - Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Dương.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa: Ông
Trần Đức Thoại – Kiểm sát viên.
Trong các ngày 15 22 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số 225/2024/TLPT-DS
ngày 29 tháng 5 năm 2024 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự thẩm số 104/2024/DS-ST ngày 03 tháng 4 năm 2024 của
Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo, kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 255/2024/QĐ-PT ngày 13
tháng 6 m 2024; Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 329/2024/QĐ-PT ngày 27
tháng 6 năm 2024; Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 54/2024/QĐPT-DS ngày 11
tháng 7 năm 2024; Thông báo vviệc mở lại phiên a số 35/2024/TB-TA ngày 18
tháng 7 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty TNHH Một thành viên T10; địa chỉ: khu phố B, phường
A, thành phố D, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Tú Tuấn H Chức vụ: Giám đốc.
Người đại diện hợp pháp của ông Tuấn H1: Ông Phạm Đình N, sinh m
1986; địa chỉ: A, khu phố C, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, người đại diện
theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 12/6/2024), có mặt.
- Bị đơn:
1. Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1960; địa chỉ: số A (số M), Văn T1, tổ B,
khu phố B, phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương.
2
Người đại diện hợp pháp của ông Nguyễn Văn T: Ông Huỳnh Nguyễn Anh T2,
sinh năm 1983; địa chỉ liên lạc: số B, khu phố B, phường B, thành phố T, tỉnh nh
Dương, là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 15/8/2023), có mặt.
2. Ông Nguyễn Văn A, sinh năm 1978, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt;
3. Bà Phạm Thị Thanh N1, sinh năm 1980, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt;
4. Bà Nguyễn Thị Kim C, sinh năm 1988, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt;
5. Ông Phm Văn H2, sinh năm 1979, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt;
6. Bà Phạm Thị Ánh P, sinh năm 1993, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt;
7. Ông Nguyễn Văn T3, sinh năm 1985, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt;
8. Bà Võ Thị Phương H3, sinh năm 1992, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt;
9. Nguyễn Thị Thanh T4, sinh năm 1982, đơn yêu cầu giải quyết vắng
mặt;
10. Bà Lê Ngọc Thảo N2, sinh năm 2004, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt;
11. Bà Trương Hàm Y, sinh năm 1984, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt;
12. Bà Đặng Thị Kim H4, sinh năm 1956, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt;
13. Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1983, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt;
14. Ông Hồ Văn T5, sinh năm 1999, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt;
15. Bà Nguyễn Thị Cẩm V, sinh năm 1985, có mặt;
16. Nguyễn Thị Ngọc D, sinh năm 1959, đơn yêu cầu giải quyết vắng
mặt;
Cùng địa chỉ: sA (số mới 39), Văn T1, tổ B, khu phố B, phường A, thành
phố D, tỉnh Bình Dương.
17. Ông Phạm Minh T6, sinh năm 1973;
18. Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1953;
Cùng địa chỉ: số B, Quốc lộ A, phường L, thành phố T, Thành phố Hồ Chí
Minh.
Người đại diện hợp pháp của ông Phạm Minh T6 Nguyễn Thị L:
Nguyễn Thị Kim N3, sinh m 1985; địa chỉ: số H, K, phường L, thành phố T, Thành
phố Hồ Chí Minh; địa chỉ liên hệ: số B, L, Phường A, quận P, Thành phố Hồ Chí
Minh, là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 17/6/2024), có mặt.
19. Cháu Nguyễn Khánh Đ1, sinh năm 2014;
Người đại diện hợp pháp của cháu Nguyễn Khánh Đ1: Nguyễn Thị Thanh
T4, sinh năm 1982; địa chỉ: số A (sM), Lê Văn T1, tổ B, khu phố B, phường A,
thành phố D, tỉnh Bình Dương, là mẹ ruột, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
20. Cháu Phạm Đăng K, sinh năm 2014.
Người đại diện hợp pháp của cháu Phạm Đăng K: Ông Phạm Văn H2, sinh
năm 1980 Phạm Thị Thanh N1, sinh m 1980; cùng địa chỉ: số A (số mới 39),
3
Văn T1, tổ B, khu phố B, phường A, thành phố D, tỉnh Bình ơng, cha mẹ
ruột, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
21. Cháu Nguyễn Gia H5, sinh năm 2011;
22. Cháu Nguyễn Ngọc Thanh V1, sinh năm 2013;
Người đại diện hợp pháp của cháu Nguyễn Gia H5 cháu Nguyễn Ngọc
Thanh V1: Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1983 Nguyễn Thị Kim C, sinh năm
1988; cùng địa chỉ: số A (số mới 39), Văn T1, tổ B, khu phố B, phường A, thành
phố D, tỉnh Bình Dương, là cha mẹ ruột, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
23. Cháu Nguyễn Nhựt M, sinh năm 2012;
24. Cháu Nguyễn Minh K1, sinh năm 2021;
Người đại diện hợp pháp của cháu Nguyễn Nhựt M cháu Nguyễn Minh K1:
Ông Nguyễn Văn T3 sinh m 1985 Thị Phương H3 sinh năm 1992; cùng
địa chỉ: số A (số mới 39), Văn T1, tổ B, khu phố B, phường A, thành phố D, tỉnh
Bình Dương, là cha mẹ ruột, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
25. Cháu Nguyễn Trương Qunh N4, sinh năm 2014;
Người đại diện hợp pháp của cháu Nguyễn Trương Quỳnh N4: Ông Nguyễn
Văn A, sinh năm 1978 Trương Hàm Y, sinh năm 1984; cùng địa chỉ: số A (số
mới 39), Văn T1, tổ B, khu phố B, phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương,
cha mẹ ruột, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
26. Cháu Nguyễn Tuệ Minh A1, sinh năm 2018;
Người đại diện hợp pháp của cháu Nguyễn Tuệ Minh A1: Ông Nguyễn Trung
N5, sinh năm 1989 Phạm Thị Ánh P, sinh năm 1993; cùng địa chỉ: số A (số mới
39), Văn T1, tổ B, khu phố B, phường A, thành phố D, tỉnh Bình ơng, ông N5
có mặt, bà P có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
27. Ông Nguyễn Trung N5, sinh năm 1989; địa chỉ: số A (số M), Văn T1, tổ
B, khu phố B, phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương, có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ủy ban nhân dân tỉnh B.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Văn M1 Chức vụ: Chủ tịch.
Người đại diện hợp pháp của ông Võ Văn M1:Thanh V2 Phó Chi Cục
trưởng C3 trực thuộc Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh B, người đại diện theo y
quyền (Văn bản y quyền số 4027/UBND-KT ngày 26/7/2024), đơn yêu cầu giải
quyết vắng mặt.
2. Ngân hàng Thương mại Cổ phần S; địa chỉ: số B, P, phường N, Quận A,
Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Quang L1 Chức vụ: Chủ tịch Hội
đồng quản trị.
Người đại diện hợp pháp của ông Quang L1: Ông Nguyễn Ngọc T7 Chức
vụ: Giám đốc Ngân hàng Thương mại Cổ phần S - Chi nhánh T11; địa chỉ: số C,
đường P, phường P, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh, có đơn yêu cầu giải quyết vắng
mặt.
4
3. Hội quán H9; địa chỉ: số B, Trần ng Đạo B, Phường A, Quận E, Thành
phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Lâm Minh H6, sinh năm 1955 - Trưởng
ban của Hội quán H9, vắng mặt.
4. Bà Hồ Thị Út N6, sinh năm 1968; địa chỉ liên lạc: số G, đường B, khu phố B,
phường B, thành phố D, tỉnh Bình Dương, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
- Ngưi kháng cáo: bị đơn ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Trung N5,
Nguyễn Thị Ngọc D, bà Đặng Thị Kim H4, bà Phạm Thị Ánh P, ông Phạm Minh T6,
Nguyễn Thị L, Trương Hàm Y, ông Nguyễn Văn Đ, Phạm Thị Thanh N1,
Nguyễn Thị Kim C, ông Nguyễn Văn A, ông Phạm Văn H2, ông Nguyễn n T3,
Phạm Thị Phương H7 và bà Nguyễn Thị Thanh T4.
- Viện Kiểm sát kháng nghị: Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân thành phố D,
tỉnh Bình ơng theo Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 05/2024/QĐKNPT-VKS-
DS ngày 17/4/2024.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Nguyên đơn Công ty TNHH Một thành viên T10 người đại diện hợp pháp
là ông Phạm Đình N thống nhất trình bày:
Phần đất tranh chấp nguồn gốc của Hội H9 (hay còn gọi C1 Hải N7
hoặc Hội quán Chùa B1) mua từ trước năm 1975, mục đích làm nghĩa trang chôn cất
những người chết của Hội quán.
Ngày 28/02/1990, Ủy ban nhân dân tỉnh S (nay tỉnh Bình Dương) Quyết
định số 41/QĐ-UB về việc giao đất cho Nghĩa trang B1 (Hội H9), Quận E, Thành phố
Hồ Chí Minh với diện tích 183.950m
2
, trong đó phần đất hiện đang tranh chấp.
Ngày 18/3/2002, Ủy ban nhân dân tỉnh B ban hành Quyết định số 2510/QĐ-CT về
việc thu hồi Quyết định số 41/QĐ-UB ngày 28/02/1990 về việc giao đất cho Nghĩa
trang B1 cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Hội quán Chùa B1 - Quận E
theo Quyết định số 2510/QĐ-CT nội dung hợp thức hóa giao đất phê duyệt cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Hội quán Chùa B1 với diện tích 94.758,61m
2
,
mục đích để y dựng nghĩa trang theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ
79QSDĐ/2002 với diện tích 94.758,61m
2
, diện tích đất trống 89.964,46m
2
(theo số
liệu đo đạc thực tế năm 2002), trong đó có phần diện tích đất hiện nay đang tranh chấp
thì Ban H9 trách nhiệm lập phương án chuyển đổi mục đích sử dụng để được giao
hoặc cho thuê theo quy định.
Năm 2008, Hội H9 (sau đây gọi tắt Hội quán) đứng ra thành lập Công ty
TNHH Một thành viên T10 (sau đây gọi tắt Công ty T10), do Như A2
người đại diện theo pháp luật ủy quyền cho Công ty T10 được phép chuyển mục
đích sử dụng đất khu nghĩa trang, nghĩa địa diện tích 86.756,6m
2
(theo kết quả đo
đạc thực tế) sang đất thương mại, dịch vụ, đất được Ủy ban nhân dân tỉnh B chấp
thuận tại Văn bản số 494/UBND-KTN ngày 13/02/2015. Phần đất tranh chấp có tứ cận
giáp đường L, một phía giáp Công ty T12, một phía giáp đất công, một phía giáp đất
của người dân. Tuy nhiên, phần đất được xác định bởi tường bao xung quanh phần
đất tranh chấp thuộc loại thuê đất trả tiền thuê một lần cho cả thời gian thuê, mục đích
sử dụng đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp.
5
Từ năm 1986, Hội quán thuê ông Nguyễn Văn T làm bảo vệ để bảo vệ khu
nghĩa địa, nghĩa trang của Hội quán. Ngày 10/5/1989, ông Nguyễn Văn T đơn xin
Hội quán đất nhờ tiện cho việc canh giữ nghĩa trang, Hội quán đồng ý các bên
kết Bản cam kết mượn đất xây nhà ngày 10/6/1990; Bản cam kết mượn đất xây
nhà nhà nội dung cụ thể như sau: Hội quán đồng ý cho ông T mượn đất của Hội
quán, phần đất vị trí từ phía bên trái Nghĩa trang B1, chiều ngang từ gốc nhà
quan Thủy Lợi 2 đến y cột địa giới I 02m, chiều dài từ đường i lùi sau 75m trong
thời gian ông T phục vtrong nôm Nghĩa trang Chùa Hải N7; ông T chỉ được y
nhà trên ½ diện tích đất xin nhờ, còn ½ còn lại chỉ được trồng hoa màu. Ngoài ra,
ông T chỉ được y dựng nhà bằng vật liệu nhẹ dễ tháo dỡ phải nghĩa vtrả lại
đất và tự chịu chi phí tháo dỡ khi có yêu cầu từ phía Hội quán.
Tuy nhiên, quá trình sử dụng đất ở nhờ thì ông Nguyễn Văn T đã thực hiện việc
xây dựng nhà để vượt quá phạm vi cho phép của Hội quán theo Bản cam kết mượn
đất y nhà ngày 10/6/1990. Việc ông T xây dựng nhiều hơn diện tích đất theo thỏa
thuận cho những người khác vào sinh sống trên phần đất y đã bị Hội quán nhiều
lần lập biên bản về việc vi phạm ông T xác nhận vi phạm, ông T cam kết sẽ
không tái phạm. Đồng thời, cam kết trả lại đất cho Hội quán bất cứ thời điểm nào theo
yêu cầu của Hội quán mà không có bất cứ ý kiến gì.
Do có nhu cầu lấy lại đất để sử dụng, ngày 04/9/2020, đại diện Ban quản trị Hội
quán Hải Nam m việc với ông T yêu cầu ông T trả lại đất, Biên bản làm việc ngày
04/9/2020 phía Hội quán đã đề cập đến nhu cầu lấy lại đất, phía ông T cũng ghi nhận ý
kiến cam kết sau 30 ngày kể từ ngày làm việc sẽ báo lại để Hội quán xem xét. Tuy
nhiên, sau đó hết thời hạn trên nhưng phía ông T không bất cứ động thái o làm
việc với Hội quán để trả lại đất đã ở nhờ.
Cuối m 2020 đến đầu năm 2021, dịch C2 - 19 bùng phát nên phía Hội quán
không buộc gia đình ông T chuyển đi; đến cuối năm 2022, Hội quán thông báo lại
yêu cầu ông T trả lại đất cho Hội quán nhưng phía ông T cũng không thực hiện. Ban
quản trị Hội quán H9 đã khiếu nại sự việc lên Ủy ban nhân dân phường A, thành phố
D, tỉnh Bình Dương yêu cầu giải quyết. Buổi làm việc ngày 02/12/2021, tại y ban
nhân dân phường A, ông T thừa nhận mượn đất của Hội quán vào năm 1990. Tuy
nhiên, trước yêu cầu trả lại đất của Hội quán thì ông T chỉ đồng ý với điều kiện là phải
làm 06 căn nhà chỗ khác cho gia đình ông T các con ông T sinh sống nhưng yêu
cầu này của ông T hết sức vô lý nên Hội quán không chấp nhận.
ông T người được Hội quán H9 thuê để trông coi đất nghĩa trang, nghĩa
địa khu đất thuộc quyền sử dụng đất của Hội quán nay thuộc quyền sử dụng đất của
Công ty T10. Qtrình làm việc Hội quán đã tạo điều kiện cụ thể đã cho mượn
diện tích đất để nhờ thuận tiện cho công việc của ông T. Tuy nhiên, quá trình sử
dụng thì ông T đã sử dụng quá phạm vi diện tích đất Hội quán cho mượn, tự ý y
dựng nhà cửa trên đất, tự ý cho những người khác trên đất không xin ý kiến,
không thông báo cho Hội quán. Hội quán đã nhiều lần lập biên bản về việc vi phạm
của ông T ông T cũng đã nhiều lần thừa nhận hành vi của mình, cam kết di dời đến
nơi ở khác nhưng ông T lại không thực hiện.
Nay, Công ty T10 yêu cầu khởi kiện buộc các bị đơn phải tự di dời toàn bộ tài
sản đang trên diện tích đất tranh chấp theo kết quả đo đạc thực tế 1.183,7m
2
thuộc một phần thửa đất số 2603, tờ bản đồ số 13 (8.AB) theo Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền trên đất số 263552, số
6
vào sổ CT14687 do Ủy ban nhân n tỉnh B cấp cho Công ty T10 ngày 02/6/2016 để
trả lại đất cho Công ty T10. Công ty T10 không đồng ý hỗ trợ kinh phí di dời, không
đồng ý chi trả giá trị tài sản trên đất.
Đối với bà Nguyễn Thị T8 và ông Nguyễn Văn Đ2 là ai thì Công ty Vương Bảo
L2 không biết; đối với việc ông T cho rằng phần đất tranh chấp mua của ông Đ2,
T8 nhưng không bất cứ chứng cứ nào chứng minh việc mua bán; còn đối với đơn
xin cam thiệp (đất cất nhà) của ông T ngày 22/02/1990 thì nội dung xin phép cất
nhà trên đất, không nội dung nào chuyển nhượng, giao dịch liên quan đến phần đất
tranh chấp, đơn xin cất nhà này sau khi văn bản thỏa thuận cho mượn đất của
Hội quán với ông T.
Việc ông T cho những ai trên đất, y dựng những tài sản trên đất không báo
với Hội quán nên Công ty Vương Bảo L2 không biết. Việc giao dịch chuyển nhượng
giữa Hồ Thị Út N6 với Nguyễn Thị L và Nguyễn Thị Ngọc D với ông Phạm
Minh T6 thì Công ty Vương Bảo L2 không biết. Tuy nhiên, việc những người y
trên đất và cung cấp những văn bản bằng giấy tay về việc chuyển nhượng tài sản thuộc
quyền sở hữu của Công ty T10 hiện đang tranh chấp nên đề nghị Tòa án xem xét, giải
quyết các giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất hiện đang tranh cấp.
Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản, đo đạc phía nguyên đơn
tự nguyện chịu.
- Bị đơn ông Nguyễn Văn T trình bày:
Ông T được Chùa B1 thuê trông coi Nghĩa trang B1 từ năm 1986 đến nay; thời
điểm trông coi nghĩa trang, ông T nhờ căn nhà trên đất nghĩa trang; đến m 1990,
C1 Hải N7 cho ông T xây dựng căn nhà ngoài phần đất nghĩa trang, ông T y
dựng căn nhà cấp 4 khoảng 200m
2
, khi ông T xây dựng không giấy phép, không bị
phạt vi phạm trong lĩnh vực y dựng, đến năm 2013, ông T sửa chữa lại căn nhà
hiện trạng như hiện nay. Trong quá trình ông T sinh sống đây cùng với vợ các
con ông T, sau khi các con ông T lớn, lập gia đình thì ông T y dựng những căn nhà
gần phất đất của ông T cho các con ở, không ai ý kiến về việc xây dựng nhà của
ông T.
Ông T không biết phần đất hiện nay ông T các con ông T đang đã được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ai chưa. Ông T chưa được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất với phần đất gia đình ông T đang ở, ông T cũng không đi
đăng ký, kê khai để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vì ông T nghĩ đất đai
ông T đã quản lý, sử dụng từ năm 1990 đến nay không ai ý kiến thì ông T cứ sử
dụng.
Ông T chỉ biết Công ty V3 mướn đất của Chùa Hải N7 còn sự thật như thế
nào ông T không rõ.
Tại Biên bản lấy lời khai ngày 14/11/2023, lời khai quá trình tố tụng sau đó
tại phiên tòa ông T người đại diện hợp pháp của ông T ông Huỳnh Nguyễn Anh
T2 thống nhất trình bày:
Phần đất tranh chấp theo kết quả đo đạc thực tế diện tích 1.183,7m
2
,
nguồn gốc của ông Nguyễn Văn T mua của ông Nguyễn Văn Đ2Nguyễn Thị T8
từ năm 1990. Khi nhận chuyển nhượng từ ông Đ2, T8 các bên không hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà chỉ Đơn xin can thiệp đất cất nhà ngày
7
22/02/1990 của ông T gửi y ban nhân dân (nay phường) An Bình nhằm mục
đích xin phép Ủy ban nhân dân (nay phường) An Bình cho ông T xây ntrên
phần đất mua của ông Đ2, T8. Tại nội dung Đơn xin can thiệp đất cất nhà ngày
22/02/1990 không có nội dung nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng tại phần
cuối cùng của đơn có xác nhận ông Đ2, T8 nhận của ông T 03 chỉ vàng 9999
nội dung đơn ghi nhận trên đất một căn nhà của ông Đ2, bà T8. Khi chuyển
nhượng cho ông T thì ông Đ2, T8 cũng không có giấy tờ chứng minh quyền
quản lý, sử dụng phần đất chuyển nhượng cho ông T nhưng ông T biết ông Đ2,
T8 đã trên đất từ năm 1975 cho đến khi chuyển nhượng cho ông T, còn nguồn gốc
trước đó như thế nào ông T không biết. Ông Đ2, T8 không mối liện hệ với
Chùa B1. Ông Đ2, T8 đã chết từ lâu, không rõ chết năm nào, con cái ông Đ2, bà T8
là ai và đang ở đâu ông T không rõ. Đơn xin cam thiệp đất cất nhà ngày 22/02/1990
xác nhận của ông Phạm Văn H8 và ông Đồng Văn L3 (đã chết). Thời điểm ông T nhận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông Đ2, T8 thì trên đất chỉ xây dựng một
căn nhà nhỏ trên đất, sau khi ông T nhận chuyển nhượng thì ông T dỡ bỏ đi, vị trí căn
nhà phần phía trước giáp đường L. Ông Nguyễn Văn T quản lý, sử dụng đất từ m
1990 cho đến nay; trong quá trình quản lý, sử dụng ông T đã xây nhà cho các con
ông T như hiện nay. Trên đất còn có ncủa Nguyễn Ngọc D, D em dâu của
ông T, trước đây ông T cho D ông Hồ Văn T9 một phần đất để y dựng nhà
từ năm 1992, ông T9 đã chết cách đây khoảng 10 năm. Trên đất có căn nhà của
Nguyễn Thị L do trước đây ông T cho em gái ông T Hồ Thị Út N6 cất 01 căn
nhà để ở, Út N6 bán lại cho Nguyễn Thị L, bán bao nhiêu tiền giấy tờ hay
không, thời điểm bán ông T không biết, Út N6 bán nhà xong bỏ đi đâu ông T và gia
đình ông T không rõ. Trên đất tranh chấp còn căn nhà của ông Phạm Minh T6, ông
T6 trên đất y là do trước đây ông T cho ông T9 một phần đất thì ông T9, D cất
01 căn nhà để còn 01 phần D bán cho ông T6, giá bán bao nhiêu, giấy tờ mua
bán không thì ông T không rõ.
Ông T được Chùa B1 thuê trông coi Nghĩa trang B1 từ năm 1986. Ông T
vào Bản cam kết mượn đất xây nhà vào ngày 10/6/1990 với Chùa B1. Tuy nhiên,
thực tế thì Chùa B1 không chỉ vị trí đất cho ông T, ông T không mượn bất cứ diện tích
đất nào từ Chùa B1, ông T biên bản này tại Chùa B1 địa chỉ tại Quận E, Thành
phố Hồ Chí Minh. Ông T xác nhận chữ ký, dấu vân tay của mình phần ghi Nguyễn
Văn T tại các Biên bản ngày 15/01/1995, Biên bản họp vấn đề Nghĩa trang B1 ngày
07/4/1996, Biên bản xây cất nhà trái phép trên diện tích đất Nghĩa trang B1 ngày
29/7/2000 Bản cam kết ngày 29/7/2000. Tuy nhiên, khi ông T không đọc nội
dung của văn bản, không biết nội dung trong văn bản ghi những gì, do lo sợ không
được tiếp tục công việc tại Chùa B1 nên ông T đã vào các văn bản nêu trên
không đọc nội dung, ông T cũng không được nghe đọc lại.
Ông T đã quản lý, sử dụng toàn bộ diện tích đất nêu trên từ m 1990 cho đến
nay; trong quá trình quản lý, sử dụng ông T đăng ký, khai đối với phần đất nêu
trên nhưng không điều kiện kinh tế để m thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, theo tờ khai diện tích tính thuế sử dụng đất nông nghiệp thuế đất
nông thôn ngày 11/10/1998.
Trong quá trình sử dụng đất, ông T đóng thuế quyền sử dụng đất m 1999
năm 2000. Sau đó, ông T không nhận được thông báo nộp thuế nên ông T không
tiếp tục đóng thuế quyền sử dụng đất nữa.
8
Đối với phần đất tranh chấp thì B quản trị Hội quán H9 được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất với phần đất tranh chấp hay không thì ông T không rõ. Hiện
nay nhân hay tổ chức nào được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông T
không rõ.
Đối với Công ty T10 quan hệ như thế nào với Hội H9 (Chùa B1) thì ông T
không biết, ông T không biết việc y quyền đối với phần đất tranh chấp nêu trên của
Hội H9 cho Công ty T10.
Khi y dựng nhà trên đất, ông T kng xin phép y dựng, có bị xử phạt vi
phạm hành chính về việc xây dựng nhưng không có quyết định xử phạt.
Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu ông T và những người trong
gia đình ông phải di dời toàn bộ tài sản trên đất để hoàn trả lại diện tích theo kết quả
đo đạc thực tế 1.183,7m
2
thì ông T không đồng ý phần đất nêu trên do ông T
mua của ông Đ2, T8 và ông T ng gia đình đã sử dụng ổn định trên 30 năm nên đề
nghị Tòa án xem xét lại việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Công ty
Vương Bảo L2 khi làm thủ tục để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì không
xem xét thẩm định tại chỗ để xác định những người ở trên phần đất tranh chấp là ai,
sao được ở trên đấtý kiến của những người này như thế nào về việc cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho một tổ chức, cá nhân khác.
Trước đây, đại diện Chùa B1 thỏa thuận với ông Nguyễn Văn T về việc hỗ
trợ cho gia đình ông T số tiền 5.000.000.000 đồng hỗ trnơi mới nếu ông T di
dời tài sản trên đất tranh chấp để trả lại đất cho C1 Hải N7 nhưng ông T không
đồng ý, ông T nói rõ ông T không đồng ý di dời khỏi đất.
Ông T gia đình ông T vẫn nhu cầu được trên phần đất y. Trường hợp
Tòa án chấp yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì ông T cũng không nhu cầu mua
lại phần đất tranh chấp. Nếu Công ty Vương Bảo L2 muốn lấy lại phần đất tranh chấp
thì phải đền bù cho gia đình ông T số tiền 80.000.000.000 (tám mươi tỷ) đồng.
- Các bị đơn là vợ và con, cháu ông Nguyễn Văn T thống nhất trình bày:
Thống nhất lời khai và ý kiến của ông Nguyễn Văn T.
- Bị đơn bà Nguyễn Ngọc D và ông Hồ Văn T5 thống nhất trình bày:
Bà D em dâu của ông Nguyễn Văn T, chồng D tên ông Hồ Văn T9, ông
T9 đã chết năm 2018, khi chết không để lại di chúc. D và ông T9 một người con
là ông Hồ Văn T5. Bà D đang ở trên một phần đất mà hiện nay Công ty T10 đang khởi
kiện trong vụ án này.
D chồng D đây từ năm 1992, do ông Nguyễn Văn T cho ở, khi ông
T cho vợ chồng bà D đất thì chỉ nói bằng lời nói, không có giấy tờ, không có hợp đồng
tặng cho, khi cho chranh, vị trí đất nhưng không đo đạc cụ thể. D chồng
bà D y dựng căn nhà từ năm 1992, hiện nay căn nhà vẫn còn. D chỉ biết nguồn
gốc đất của ông T còn sao ông T thì D không rõ. Trong tổng diện tích đất
ông T cho D khoảng 418m
2
; ngoài phần đất D y nhà thì n một phần đất
cuối đất, vào m 2018, D đã chuyển nhượng cho Nguyễn Thị L ông Phạm
Minh T6 một phần đất diện tích 4,1m x 14m với giá 260.000.000 đồng, vợ chồng
D giao đất nhận tiền đủ từ ông T6. Sau khi mua đất của D tông T6 (con
L) đã y dựng nhà như hiện nay. Tại hợp đồng chữ của D, chồng D
ông Hồ Văn T9, con D là ông Hồ Văn T5 là bên chuyển nhượng, còn đối vớiHồ
9
Thị Út N6 là em gái của ông T9 là người làm chứng cho hợp đồng, còn bên mua là ông
Phạm Minh T6.
D, ông T5 không yêu cầu Tòa án giải quyết hợp đồng chuyển nhượng giữa
vợ chồng bà D với bà L, ông T6.
Trong quá trình quản lý, sử dụng đất D không đăng ký, khai chưa
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Theo D được biết đối với phần đất
hiện nay D đang chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ai. D
đã đóng thuế quyền sử dụng đất từ m 2002 đến năm 2011; từ năm 2012, do D
không nhận được thông báo nộp thuế quyền sử dụng đất nên D không tiếp tục nộp
nữa.
Từ khi D sinh sống tại phần đất tranh chấp cho đến nay thì không bất cứ
cá nhân, tổ chức nào đến để yêu cầu bà D giao trả đất.
Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì D thống nhất với ý kiến của
ông Nguyễn Văn T, ông T ý kiến về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn như thế nào
thì bà D cũng đồng ý theo ý ông T và quyết định như vậy.
- Bị đơn Nguyễn Thị L, ông Phạm Minh T6 Nguyễn Thị Cẩm V thống
nhất trình bày:
L chị dâu của ông Nguyễn Văn T, chồng L tên Phạm n N8, ông
N8 đã chết năm 2021.
L con trai bà L ông Phạm Minh T6 con u L Nguyễn Th
Cẩm V đang ở trên một phần đất hiện nay Công ty T10 đang khởi kiện trong vụ án
này. Hiện nay trên đất tranh chấp có 02 căn nhà của gia đình bà L, cụ thể về nguồn gốc
như sau:
+ Căn nhà thứ nhất: do bà L và chồng L mua của bà Hồ Thị Út N6 theo Giấy
bán nhà ngày 12/12/1992, khi mua đất L biết được rằng đất của ông Nguyễn Văn T
cho Hồ Thị Út N6, khi mua đất không đo đạc thực tế, L đã nhận đất xây dựng
nhà ở từ năm 1992 và đã trả tiền đầy đủ cho bà Út N6.
+ Căn nhà thứ hai: là phần diện tích cuối đất tranh chấpL và con bà L là ông
Phạm Minh T6 nhận chuyển nhượng của vợ chồng Nguyễn Ngọc D, ông Hồ Văn
T9 vào năm 2018 có diện tích 4,1m x 14m với giá 260.000.000 đồng,L đã nhận đất
và giao tiền đầy đủ cho vợ chồng D. Sau khi mua đất thì ông T6 đã xây dựng nhà ở
như hiện nay. Tại hợp đồng chữ của bên bán D, ông T9, ông T5, bên mua
là bà L và ông T6, người làm chứng là bà Hồ Thị Út N6.
Trong quá trình quản lý, sử dụng đất L không đăng ký, khai chưa
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Theo L được biết đối với phần đất
hiện nay L đang chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ai
L chỉ biết đất của ông Nguyễn Văn T. L không đóng thuế quyền sử dụng đất
nhưng đối với phần đất mua của D thì bà D đã nộp thuế từ năm 2002 đến m
2011. Từ khi L sinh sống tại phần đất tranh chấp cho đến nay thì không bất cứ cá
nhân, tổ chức nào đến để yêu cầu bà L giao trả đất.
Ngoài ra, để đi ra đường L thì L đã trả tiền cho ông Nguyễn Văn T với s
tiền 10.000.000 đồng để làm đường đi. Tuy nhiên, không biên bản giao nhận tiền,
10
sau khi nhận tiền ông T giấy xác nhận ngày 03/6/2018 cho L với nội dung
để con bà L là ông Phạm Minh T6 đi trên con đường này.
Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì L không đồng ý vì phần đất bà
L đã mua của Út N6, D ông T9. Nếu trong trường hợp a án chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn đề nghị xem xét việc hỗ trợ, bồi thường tài sản trên đất
công sức giữ gìn đất xem xét các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
của bà L, ông T6 đã ký kết với bà Út N6, bà D, ông T9.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Hội quán H9 trình bày:
Phần đất tranh chấp hiện nay Công ty T10 khởi kiện nguồn gốc của Hội
quán Chùa B1 đã mua trước năm 1975, mục đích để làm nghĩa trang chôn cất cho
những người thuộc Hội quán H9 sau khi chết. Đến năm 2000, Hội quán Chùa B1 đã
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 94.758,6m
2
, mục đích
xây dựng nghĩa trang, còn phần diện tích đất còn lại 89.964,4m
2
(trong đó có một phần
đất hiện nay đang tranh chấp trong vụ án) theo Quyết định số 2510/QĐ-CT ngày
18/3/2002 của y ban nhân n tỉnh B thì B quản trị Hội quán Chùa B1 trách
nhiệm lập phương án chuyển đổi mục đích sử dụng đất đã được giao theo quy định
hiện hành. Tuy nhiên, lúc đó B quản trị Hội quán Chùa B1 không kinh phí để thực
hiện thủ tục chuyển đổi theo quy định của pháp luật nên chưa được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất 89.964,4m
2
. Sau đó, Hội quán Chùa B1
thành lập Công ty T10 và ủy quyền toàn bộ cho Công ty T10 thực hiện quyền và nghĩa
vụ trên phần đất nêu trên đến m 2016, Công ty Vương Bảo L2 đã được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất.
Trong quá trình quản lý, sử dụng phần đất có diện tích 89.964,4m
2
, trước khi ủy
quyền cho Công ty T10 thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sử dụng đất thì vào năm
1986, Hội quán Chùa B1 thuê ông Nguyễn Văn T trông coi nghĩa trang, để thuận
tiện cho việc trông coi nghĩa trang thì Hội quán Chùa B1 cho ông T mượn một phần
đất để cất nhà trồng hoa màu sinh sống, việc cho mượn đất được các bên lập Bản
cam kết mượn đất xây nhà ở vào ngày 10/6/1990, diện tích cho mượn là khoảng 75m x
12m, trong bản cam kết ghi cho ông T ợn để y dựng nhà ông T chỉ được
xây dựng trên khoảng ½ diện tích đất cho mượn, phần còn lại trồng hoa màu để cải
thiện đời sống của ông T, nhằm mục đích cho ông T yên m trông coi nghĩa trang,
ông T đã y dựng nhà trên đất. Tuy nhiên, ông T không thực hiện đúng cam kết về
xây dựng nhà đã xây dựng vượt quá diện tích đất đã thỏa thuận nên Hội quán
Chùa B1 đã nhiều lần yêu cầu ông Nguyễn Văn T tháo dỡ toàn bội sản để trả lại đất
và ông T cam kết sẽ tháo dỡ trả lại đất cho Hội quán Chùa B1 nhưng ông T không thực
hiện. Khi Hội quán Chùa B1 y quyền cho Công ty T10 thực hiện quyền, nghĩa vụ của
chủ sử dụng đất thì ng ty T10 biết trên đất một phần đất ông T gia đình đã
xây dựng n đã yêu cầu ông T tháo dỡ nhưng ông T không thực hiện, Công ty
T10 vẫn tiếp tục thực hiện việc này. Hội quán H9 đã ủy quyền cho Công ty T10 thực
hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sử dụng đất nên không còn quyền lợi, nghĩa vụ trên phần
đất này mà quyền và nghĩa vụ là của Công ty T10.
Nay, Công ty T10 khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Văn T phải trả lại diện tích
đất cho Công ty T10, phía Hội quán H9.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân tỉnh B trình bày:
11
Về căn cứ cho Công ty T10 thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất
đó là: y ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số 285/QĐ-UBND ngày 05/02/2016
cho phép Công ty T10 được chuyển mục đích sử dụng đất với hình thức Nhà nước
thuê đất cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được căn cứ trên quy định của
Luật Đất đai năm 2013 các văn bản hướng dẫn thi hành. Về nguồn gốc đất quá
trình sử dụng đối với khu đất như sau: Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số 263552 ngày 02/6/2016,
thửa đất số 2603, tờ bản đồ số 13 (8AB) có tổng diện tích 86.756,6m
2
(thuộc hành lang
an toàn đường bộ 1.401,1m
2
đất , đất thuộc quy hoạch ga lập tàu An Bình
3.420,2m
2
, diện tích còn lại 81.935,2m
2
). Khu đất nguồn gốc trước đây do Hội
quán H9, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh mua trước giải phóng (năm 1975) để m
nghĩa trang chôn cất người thân. Ngày 28/02/1990, Ủy ban nhân dân tỉnh S (nay
tỉnh Bình Dương) ban hành Quyết định số 41/QĐ-UB giao đất cho Nghĩa trang B1 với
diện tích 183.950m
2
. Ngày 18/3/2002, y ban nhân dân tỉnh B ban hành Quyết định số
2510/QĐ-CT thu hồi Quyết định số 41/QĐ-UB ngày 28/02/1990 do điều chỉnh nội
dung về nguồn gốc sử dụng đất; theo đó, đối với diện tích 83.793,9m
2
Ủy ban nhân
dân tỉnh B đề nghị Hội quán H9, Quận E lập phương án chuyển đổi mục đích sử dụng
đất để được giao hoặc thuê theo quy định. Ngày 15/11/2014, Công ty T10 Văn bản
số 02/CV trình y Ban quản trị Hội quán H9 đứng ra thành lập ng ty T10 để quản
khu đất lập thủ tục đất đai theo quy định của pháp luật. Trên sở đó, y ban
nhân dân tỉnh đã cho phép Công ty Vương Bảo L2 được chuyển mục đích sử dụng đất
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định. Về việc đo đạc khu đất: Sở
T tham mưu y ban nhân dân tỉnh cho Công ty T10 chuyển mục đích sử dụng đất với
hình thức Nhà nước cho thuê đất hợp đồng thuê đất dựa trên số liệu đo đạc do
Văn phòng Đăng đất đai tỉnh xác lập tại Bản trích lục lồng ghép phạm vi ga A
(có đo vẽ bổ sung) tháng 11/2011.
Liên quan đến tài sản trên đất tại thời điểm cho thuê đất: theo nội dung Biên xác
định ranh giới, mốc giới thửa đất ngày 20/11/2000 (xung quanh khu đất ờng y
cố định hiện trạng mộ rải rác). Theo nội dung khảo sát, lấy ý kiến chuyển mục
đích của Công ty T10 ngày 09/12/2015 khu đất được sử dụng vào mục đích làm kho
bãi, vận chuyển hàng hóa từ năm 2008.
Đối với các nội dung còn lại, đề nghị Toà án nhân dân thành phố D căn cứ vào
hồ sơ và quy định của pháp luật để giải quyết theo đúng quy định.
- Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Ngân hàng Thương mại Cổ phần S
trình bày:
Ngân hàng Thương mại Cổ phần S Công ty T10 kết các hợp đồng thế
chấp quyền sử dụng đất theo đúng quy định của pháp luật, trước khi hợp đồng thế
chấp thì Ngân hàng Thương mại Cổ phần S thẩm định tài sản thuê công ty thẩm
định giá độc lập. Đối với hợp đồng thế chấp, hợp đồng tín dụng của Công ty T10 với
ngân hàng thì ngân hàng không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.
Việc ông Nguyễn Văn T gia đình của ông T trên đất của Công ty Vương
Bảo L2 từ thời điểm nào ngân hàng không khi đi thẩm định tài sản thì Công
ty T10 trao đổi với ngân hàng những người trên đất công nhân của Công ty
T10, công ty cho ở nhờ để làm việc cho công ty.
12
Nay, Công ty T10 có tranh chấp với ông Nguyễn Văn T, ngân hàng đề nghị Tòa
án giải quyết theo quy định của pháp luật.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Hồ Thị Út N6 trình bày:
Út N6 em ruột của ông Nguyễn Văn T, trước đây bà Út N6 trên một
phần đất hiện nay đang có tranh chấp, Út N6 ở từm 1990 và xây dựng nhà ở,
phần đất y do Ú khai phá; đến m 1992 thì chuyển nhượng cho L ông T6,
Út N6 đã nhận đủ tiền, giao đất. Trong thời gian trên đất, N6 không đăng
ký, khai chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. không ý kiến
đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
- Người làm chứng ông Phạm Văn H8 trình bày:
Thời điểm năm 1990, ông Phạm Văn H8 làm công an khu vực ấp B, vào
khoảng năm 1990, ông H8 chứng kiến việc ông T mua lại 01 căn nhà của ông
Nguyễn Văn Đ2 và bà Nguyễn Thị T8 vị trí hiện nay ông T đang làm nhà ở, ông H8
chứng kiến việc ông T trả cho T8 02 chỉ vàng. Sau khi bán nhà ông Đ2, T8
không ở đây nữa, ông Đ2, bà T8 đã chết từ lâu, không nhớ rõ năm.
- Tại biên bản xác minh ngày 22/3/2024 tại Ủy ban nhân dân phường A để xác
minh về nguồn gốc, việc đăng khai quá trình quản lý, sử dụng đối với phần
đất tranh chấp kết quả như sau:
Theo sổ địa chính năm 1995 tại thửa đất s371, 372, tờ bản đsố 08 tên đăng
Chùa B1; theo sổ mục đất đai năm 2004 tại thửa đất số 1813, 1814, 1815,
1816, 1817, 1842, tờ bản đồ 23 (8.AB-8) thì người có tên tại sổ mục là ông Hồ Văn
T9 (thửa đất số 1813, 1814), Nguyễn Thị D1 (thửa đất số 1815), ông Phạm Minh
T6 (thửa đất số 1816), ông Nguyễn Văn T (thửa đất số 1817 thửa đất số 1842); về
nguồn gốc phần đất tranh chấp: được thể hiện tại hồ cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền trên đất sCD 263552 do Sở
Tài nguyên Môi trường tỉnh B cấp ngày 02/06/2016 văn bản cung cấp thông tin
của y ban nhân dân tỉnh B cho Tòa án; về quá trình quản lý, sử dụng phần đất tranh
chấp: theo việc đăng được ghi nhận tại sổ địa chính năm 1995 tại thửa đất số 371,
372, tờ bản đồ số 08 tên đăng ký Chùa B1. Theo hiện trạng được thể hiện tại sổ mục
đất đai năm 2004 ghi tên ông Hồ Văn T9 (thửa đất số 1813, 1814), Nguyễn Thị
D1 (thửa đất số 1815), ông Phạm Minh T6 (thửa đất số 1816), ông Nguyễn Văn T
(thửa đất số 1817 thửa đất số 1842); về việc y dựng những tài sản trên phần đất
tranh chấp: thời điểm trước năm 2005 theo quy định khi người dân xây dựng nhà
riêng lẻ không phải xin phép chính quyền địa phương nên địa phương không nắm rõ.
Kết quả xem xét thẩm định, đo đạc thể hiện tài sản tranh chấp gồm: quyền sử
dụng đất thuộc một phần thửa đất số 2603, tờ bản đồ số 13 (8A.B) theo Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số
263552, số vào sổ CT14687 do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh B cấp cho Công ty
TNHH Một thành viên T10 ngày 02/6/2016, tọa lạc tại khu phố B, phường A, thành
phố D, tỉnh Bình Dương, có diện tích 1.183,7m
2
, loại đất: đất sản xuất phi nông nghiệp
và các tài sản gắn liền trên đất gồm:
+ Nhà 01: Nhà riêng lẻ loại 01 tầng do ông Nguyễn Văn A đang quản lý, sử
dụng, y dựng năm 2011. Nhà kết cấu: nền gạch men, tường gạch y sơn
nước, khung cột gạch, trần thạch cao, cửa sắt kéo, cửa kính khung sắt, cửa kính khung
nhôm, mái tole với diện tích 51,75m
2
.
13
+ Nhà 02: Nhà ở riêng lẻ loại 01 tầng có kết cấu: nền gạch men, tường gạch y
sơn ớc, khung cột gạch, cột sắt tròn, kèo sắt hộp, mái tole, cửa sắt kéo diện
tích nhà 55,9 m
2
, nhà do Nguyễn Thị Thanh T4 đang quản lý, sử dụng, xây dựng
năm 2011.
+ Nhà 03: nhà tạm đang do Nguyễn Thị Thanh T4 quản lý, sử dụng được
xây dựng năm 2011. Nhà tạm kết cấu: nền láng vữa xi măng, cột sắt tròn, kèo sắt
hộp, mái tole, cửa sắt kéo, vách bằng tường gạch y tole của ông Nguyễn Văn A;
diện tích nhà tạm là 52,5m
2
.
+ Nhà 04: nhà do ông Nguyễn Văn T đang quản lý, sử dụng. Nhà được y
dựng m 1989, được sửa chữa năm 2011. Nhà riêng lẻ loại 01 tầng kết cấu: nền
gạch men, tường gạch xây sơn ớc, khung cột gạch + tông cốt thép, trần thạch
cao, cửa kính khung nhôm cửa sắt kéo, trần thạch cao + cửa gỗ, cầu thang gỗ, mái tole,
gác bê tông diện tích 24m
2
; diện tích nhà 93m
2
.
+ Nhà 05: nhà tạm do ông Nguyễn Văn T quản lý, sử dụng, xây dựng m
2011. Nhà tạm kết cấu: nền gạch men, nền láng vữa xi măng, cột sắt tròn, kèo sắt
hộp, mái tole, tường xây tô; diện tích nhà 24,51m
2
.
+ Nhà 06: Nhà tạm do ông Nguyễn Văn T quản lý, sử dụng, y dựng năm
2011. Nhà tạm kết cấu: nền tông xi măng, cột sắt tròn, kèo sắt hộp gỗ tạp, mái
tole, sân láng vữa xi măng; diện tích nhà 28,06m
2
.
+ Nhà 07: Nhà do ông Nguyễn Văn T3 quản lý, sử dụng, y dựng năm 2011.
Nhà riêng lẻ loại 01 tầng kết cấu: nền gạch men, tường gạch xây sơn nước,
khung cột gạch, trần tole, thạch cao, cửa nhựa + cửa kính khung sắt, mái tole, cầu
thang bằng sắt; diện tích nhà 26,88m
2
, gác bê tông có diện tích 26,88m
2
.
+ Nhà 08: Nhà do ông Nguyễn Văn Đ quản lý, sử dụng, y dựng năm 2011.
Nhà riêng lẻ loại 01 tầng kết cấu: nền gạch men, tường gạch xây sơn nước,
khung cột gạch, trần thạch cao, cửa kính khung nhôm + cửa kính khung sắt, mái tole,
gác bê tông, cầu thang bằng sắt; nhà có diện tích 30m
2
.
+ Nhà 09: Nhà nhà tạm do Phạm Thị Thanh N1 quản lý, sử dụng được
xây dựng năm 2010.
Nhà riêng lẻ loại 01 tầng kết cấu: nền gạch men, tường gạch xây tô, sơn
nước, khung cột gạch + tông cốt thép, trần thạch cao, cửa kính khung nhôm + cửa
kính khung sắt, cầu thang bằng sắt có diện tích 38m
2
.
Nhà tạm phía sau nhà N1 kết cấu: nền láng vữa xi măng, cột sắt thép, kèo
sắt hộp, tường gạch xây tô sơn nước, mái tole có diện tích 12,65m
2
.
Nhà tạm kết cấu: nền láng vữa xi măng, kèo sắt hộp, gỗ tạp, cột sắt tròn +
kèo sắt có diện tích 10m
2
.
+ Nhà 10: Trại gia cầm kết cấu: nền láng vữa xi măng, tường gạch y lửng,
cột sắt tròn, kèo sắt hộp, mái tole, phía trong lưới B40 + song sắt chia thành nhiều
chuồng có diện tích 130m
2
. Trại gia cầm đang do ông Nguyễn Văn T quản lý, sử dụng.
Nhà tạm phía trước trại gia cầm kết cấu: nền láng vữa xi măng, ờng gạch
xây lửng + bạt, cột sắt tròn, kèo sắt hộp, mái tole có diện tích 27m
2
.
Sân bê tông xi măng có diện tích 43,24m
2
.
14
Chuồng nuôi gia cầm kết cấu: nền láng vữa xi măng, cột gạch, tường gạch
xây phía sau bên trong, mái tole, cửa sắt có diện tích 64m
2
.
+ Nhà 11: Nhà ở riêng lẻ loại 01 tầng có kết cấu: nền gạch men, tường gạch y
sơn nước, khung cột gạch, trần thạch cao, cửa sắt kéo, cửa kính khung nhôm, mái
tole diện tích 66m
2
; nhà dùng để xe dạy học, nhà do ông Nguyễn Văn T quản
lý, sử dụng, xây dựng vào năm 1992.
Nhà vệ sinh biệt lập kết cấu: nền gạch men, tường gạch y (01 phần),
khung cột gạch, mái tole, cửa kính khung nhôm, bên trong ốp gạch men, lửng
diện tích 9,6m
2
.
+ Nhà 12: Nhà ở riêng lẻ loại 01 tầng có kết cấu: nền gạch men, tường gạch y
sơn nước, khung cột gạch, tầng tole, cửa kính khung nhôm, cửa sắt kéo, mái tole,
nền sân tông xi măng, mái che tole diện tích 7,4m x 5,6m = 41,44m
2
. Cầu thang
sắt, gác tông diện tích 2,2m x 3,2m = 7,04m
2
; nhà do Nguyễn Thị L quản lý,
xây dựng vào năm 1992.
Nhà 12: Nhà riêng lẻ loại 01 tầng kết cấu: nền gạch men, tường gạch xây
sơn ớc, trần nhựa, cửa kính khung sắt, cửa sắt, mái tole diện tích 4,2m x 11m
= 46,2m
2
.
Nhà tạm kết cấu: nền tông xi măng, cột sắt tròn, kèo sắt hộp, mái tole
diện tích 2,7m x 4,2m; sân tông xi măng diện tích 01m x 5,5m = 5,5m
2
;
bàn
thiêng bằng gạch xây sơn nước chiều cao 1,3m; nhà do ông Nguyễn Văn T y
dựng vào năm 1991.
+ Nhà 13: Nhà 01 tầng kết cấu: nền gạch men, tường gạch y sơn
nước, khung cột gạch, cửa gỗ + cửa sắt, mái tole diện tích (7,8m x 04m) + (04m x
07m) = 59,2m
2
.
Sân bê tông xi măng có diện tích (7,6m x 3,5m) + (6,5m x 3,7m) = 50,65m
2
.
Nhà ở và sân do bà Nguyễn Thị Ngọc D quản lý, sử dụng và được xây dựng vào
năm 1992.
Nhà vệ sinh biệt lập kết cấu: nền gạch men, tường gạch y sơn nước,
phía trong ốp gạch men, khung cột gạch, cửa kính khung nhôm, mái tole diện
tích 3,4m x 2,5m = 8,5m
2
; sân bê tông xi măng có diện tích 1,7m x 2,5m = 4,25m
2
.
+ Nhà 14 có kết cấu: nền gạch men, ờng gạch y sơn ớc, phía trong
ốp gạch men lửng, khung cột gạch, trần tole, cửa kính khung nhôm, cửa sắt kéo, cửa
kính khung sắt, trần tole, mái tole diện tích gác 3,2m x 4,2m = 13,44m
2
; diện tích
nhà 13m x 4,2m = 54,6m
2
. Mái che phía trước, mái che tole, nền tông xi măng có
diện tích 4,2m x 2,7m = 11,34 m
2
; nhà đang do ông Phạm Minh T6 y dựng vào năm
2019 và quản lý, sử dụng từ năm 2019.
Tại Bản án dân sự thẩm số 104/2024/DS-ST ngày 03 tháng 4 năm 2024 của
Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương đã quyết định:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty TNHH Một
thành viên T10 với các bị đơn về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
1. Buộc các bị đơn gồm: ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Văn A, Phạm Thị
Thanh N1, Nguyễn Thị Kim C, ông Phạm Văn H2, Phạm Thị Ánh P, ông
Nguyễn Văn T3, Thị Phương H3, Nguyễn Thị Thanh T4, Ngọc Thảo
15
N2, Trương Hàm Y, Đặng Kim H4, ông Nguyễn Văn Đ, ông Hồ Văn T5, ông
Phạm Minh T6, Nguyễn Thị Cẩm V, Nguyễn Thị L, Nguyễn Thị Ngọc D,
cháu Nguyễn Khánh Đ1, cháu Phạm Đăng K, cháu Nguyễn Gia H5, cháu Nguyễn
Ngọc Thanh V1, cháu Nguyễn Nhựt M, cháu Nguyễn Minh K1, cháu Nguyễn Trương
Quỳnh N4, cháu Nguyễn Tuệ Minh A1, ông Nguyễn Trung N5 phải hoàn trả diện tích
đất theo kết quả đo đạc thực tế 1.183,7m
2
thuộc một phần thửa đất s2603, tờ bản đ
số 13 (8.AB) theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản
khác gắn liền với đất s 263552, svào sổ CT14687 do y ban nhân dân tỉnh B
cấp cho Công ty TNHH Một thành viên T10 ngày 02/6/2016 (có bản vẽ kèm theo).
2. Buộc Công ty TNHH Một thành viên T10 hoàn trả giá trị tài sản trên đất cho
các bị đơn cụ thể như sau:
2.1. Buộc Công ty TNHH Một thành viên T10 hoàn trả giá trị tài sản trên đất
cho ông Nguyễn Văn T với số tiền là 493.504.000 đồng.
2.2. Buộc Công ty TNHH Một thành viên T10 hoàn trả giá trị tài sản trên đất
cho bà Nguyễn Thị L với số tiền là 32.390.000 đồng
2.3. Buộc Công ty TNHH Một thành viên T10 hoàn trả giá trị tài sản trên đất
cho bà Nguyễn Thị Ngọc D với số tiền là 51.296.000 đồng.
2.4. Buộc Công ty TNHH Một thành viên T10 hoàn trả giá trị tài sản trên đất
cho ông Phạm Minh T6 với số tiền là 164.319.000 đồng.
3. Công ty TNHH Một thành viên T10 quyền quản , sử dụng toàn bộ tài
sản gắn liền trên đất gồm:
+ Nhà 01: Nhà riêng lẻ loại 01 tầng do ông Nguyễn Văn A đang quản lý, sử
dụng, y dựng m 2011. Nhà kết cấu: nền gạch men, tường gạch y sơn
nước, khung cột gạch, trần thạch cao, cửa sắt kéo, cửa kính khung sắt, cửa kính khung
nhôm, mái tole với diện tích 51,75m
2
.
+ Nhà 02: Nhà ở riêng lẻ loại 01 tầng có kết cấu: nền gạch men, tường gạch xây
sơn ớc, khung cột gạch, cột sắt tròn, kèo sắt hộp, mái tole, cửa sắt kéo diện
tích nhà 55,9 m
2
, nhà do Nguyễn Thị Thanh T4 đang quản lý, sử dụng, xây dựng
năm 2011.
+ Nhà 03: nhà tạm đang do Nguyễn Thị Thanh T4 quản lý, sử dụng được
xây dựng năm 2011. Nhà tạm kết cấu: nền láng vữa xi măng, cột sắt tròn, kèo sắt
hộp, mái tole, cửa sắt kéo, vách bằng tường gạch y tole của ông Nguyễn Văn A;
diện tích nhà tạm là 52,5m
2
.
+ Nhà 04: nhà do ông Nguyễn Văn T đang quản lý, sử dụng. Nhà được xây
dựng m 1989, được sửa chữa năm 2011. Nhà riêng lẻ loại 01 tầng kết cấu: nền
gạch men, tường gạch xây sơn ớc, khung cột gạch + tông cốt thép, trần thạch
cao, cửa kính khung nhôm cửa sắt kéo, trần thạch cao + cửa gỗ, cầu thang gỗ, mái tole,
gác bê tông diện tích 24m
2
; diện tích nhà 93m
2
.
+ Nhà 05: nhà tạm do ông Nguyễn Văn T quản lý, sử dụng, xây dựng m
2011. Nhà tạm kết cấu: nền gạch men, nền láng vữa xi măng, cột sắt tròn, kèo sắt
hộp, mái tole, tường xây tô; diện tích nhà 24,51m
2
.
16
+ Nhà 06: Nhà tạm do ông Nguyễn Văn T quản lý, sử dụng, y dựng năm
2011. Nhà tạm kết cấu: nền tông xi măng, cột sắt tròn, kèo sắt hộp gỗ tạp, mái
tole, sân láng vữa xi măng; diện tích nhà 28,06m
2
.
+ Nhà 07: Nhà do ông Nguyễn Văn T3 quản lý, sử dụng, y dựng năm 2011.
Nhà riêng lẻ loại 01 tầng kết cấu: nền gạch men, tường gạch xây sơn nước,
khung cột gạch, trần tole, thạch cao, cửa nhựa + cửa kính khung sắt, mái tole, cầu
thang bằng sắt; diện tích nhà 26,88m
2
, gác bê tông có diện tích 26,88m
2
.
+ Nhà 08: Nhà do ông Nguyễn Văn Đ quản lý, sử dụng, xây dựng năm 2011.
Nhà riêng lẻ loại 01 tầng kết cấu: nền gạch men, tường gạch xây sơn nước,
khung cột gạch, trần thạch cao, cửa kính khung nhôm + cửa kính khung sắt, mái tole,
gác bê tông, cầu thang bằng sắt; nhà có diện tích 30m
2
.
+ Nhà 09: Nhà nhà tạm do Phạm Thị Thanh N1 quản lý, sử dụng được
xây dựng năm 2010.
Nhà riêng lẻ loại 01 tầng kết cấu: nền gạch men, tường gạch xây tô, sơn
nước, khung cột gạch + tông cốt thép, trần thạch cao, cửa kính khung nhôm + cửa
kính khung sắt, cầu thang bằng sắt có diện tích 38m
2
.
Nhà tạm phía sau nhà N1 kết cấu: nền láng vữa xi măng, cột sắt thép, kèo
sắt hộp, tường gạch xây tô sơn nước, mái tole có diện tích 12,65m
2
.
Nhà tạm kết cấu: nền láng vữa xi măng, kèo sắt hộp, gỗ tạp, cột sắt tròn +
kèo sắt có diện tích 10m
2
.
+ Nhà 10: Trại gia cầm kết cấu: nền láng vữa xi măng, tường gạch xây lửng,
cột sắt tròn, kèo sắt hộp, mái tole, phía trong ới B40 + song sắt chia thành nhiều
chuồng có diện tích 130m
2
. Trại gia cầm đang do ông Nguyễn Văn T quản lý, sử dụng.
Nhà tạm phía trước trại gia cầm kết cấu: nền láng vữa xi măng, ờng gạch
xây lửng + bạt, cột sắt tròn, kèo sắt hộp, mái tole có diện tích 27m
2
.
Sân bê tông xi măng có diện tích 43,24m
2
.
Chuồng nuôi gia cầm kết cấu: nền láng vữa xi măng, cột gạch, tường gạch
xây phía sau bên trong, mái tole, cửa sắt có diện tích 64m
2
.
+ Nhà 11: Nhà ở riêng lẻ loại 01 tầng có kết cấu: nền gạch men, tường gạch y
sơn nước, khung cột gạch, trần thạch cao, cửa sắt kéo, cửa kính khung nhôm, mái
tole diện tích 66m
2
; nhà dùng để xe dạy học, nhà do ông Nguyễn Văn T quản
lý, sử dụng, xây dựng vào năm 1992.
Nhà vệ sinh biệt lập kết cấu: nền gạch men, tường gạch y (01 phần),
khung cột gạch, mái tole, cửa kính khung nhôm, bên trong ốp gạch men, lửng
diện tích 9,6m
2
.
+ Nhà 12: Nhà ở riêng lẻ loại 01 tầng có kết cấu: nền gạch men, tường gạch xây
sơn nước, khung cột gạch, tầng tole, cửa kính khung nhôm, cửa sắt kéo, mái tole,
nền sân tông xi măng, mái che tole diện tích 7,4m x 5,6m = 41,44m
2
. Cầu thang
sắt, gác tông diện tích 2,2m x 3,2m = 7,04m
2
; nhà do Nguyễn Thị L quản lý,
xây dựng vào năm 1992.
17
Nhà 12: Nhà riêng lẻ loại 01 tầng kết cấu: nền gạch men, tường gạch xây
sơn ớc, trần nhựa, cửa kính khung sắt, cửa sắt, mái tole diện tích 4,2m x 11m
= 46,2m
2
.
Nhà tạm kết cấu: nền tông xi măng, cột sắt tròn, kèo sắt hộp, mái tole
diện tích 2,7m x 4,2m; sân tông xi măng diện tích 01m x 5,5m = 5,5m
2
;
bàn
thiêng bằng gạch xây sơn nước chiều cao 1,3m; nhà do ông Nguyễn Văn T y
dựng vào năm 1991.
+ Nhà 13: Nhà 01 tầng kết cấu: nền gạch men, tường gạch y sơn
nước, khung cột gạch, cửa gỗ + cửa sắt, mái tole diện tích (7,8m x 04m) + (04m x
07m) = 59,2m
2
.
Sân bê tông xi măng có diện tích (7,6m x 3,5m) + (6,5m x 3,7m) = 50,65m
2
.
Nhà ở và sân do bà Nguyễn Thị Ngọc D quản lý, sử dụng và được xây dựng vào
năm 1992.
Nhà vệ sinh biệt lập kết cấu: nền gạch men, tường gạch y sơn nước,
phía trong ốp gạch men, khung cột gạch, cửa kính khung nhôm, mái tole diện
tích 3,4m x 2,5m = 8,5m
2
; sân bê tông xi măng có diện tích 1,7m x 2,5m = 4,25m
2
.
+ Nhà 14 có kết cấu: nền gạch men, ờng gạch y sơn ớc, phía trong
ốp gạch men lửng, khung cột gạch, trần tole, cửa kính khung nhôm, cửa sắt kéo, cửa
kính khung sắt, trần tole, mái tole diện tích gác 3,2m x 4,2m = 13,44m
2
; diện tích
nhà 13m x 4,2m = 54,6m
2
. Mái che phía trước, mái che tole, nền tông xi măng có
diện tích 4,2m x 2,7m = 11,34 m
2
; nhà đang do ông Phạm Minh T6 y dựng vào năm
2019 và quản lý, sử dụng từ năm 2019.
4. Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất “Hợp đồng mua
bán quyền sử dụng đất” năm 2018 giữa ông Hồ Văn T9, ông Hồ Văn T5, Nguyễn
Thị Ngọc D với bà Nguyễn Thị L, ông Phạm Minh T6 vô hiệu.
Buộc bà Nguyễn Thị Ngọc D, ông Hồ Văn T5 phải hoàn trả cho bà Nguyễn Thị
L, ông Phạm Minh T6 số tiền 933.600.000 đồng.
5. Tuyên bố Hợp đồng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất “Giấy
bán nhà” ngày 12/12/1992 giữa bà Hồ Thị Út N6 với ông Phạm Minh T6 vô hiệu.
Buộc Hồ Thị Út N6 phải hoàn trả cho ông Phạm Minh T6 số tiền
809.920.000 đồng.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, nghĩa vụ chậm trả, chi phí tố tụng,
quyền và nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo.
Sau khi xét xử thẩm, bị đơn ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Trung N5, bà
Nguyễn Thị Ngọc D, bà Đặng Thị Kim H4, bà Phạm Thị Ánh P, ông Phạm Minh T6,
Nguyễn Thị L, Trương Hàm Y, ông Nguyễn Văn Đ, bà Phạm Thị Thanh N1,
Nguyễn Thị Kim C, ông Nguyễn Văn A, ông Phạm Văn H2, ông Nguyễn n T3,
Phạm Thị Phương H7 và bà Nguyễn Thị Thanh T4 kháng cáo.
Ngày 17/4/2024, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh Bình
Dương có Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 05/QĐKNPT-VKS-DS kháng nghị đối
với bản án sơ thẩm nêu trên theo hướng sửa bản án sơ thẩm.
18
Tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của ông Nguyễn Văn T ông Huỳnh
Nguyễn Anh T2; người đại diện hợp pháp của ông Phạm Minh T6Nguyễn Thị L
Nguyễn Thị Kim N3 đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án thẩm do a án cấp
thẩm vi phạm tố tụng, điều tra thu thập chứng cứ chưa đầy đủ, tuyên án không
ràng xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Người đại diện hợp pháp của
nguyên đơn Công ty TNHH Một thành viên T10 ông Phạm Đình N vẫn giữ yêu cầu
khởi kiện.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương thay đổi nội dung kháng
nghị từ sửa bản án thẩm sang hủy bản án thẩm do Tòa án cấp thẩm đã vi
phạm tố tụng và điều tra thu thập chứng cứ chưa đầy đủ.
Các đương sự không tự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương phát biểu quan điểm:
- Về tố tụng: Những người tiến nh tố tụng tham gia tố tụng đã thực hiện
đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.
- Về nội dung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết giao dịch chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Hồ Văn T9, ông Hồ Văn T5, bà Nguyễn Thị Ngọc
D với Nguyễn Thị L, ông Phạm Minh T6; giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng
đất giữa Hồ Thị Út N6 với ông Phạm Minh T6 nhưng Tòa án lại tuyên các giao
dịch y hiệu giải quyết hậu quả của hợp đồng hiệu vi phạm quyền quyết
định và tự định đoạt của đương sự quy định tại Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Trước năm 2016, phần đất tranh chấp chưa được cấp cho nguyên đơn, Tòa án
cấp thẩm chỉ căn cứ vào việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuê các
văn bản cho bị đơn ợn đất cất nhà, các văn bản cam kết tháo dỡ ncủa bị đơn để
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn mà không xem t phần đất tranh chấp
trước năm 2016 không được cấp cho nguyên đơn, đất tranh chấp phải đất công
hay đất của dân? Nếu đất công hay đất dân thì việc thỏa thuận cho mượn đất cất nhà
cam kết tháo dcông trình của bị đơn sẽ không hiệu lực? Theo đồ đất năm
1990 thì phía Đông của nghiệp T13 không đất của nguyên đơn nhưng nguyên
đơn cho bị đơn mượn đất để y nhà trong khi văn bản cho mượn đất thể hiện phần
đất cho mượn tại vị trí phía Tây của Xí nghiệp T13?
Từ đó, kháng cáo của bị đơn đề nghị hủy toàn bộ bản án thẩm căn cứ;
kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương về
sửa bản án thẩm theo hướng tính công sức cho bị đơn ông T căn cứ chấp nhận
một phần. Quan điểm của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương thay đổi một phần
kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương từ
đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm sang đề nghị hủy toàn bộ bản án dân
sự thẩm nêu trên. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử hủy toàn bộ bản án dân sự
thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm để xét xử lại theo quy định.
Sau khi nghiên cứu tài liệu chứng cứ trong hồ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, lời trình bày của các đương sự, ý
kiến của Kiểm sát viên,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
19
[1] Các bị đơn (trừ ông Nguyễn Văn T, Nguyễn Thị L, ông Phạm Minh T6,
Nguyễn Thị Cẩm V); người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan y ban nhân dân tỉnh
B, Ngân hàng Thương mại Cổ phần S, Hội H9 và bà Hồ Thị Út N6 có đơn yêu cầu giải
quyết vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự trên
theo quy định tại Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát thay đổi nội dung kháng nghị từ sửa
bản án thẩm sang hủy bản án thẩm. Việc thay đổi nội dung kháng nghị của Viện
Kiểm sát là phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 284 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Công ty T10 khởi kiện yêu cầu buộc các bị đơn phải tự di dời toàn bộ tài sản
đang trên diện tích đất tranh chấp theo kết quả đo đạc thực tế 1.183,7m
2
thuộc
một phần thửa đất số 2603, tờ bản đồ số 13 (8.AB) theo Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền shữu nhà tài sản khác gắn liền trên đất số 263552, số o
sổ CT14687 do Ủy ban nhân dân tỉnh B cấp cho Công ty T10 ngày 02/6/2016 để trả lại
đất cho Công ty T10. Công ty T10 không đồng ý hỗ trợ kinh phí di dời, không đồng ý
chi trả giá trị tài sản trên đất đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết các giao dịch liên
quan đến quyền sử dụng đất hiện đang tranh cấp.
[4] Bị đơn ông T cho rằng quyền sử dụng đất tranh chấp của ông T mua của
ông Đ2, T8 cung cấp chứng cứ Đơn xin can thiệp cất nhà ngày 22/02/1990.
Quá trình quản lý, sử dụng đất, m 1992, ông T cho D (em dâu ông T) ông Hồ
Văn T9 một phần đất để xây dựng nhà ở, D ông T9 đã chuyển nhượng một phần
cho ông Phạm Minh T6; ông T cho Hồ Thị Út N6 (em gái ông T) một phần đất cất
nhà để ở. Sau đó, Út N6 chuyển nhượng lại cho Nguyễn Thị L. Ông T cho rằng,
ông T quản lý, sử dụng đất từ năm năm 1990 đến nay, quá trình ông T quản lý, sử
dụng đất không đăng ký, khai đối với đất tranh chấp nên ông T không đồng ý với
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
[5] Bị đơn Nguyễn Ngọc D ông Hồ n T5 cho rằng D em dâu ông
T. Năm 1992, bà D chồng là ông Hồ Văn T9 được ông T cho một phần diện tích đất
khoảng 418m
2
để cất nhà. Đến năm 2018, D chuyển nhượng cho ông Phạm Minh
T6 Nguyễn Thị L phần diện tích đất 4,1m x 14m với giá 260.000.000 đồng, ông
T6 L đã nhận đất, cất nhà. Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì D,
ông T5 thống nhất theo trình y của ông T. D, ông T5 không yêu cầu Tòa án giải
quyết hợp đồng giữa vợ chồng bà D vớiL, ông T6.
[6] Bị đơnNguyễn Thị L, ông Phạm Minh T6 Nguyễn Thị Cẩm V cho
rằng ngày 12/12/1992, L chồng L nhận chuyển nhượng của Hồ Thị Út
N6 một phần diện tích đất, nguồn gốc đất là bà Út N6 được ông T cho. Đến năm 2018,
bà L ông T6 nhận chuyển nhượng của D và ông T5 phần đất có diện tích 4,1m x
14m với giá 260.000.000 đồng, đã giao đủ tiền nhận đất, cất nhà. Ngoài ra, L đã
trả cho ông T số tiền 10.000.000 đồng để làm đường đi từ đất ra đường công cộng. Đối
với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì L, ông T6V không đồng ý đất là
do L, ông T6 mua từ Út N6, vợ chồng D. Trường hợp Tòa án chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn thì đề nghị xem xét việc hỗ trợ bồi thường tài sản trên
đất công sức giữ gìn đất xem xét các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất của bà L, ông T6 đã ký kết với bà N6, bà D, ông T9.
[7] Những bị đơn còn lại gồm Đặng Thị Kim H4, ông Nguyễn Văn T3, ông
Nguyễn Văn A, ông Nguyễn Văn Đ, ông Nguyễn Trung N5, bà Nguyễn Thị Kim C, bà
20
Nguyễn Thị Thanh T4, Trương Hàm Y, Ngọc Thảo N2, Phạm Thị Thanh
N1, Phạm Thị Ánh P, Thị Phương H3, ông Phạm Văn H2 vợ, con cháu
ông T thống nhất theo phần trình bày của ông T.
[8] Xét, kháng cáo của các bị đơn về tố tố tụng, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[8.1] Theo đơn khởi kiện ngày 12/6/2023, Công ty T10 khởi kiện yêu cầu bị
đơn phải tự di dời toàn bộ tài sản đang có trên diện tích đất tranh chấp khoảng 1.000m
2
thuộc một phần thửa đất số 2603, tờ bản đồ số 13 (8.AB) theo Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền trên đất số 263552, số
vào sổ CT14687 do Ủy ban nhân n tỉnh B cấp cho Công ty T10 ngày 02/6/2016 để
trả lại đất cho Công ty T10. Sau khi Tòa án cấp thẩm tiến hành xem xét, thẩm định
tại chỗ thể hiện ngoài ông T cùng gia đình ông T còn gia đình L gồm L, ông
T6 V; gia đình D, các con của ông T trên phần đất. Do đó, Công ty Vương
Bảo L2 khởi kiện bổ sung các người ở trên đất trong đó có bà L, ông T6 và bà V, bà D,
các con, cháu của ông T di dời tài sản trả lại diện tích đất Công ty T10 đã được
công nhận quyền sử dụng đất; L, ông T6 quản lý, sử dụng đất trên sở giao dịch
mua bán, chuyển nhượng. Đồng thời, theo chứng cứ tại hồ , Biên bản hòa giải
ngày 28/3/2023 của y ban nhân dân phường B, thành phố D, tỉnh Bình Dương. Đồng
thời, đối với thửa đất số 2603 Công ty T10 đã được công nhận quyền sử dụng đất
đã được hòa giải sở theo quy định tại Điều 202 của Luật Đất đai năm 2014 nên
người đại diện hợp pháp của L, ông T6 cho rằng chưa đủ điều kiện khởi kiện đối
với các bị đơn còn lại là không có căn cứ.
[8.2] Nguyên đơn Công ty T10 khởi kiện yêu cầu buộc những người trên đất
bao gồm cả L, ông T6 phải hoàn trả đất cho Công ty T10. L, ông T6 quản lý, sử
dụng đất trên sở giao dịch mua bán, chuyển nhượng với Út N6, vợ chồng D.
Công ty Vương Bảo L2 không đơn khởi kiện yêu cầu tuyên hủy hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giải quyết hậu quả của hợp đồng giữa ông Hồ n T9,
ông Hồ Văn T5, Nguyễn Thị Ngọc D với bà L hợp đồng chuyển nhượng giữa
Hồ Thị Út N6 với ông Phạm Minh T6 nhưng Tòa án cấp thẩm tuyên các giao dịch
này vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu là giải quyết vượt quá yêu cầu
cầu khởi kiện của đương sự, vi phạm quyền quyết định tự định đoạt của đương sự
quy định tại Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[8.3] Đối với việc tống đạt văn bản ttụng của Tòa án cấp thẩm cho L,
ông T6 V. Theo hồ thể hiện, trước khi nguyên đơn đơn khởi kiện bổ sung
các bị đơn trong đó L, ông T6 V thì Tòa án cấp thẩm có tiến hành lấy
lời khai L, ông T6 và bà V vớicáchngười có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
các ông, đều đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Sau khi nguyên đơn khởi kiện bổ
sung đối với bị đơn bà L, ông T6 và bà V, Tòa án cấp sơ thẩm đã lấy lời khai bà L, ông
T6 V với cách bị đơn theo nội dung lấy lời khai thể hiện các ông, nhận
được thông báo thụ vụ án bổ sung. Tuy nhiên, theo hồ thể hiện, Tòa án cấp
thẩm không tống đạt thông báo phiên họp, các giấy triệu tập để tham gia xem xét thẩm
định tại chỗ, định giá quyết định xét xử cho L, ông T6 V cũng như các
đương sự đã đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt vi phạm về tống đạt văn bản tố
tụng cho đương sự.
[9] Xét kháng cáo của bị đơn về nội dung, Hội đồng xét xử nhận thấy:
21
[9.1] Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản
khác gắn liền với đất svào sổ CT14687 do Ủy ban nhân dân tỉnh B cấp cho Công ty
Vương Bảo L2 tthửa đất số 2603, tờ bản đồ số 13 (8.AB) diện tích 86.756,6m
2
tọa lạc tại khu phố B, phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương thì phần đất nguyên
đơn xác định tranh chấp thể hiện tứ cận ớng Đông giáp đất dân, hướng y giáp
Công ty T12. Tuy nhiên, theo Bản đồ phục vụ giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất
ngày 03/10/2023 thể hiện tứ cận phần đất tranh chấp có hướng Đông giáp Công ty T12
và hướng Tây giáp đất dân.
Đồng thời, tại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên thể hiện thửa đất số
2603 hợp từ thửa đất số 1420, 1813, 1814, 1815, 1816, 1842, tờ bản đồ số 08.AB,
BĐĐC 2004; Công văn số 382/VPĐKĐĐ ngày 25/01/2024 của Văn phòng Đăng
đất đai tỉnh B thể hiện khu đất tranh chấp thuộc thửa đất số 1813, 1814, 1815, 1816,
1817, 1842, tờ bản đsố 08.AB; theo Biên bản xác minh cán bộ địa chính phường A
thể hiện theo bản đồ địa chính năm 2004 thì khu đất tranh chấp số thửa đất 1813,
1814, 1815, 1817, 1842, tờ bản đsố 23 (08.AB-8), theo sổ mục đất đai năm 2004
tại các thửa đất tranh chấp số 1813, 1814, 1815, 1816, 1817, 1842, tờ bản đồ số
08.AB, người tên tại số mục ông Hồ Văn T9 (thửa đất số 1813, 1814),
Nguyễn Thị D2 (thửa đất số 1815), ông Phạm Minh T6 (thửa đất số 1816), ông
Nguyễn Văn T (thửa thửa đất số 1817 số 1842); theo bản trích lục lồng ghép
phạm vi ga A (có đo vẽ bổ sung) tại t lục 62 thể hiện phần tranh chấp theo như
nguyên đơn xác định gồm các thửa đất số 1813, 1814, 1815, 1816, 1842, đất tranh
chấp có hướng Đông giáp đất dân và hướng Tây giáp Công ty T12.
Như vậy, sự mâu thuẫn giữa giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đ
giải quyết tranh chấp cũng như đồ bản vẽ cấp đất trong hồ của Công ty T10
nhưng Tòa án cấp thẩm chưa làm rõ. Căn cứ vào kết quả trên thì sở xác định,
thửa đất số 1817, tờ bản đồ số 08.AB, BĐĐC 2004 không thuộc thửa đất số 2603, tờ
bản đồ số 13 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho Công ty T10. Theo
Bản đồ phục vụ giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất ngày 03/10/2023 thể hiện
phần đất tranh chấp một phần thửa đất số 2603. Như vậy, tổng thể thửa đất số 2603
diện tích là bao nhiêu, Tòa án cấp sơ thẩm không tiến hành đo đạc tổng thể toàn bộ đất
thửa đất để căn cứ xác định tổng diện tích đất cho đối chiếu kết quả đo đạc với
bản đồ địa chính cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để xác định diện tích tranh
chấp thuộc toàn bộ đất của Công ty T10 hay không, làm thửa đất số 1817
thuộc phần tranh chấp hay không hay thuộc phần nào của giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất của Công ty T10.
[9.2] Đối chiếu kết quả đo đạc tại Bản đồ phục vụ giải quyết tranh chấp quyền
sử dụng đất ngày 03/10/2023 với kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ đo đạc ngày
02/8/2023; kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ đo đạc bổ sung ngày 07/9/2023
phần tài sản tuyên giao cho Công ty Vương Bảo L2 tại quyết định của bản án thẩm
hoàn toàn khác nhau, không trùng khớp, không xác định được diện tích thực tế của
những người đang quản lý, sử dụng đất (theo quyết định của bản án thẩm tuyên với
đồ m theo). Đồng thời, Tòa án cấp thẩm xem xét, thẩm định giải quyết thiếu
tài sản, tất cả đã được Tòa án cấp phúc thẩm ghi nhận tại Biên bản xem xét, thẩm định
tại chỗ ngày 02/8/2024. Tài sản trên đất bao gồm tài sản của ông A, ông T3, ông Đ,
T4 nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại tuyên giao toàn bộ giá trị tài sản cho ông T. Vi phạm
này, Tòa án cấp phúc thẩm không khắc phục được không đảm bảo việc thi hành án
22
cũng như bảo đảm chế độ xét xử 02 cấp quy định tại Điều 17 của Bộ luật Tố tụng dân
sự.
[9.3] Tòa án cấp thẩm xác định diện tích chuyển nhượng giữa gia đình D
với L, ông T6 theo giấy hợp đồng chuyển nhượng 57,4m
2
; hợp đồng giữa N6
với ông T6 49,4m
2
. Tuy nhiên, theo kết quả đo đạc thực tế tại Bản đồ phục vụ giải
quyết tranh chấp quyền sử dụng đất ngày 03/10/2023 với kết quả xem sét, thẩm định
tại chỗ không trùng khớp, không căn cxác định được diện tích L, ông T6
đang quản lý, sử dụng bao nhiêu (nhiều hay ít hơn diện tích theo hợp đồng chuyển
nhượng) nhưng Tòa án cấp thẩm căn cứ vào diện tích theo giấy tay để đánh giá
không đảm bảo quyền lợi của đương sự trong trường hợp các đương sự có yêu cầu giải
quyết về hợp đồng trên.
[9.4] Về nguồn gốc đất: Tại Công văn số 470/STNMT-CCQLĐĐ ngày
03/02/2015 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B thể hiện: khu đấtCông ty T10
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nguồn gốc do các hộ gia đình người
Hoa thuộc Hội quán H9, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh mua trước giải phóng (năm
1975) để làm nghĩa trang chôn cất người thân của họ sau khi chết.
Ngày 28/02/1990, y ban nhân dân tỉnh S (nay y ban nhân dân tỉnh B) ban
hành Quyết định số 41/QĐ-UB vviệc giao đất cho Nghĩa trang B1 với diện tích
183.950m
2
.
Ngày 18/3/2002, y ban nhân dân tỉnh B Quyết định số 2510/QĐ-CT thu
hồi Quyết định số 41/QĐ-UB ngày 28/02/1990 để điều chỉnh nội dung của quyết định
cho phù hợp với nguồn gốc sử dụng đất (không phải đất Nhà nước giao như đã nêu tại
Quyết định số 41/QĐ - UB đất Nhà nước công nhận) quy hoạch sử dụng đất,
cụ thể như sau:
+ Hợp thức hóa phê duyệt cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Hội
quán H9 với diện tích 94.758,6m² đất nghĩa trang.
+ Phần diện tích còn lại 89.964,4m
2
(theo số liệu đo đạc thực tế năm 2002) giao
cho B quản trị Hội quán H9 trách nhiệm lập phương án chuyển đổi mục đích sử
dụng đất để được giao, được thuê theo quy định hiện hành.
Ngày 18/3/2022, Hội quán Chùa B1 được cấp giấy chứng nhận đối với diện tích
94.758,6m
2
đất nghĩa trang, diện tích đất còn lại 89.964,4m
2
thì đến ngày 02/6/2016
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nguyên đơn với hình thức thuê.
Theo Quyết định số 41/QĐ-UB ngày 28/02/1990 về việc giao đất cho Nghĩa
trang B1: Xác nhận khu đất nghĩa trang B1 theo trích lục địa bộ kèm theo 24 ha
(hai mươi bốn ha) tọa lạc tại A, huyện T, Sông B. Trong đó đường sắt 5 sử dụng
17.620m
2
, nghiệp T13 sử dụng 18.320m
2
, còn lại Nghĩa trang B1 sử dụng
183.950m
2
”. Theo đồ hiện trạng khu đất Nghĩa địa H được y ban nhân dân tỉnh S
(nay y ban nhân dân tỉnh B) ngày 28/02/1990 (cùng ngày cùng Chủ tịch
Trần Ngọc K2 ký trên Quyết định số 41/QĐ-UB ngày 28/02/1990) thể hiện: phía Đông
của Công ty T12 42 giáp với “dân cư”, không giáp với đất của Nghĩa trang B1. Theo
bản trích lục lồng ghép phạm vi ga A (có đo vẽ bổ sung) tại bút lục số 62 phần phía
Đông Công ty T12 42 phần đất hiện đang tranh chấp nhưng theo đồ bản vtranh
chấp thể hiện thuộc phía Tây Công ty T12.
23
Đến năm 2016, Ủy ban nhân dân tỉnh B mới giao cho nguyên đơn với hình thức
thuê, trong đó phần đất tranh chấp. Như vậy, trước thời điểm năm 2016 phần đất
tranh chấp chưa được cấp cho nguyên đơn. Theo Bản cam kết mượn đất y nhà ngày
10/6/1990 đã xác định vị trí phần đất cho mượn “diện tích từ phía bên trái Nghĩa trang
B1, chiều ngang từ gốc nhà quan Thủy Lợi 42 đến cây cột địa giới 12m, chiều dài
từ đường cái lùi sau 75m”. Diện tích cho ợn nằm bên trái Công ty T12 42 nhưng
phần đất tranh chấp nằm bên phải của Công ty T12. Phần đất tranh chấp y giáp trực
tiếp với Xí nghiệp T13 (nay là Công ty T12) và giáp với phần đất công, đất mộ có diện
tích 1.356,7m
2
. Như vậy, đất tranh chấp thuộc trong số diện tích 183.950m
2
mà Hội
quán H9 được giao đất theo Quyết định số 41/QĐ-UB ngày 28/02/1990 hay thuộc
phần đất Công ty T12 42 hoặc đất dân, thuộc đất công hay không thì điều y chưa
được Tòa án cấp sơ thẩm xác minh làm rõ.
[10] Từ những phân ch trên, xét thấy Tòa án cấp thẩm thu thập chứng cứ
chưa đầy đủ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự vi phạm nghiêm trọng về
thủ tục tố tụng nên Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án thẩm. Do đó, kháng cáo của
đương sự và kháng nghị của Viện Kiểm sát là có căn cứ chấp nhận.
[11] Đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tại phiên
tòa là phù hợp.
[12] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do hủy bản án thẩm nên người kháng cáo
không phải chịu.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ Điều 148; khoản 3 Điều 308; Điều 310, Điều 313 Bộ luật Tố tụng dân
sự.
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của y ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng
án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận kháng o của bị đơn ông Nguyễn Văn T, Nguyễn Thị Thanh
T4, Trương Hàm Y, ông Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Thị Kim C, bà Phạm Thị
Thanh N1, ông Nguyễn Văn A, ông Phạm Văn H2, ông Nguyễn Văn T3, Thị
Phương H3, Nguyễn Thị L, ông Phạm Minh T6, Phạm Thị Ánh P, Đặng Thị
Kim H4, bà Nguyễn Thị Ngọc D, ông Nguyễn Trung N5.
2. Chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 05/QĐKNPT-VKS-DS ngày
17/4/2024 của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương.
3. Hủy Bản án dân sự thẩm số 104/2024/DS-ST ngày 03 tháng 4 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương.
Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương giải
quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
3. Về án phí dân sự phúc thẩm: bị đơn ông Nguyễn Văn T, Nguyễn Thị
Thanh T4, Trương m Y, ông Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Thị Kim C, Phạm
Thị Thanh N1, ông Nguyễn Văn A, ông Phạm Văn H2, ông Nguyễn Văn T3,
Thị Phương H3, Nguyễn Thị L, ông Phạm Minh T6, Phm Thị Ánh P, Đặng
Thị Kim H4, bà Nguyễn Thị Ngọc D, ông Nguyễn Trung N5 không phải chịu.
24
Hoàn trả cho bị đơn Nguyễn Thị Thanh T4, Trương Hàm Y, ông Nguyễn
Văn Đ, bà Nguyễn Thị Kim C, bà Phạm Thị Thanh N1, ông Nguyễn Văn A, ông Phạm
Văn H2, ông Nguyễn Văn T3, Thị Phương H3, ông Phạm Minh T6, Phạm
Thị Ánh P, ông Nguyễn Trung N5 số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng
án phí đã nộp theo các Biên lai thu tm ng án phí, l phí Tòa án số 0002882,
0002873, 0002884 (do Nguyễn ThKim C nộp thay), 0002883, 0002871, 0002870,
0002872, 0002868, 0002869, 0002881 cùng ngày 26 tháng 4 năm 2024 Biên lai thu
tm ng án phí, l phí Tòa án số 0002862, 0002861 ngày 25 tháng 4 năm 2024 của Chi
cục Thi hành án dân sự thành phố D, tỉnh Bình Dương.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- Chi cục THADS thành ph D;
- TAND thành ph D;
- Các đương sự;
- Lưu: HCTP, HSVA, Tòa Dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Đinh Thị Mộng Tuyết
Tải về
Bản án số 437/2024/DS-PT Bản án số 437/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 437/2024/DS-PT Bản án số 437/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất