Bản án số 437/2020/HS-PT ngày 07/09/2020 của TAND TP. Hồ Chí Minh về tội trốn thuế

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 437/2020/HS-PT

Tên Bản án: Bản án số 437/2020/HS-PT ngày 07/09/2020 của TAND TP. Hồ Chí Minh về tội trốn thuế
Tội danh: 161.Tội trốn thuế (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Hồ Chí Minh
Số hiệu: 437/2020/HS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 07/09/2020
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 437/2020/HS-PT
Ngày: 07-9-2020
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Bích Vân
Các Thẩm phán: 1/ Bà Nguyễn Hoàng Anh
2/ Bà Nguyễn Huỳnh Mai Tâm Quyên
- Thư phiên tòa: Ông Trần Trung Hiếu - Thư Tòa án nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia
phiên tòa: Bà Đỗ Thị Thu Hoàn - Kiểm sát viên.
Ngày 07 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh, xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ số: 172/2020/TLPT-HS,
ngày 10/4/2020 đối với bị cáo Trần Công D do kháng cáo của bị cáo Trần
Công D đối với Bản án hình sự thẩm số 25/2020/HS-ST ngày 02/3/2020 của
Tòa án nhân dân Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị cáo có kháng cáo:
Trần Công D (Tên gọi khác: không); giới tính: nam; sinh năm: 1981, tại
tỉnh Thừa Thiên-Huế; thường trú: Căn hộ số A12, Tầng 12, Khối A, Chung
PLT, Số 35 đường LVC, khu phố 3, phường LT, quận Z, Thành phố Hồ Chí
Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn:
7/12; nghề nghiệp: Giám đốc Công ty TNHH một thành viên thương mại dịch
vụ vận tải DTĐ; con ông Trần Công T - sinh năm 1949 Mai Thị T - sinh
năm 1948; Bị cáo vtên Hồ Thị Lệ H - sinh năm 1995 02 con (con lớn
sinh năm 2013 và con nhỏ sinh năm 2018); tiền sự: không; tiền án: không.
Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 30/10/2018 đến ngày 12/12/2018 được thay
thế bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”.
Bị cáo tại ngoại (Có mặt tại phiên tòa)
2
- Bị cáo (không kháng cáo không bị kháng nghị): Nguyễn Hữu V,
sinh ngày 21/10/1982 tại Nội; thường trú: Số 1112 Xa lộ Nội, Tổ 4, Khu
phố 5, phường LT, quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị hại (không kháng cáo và không bị kháng nghị): Chi cục Thuế Quận
9, Thành phố Hồ Chí Minh; địa chỉ: 25B LVV, Phường HP, Quận X, Thành phố
Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu trong hồ ván diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Công ty Trách nhiệm hữu hạn - Một thành viên - Thương mại - Dịch vụ -
Vận tải DTĐ (Viết tắt: Công ty DTĐ), địa chỉ số 149/0, HT, khu phố Thái Bình
2, phường LB Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh do Trần Công D m giám đốc
đại diện theo pháp luật. Từ tháng 3/2016 đến tháng 10/2016, Trần Công D đã
liên hệ với Nguyễn Hữu V giám đốc đại diện theo pháp luật của Công ty
trách nhiệm hữu hạn Vận tải DB (Viết tắt: Công ty DB) hỏi mua hóa đơn giá trị
gia tăng để nhằm mục đích khấu trthuế (trốn thuế). Nguyễn Hữu V không
hóa đơn nên giới thiệu cho Trần Công D mua hóa đơn của Công ty Trách nhiệm
hữu hạn NNL do Bùi Thanh Sơn làm giám đốc đại diện theo pháp luật, địa chỉ:
30 đường CL, Phường T, quận V, Thành phố Hồ Chí Minh của một người tên T
(không lai lịch) thỏa thuận về chi phí, T đồng ý cung cấp bán hóa đơn với
chi phí mỗi tờ hóa đơn xuất ra sẽ được tính với tl3% trên tổng giá trị hàng
hóa ghi trên hóa đơn, T strích 0,5% hoa hồng tiền công môi giới cho V. Sau
khi thỏa thuận, T cho người mang 04 hóa đơn số 0000633; 0000651; 0000813
hóa đơn số 0000831 với giá trị hàng hóa ghi trong hóa đơn với số tiền
1.000.000.000 đồng qua Công ty DB của V đgiao cho Trần Công D, T trả cho
V 5.000.000 đồng tiền công môi giới. Đến ngày 07/8/2017, Nguyễn Hữu V cho
nhân viên của mình Phạm Minh T đến Công ty DTĐ lấy chứng từ ủy nhiệm
chi về Công ty DB, sau đó V đưa cho Phạm Minh T số tiền 1.470.000.000 đồng
để T đi chuyển khoản hợp thức hóa cho các giao dịch mua các tờ hóa đơn số
0000321; 0000811; 0000876 hóa đơn số 0001244 với số tiền 1.470.000.000
đồng thông qua các số tài khoản: 102010002426617 của Công ty NNL stài
khoản 070817.Y020.0131 của Công ty DTĐ. Sau khi chuyển khoản, V được T
(Công ty NNL) trả công với số tiền 4.200.000 đồng. Trong m 2016, D tiếp
tục liên hệ với T mua thêm 10 tờ hóa đơn giá trị gia tăng khác. Trần Công D đã
mua tổng số 18 hóa đơn giá trị gia tăng cụ thể như sau:
3
+ Hóa đơn NL/15P-0000439 ngày 02/3/2016;
+ Hóa đơn NL/15P-000046 ngày 03/3/2016;
+ Hóa đơn NL15P-0000495 ngày 11/3/2016;
+ Hóa đơn NL15P-0000537 ngày 18/3/2016;
+ Hóa đơn NL/15P-0000633 ngày 31/3/2016;
+ Hóa đơn NL/15P-0000651 ngày 01/4/2016;
+ Hóa đơn NL/15P-0000813 ngày 26/4/2016;
+ Hóa đơn NL/15P-0000831 ngày 28/4/2016;
+ Hóa đơn NL/15P-0000909 ngày 11/5/2016;
+ Hóa đơn NL/15P-0000944 ngày 18/05/2016;
+ Hóa đơn NL/16P-000053 ngày 30/5/2016;
+ Hóa đơn NL/16P-0000236 ngày 16/6/2016;
+ Hóa đơn NL/16P-0000321 ngày 25/6/2016;
+ Hóa đơn NL/16P-0000811 ngày 30/8/2016;
+ Hóa đơn NL/16P-0000876 ngày 08/9/2016;
+ Hóa đơn NL/16-0000994 ngày 28/9/2016;
+ Hóa đơn NL/16P-0001244 ngày 24/10/2016;
+ Hóa đơn NL/16P-0001329 ngày 31/10/2016.
Tổng số tiền hàng hóa dịch vụ ghi trong 18 thóa đơn 18.371.262.635
đồng với nội dung ghi chi phí vận chuyển nhằm mục đích hợp thức hóa chi phí
và khấu trừ thuế. Tuy nhiên, trên thực tế Công ty NNL không thực hiện việc vận
chuyển hàng hóa cho Công ty DTĐ.
Sau khi nhận được hóa đơn, D đã chuyển cho kế toán sử dụng để kê khai
chi phí đầu vào và báo cáo thuế cho Công ty DTĐ vào các tháng 3/2016, 4/2016,
5/2016, 6/2016, 8/2016, 9/2016 10/2016 tại Chi cục thuế Quận 9, Thành phố
Hồ Chí Minh.
Ngày 16/01/2018, quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 9 đã ra Quyết
định trưng cầu giám định tư pháp về thuế để tiến hành giám định thuế đối với vụ
việc trên. Theo Kết luận giám định pháp vgiám định pháp trong lĩnh vực
thuế ngày 10/5/2018 và Điều chỉnh kết luận giám định pháp ngày 05/11/2018
cùng của các giám định viên Đào Thị Thu Hương, giám định viên Trương Ngọc
Hải thì: Hành vi sử dụng 18 số hóa đơn GTGT đầu vào bất hợp pháp để
khai thuế GTGT đầu vào được khấu trừ, khai chi phí được trừ khi c định
thu nhập chịu thuế TNDNm 2016 của Công ty DTĐ theo như kết quả điều tra
của quan trưng cầu giám định hành vi trốn thuế với tổng số tiền trốn thuế
4
GTGT, thuế TNDN 5.489.783.673 đồng, bao gồm: - Tiền trốn thuế GTGT:
1.815.510.946 đồng; - Tiền trốn thuế TNDN: 3.674.272.727 đồng”.
Ngày 31/5/2019, quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 9 yêu cầu
giám định viên giải thích kết quả giám định về thuế đối với 08 thóa đơn số
0000633; 0000651; 0000813; 0000831; 0000321; 0000811; 0000876 và hóa đơn
số 0001244 để xác định số thuế bị thiệt hại. Ngày 03/7/2019, các Giám định
viên pháp về thuế Đào Thị Thu Hương Trương Ngọc Hải Kết luận
giám định pháp về giám định pháp trong lãnh vực thuế kết luận: “Hành vi
sử dụng 08 số hóa đơn (Đính kèm tại phụ lục 01) Nguyễn Hữu V thừa nhận
môi giới cho Trần Công D mua bán trái phép nhằm mục đích trốn thuế, để
khai thuế GTGT đầu vào được khấu trừ, khai chi phí được trừ khi xác định
thu nhập chịu thuế TNDNm 2016 của Công ty DTĐ theo như kết quả điều tra
của quan trưng cầu giám định hành vi trốn thuế với tổng số tiền trốn thuế
GTGT, thuế TNDN 673.636.365 đồng, bao gồm: - Tiền trốn thuế GTGT:
224.545.456 đồng; - Tiền trốn thuế TNDN: 449.090.909 đồng”.
Đối với Phạm Minh T nhân viên Công ty DB do Nguyễn Hữu V m
Giám đốc ttháng 6/2017, T khai nhận không biết vviệc thỏa thuận mua
hóa đơn giá trị gia tăng giữa Trần Công D Nguyễn Hữu V. Việc T đi chuyển
tiền hợp thức hóa việc thanh toán cho các hợp đồng giao dịch giữa Công ty DTĐ
với Công ty NNL vào ngày 07/8/2017, T thực hiện theo sự chỉ đạo của Nguyễn
Hữu V nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 9 không xử lý.
Ngày 10/10/2018, quan cảnh sát điều tra Công an Quận 9 ra Quyết
định khởi tố vụ án hình sự trốn thuế xảy ra từ tháng 3 đến tháng 10 năm 2016 tại
Công ty Trách nhiệm hữu hạn - Một thành viên - Thương mại - Dịch vụ - Vận
tải DTĐ và Quyết định khởi tố bị can đối với Trần Công D và Nguyễn Hữu V về
Tội Trốn thuế.
Đối với Công ty NNL được đăng lần đầu vào ngày 15/7/2014, do Từ
Huệ Phương chủ sở hữu. Tháng 12/2015, Từ Huệ Phương chuyển nhượng
lại Công ty cho Bùi Thanh Sơn thông qua Nguyễn Đức Hải. Nguyễn Đức Hải
cho biết bản thân Hải là kế toán dịch vụ, đồng thời làm dịch vụ thành lập công ty
cho người nào nhu cầu, Hải không biết vhoạt động kinh doanh của Công ty
NNL.
Làm việc với Bùi Thanh Sơn được biết, vào năm 2010 Sơn bị mất giấy tờ
tùy thân trong đó Chứng minh nhân dân số 024786428 cấp ngày 17/8/2007,
sau đó Sơn đã xin cấp lại giấy chứng minh nhân dân mới, Sơn không đứng ra
sang nhượng hay thành lập cũng như đứng tên giám đốc điều hành hoạt động
kinh doanh của Công ty NNL nên không đủ cơ sở xử lý.
Về dân sự: Chi cục thuế Quận 9 Thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu Công ty
DTĐ khắc phục số tiền thuế bthiệt hại với tổng số tiền 5.489.783.673 đồng.
Trong quá trình điều tra chuẩn bị xét xử, Trần Công D đã nộp lại 200.000.000
5
đồng để khắc phục thiệt hại về thuế theo các Phiếu thu ngày 13/12/2018 (BL:
266), Phiếu thu ngày 03/4/2019 (BL: 268) cùng của Công an Quận 9 và Biên lai
thu tiền số 9288 ngày 24/02/2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự Quận 9.
Tại Bản án hình sự thẩm số 25/2020/HS-ST ngày 02/3/2020 của Tòa án
nhân dân Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
- n cứ Điu 200 Bộ luật Hình sự m 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tuyên bố các bị o Trần Công D, Nguyễn Hữu V phạm Tội trốn thuế.
- Áp dụng Khoản 3 Điều 200, điểm s Khoản 1 Khoản 2 Điều 51, Điều 17
Điều 58 của Bộ luật nh sự m 2015 sửa đổi bổ sung m 2017. Xử phạt:
Trần Công D 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng . Thời hạn nh từ ngày bắt chấp
nh nh phạt tù được trừ đi thời gian đã tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/10/2018
đến ngày 14/12/2018;
Áp dụng điểm b Khoản 2 Điều 200, c điểm i s Khoản 1 Điều 51, Điều
17 và Điều 58, Điều 65 của Bộ luật nh sự m 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.
X phạt: Nguyễn Hữu V 01 (Một) năm nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử
thách 02 (Hai) m tính từ ngày tuyên án. (Nội dung bản án đã được Hội đồng t
xử sửa chữa, đính chính).
Ngoài ra, bản án n tuyên về trách nhiệm dân sự, biện pháp pháp, nghĩa
vụ nộp án p và chế định án treo (đối với bị o Nguyễn Hu V).
Ngày 10/3/2020, bị cáo Trần Công D đơn kháng cáo xin được hưởng án
treo.
Tại phiên a phúc thẩm hôm nay, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm
tội như Bản án sơ thẩm đã xác định và vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Ngày
27/8/2020, bị cáo có nộp Giấy nộp tiền vào tài khoản Chi cục thi hành án dân sự
Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh bị cáo đã khắc phục hậu quả số tiền
1.500.000.000 (Một tỷ m trăm triệu) đồng, nên xin HĐXX xem xét cho bị
cáo.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên
tòa đưa ra ý kiến phát biểu: Sau khi xem xét tất cả lời khai, tình tiết trong hồ
vụ án, nhận thấy bản án sơ thẩm đã tuyên đúng người, đúng tội. Tại phiên tòa
bị cáo cung cấp thêm được tình tiết mới là đã khắc phục hậu quả số tiền
1.500.000.000 đồng nên xét bị cáo nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, chưa
tiền án, tiền sự, công việc nơi trú ổn định, đề nghị Hội đồng xét xử áp
dụng thêm điểm b khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, chấp nhận kháng cáo
của bị cáo sửa án thẩm theo hướng giữ nguyên mức hình phạt 02 năm 06
tháng tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận.
6
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên sở nội dung vụ án, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên
sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ trong hvụ án ý kiến của
Kiểm sát viên, bị cáo, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Ngày 02/3/2020, Tòa án nhân dân Quận 9, Thành phố Hồ Chí minh xét
xử sơ thẩm, đến ngày 10/3/2020 bị cáo có đơn kháng cáo. Đơn kháng cáo của bị
cáo được lập trong trong thời hạn luật định nên hợp lệ.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, từ đó có đủ
sở để kết luận: Trần Công D Chủ shữu, đồng thời Đại diện theo pháp
luật kiêm Giám đốc của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Thương
mại Dịch vVận tải DTĐ. Trong năm 2016, Công ty DTĐ phát sinh doanh thu
đầu ra và có nghĩa vụ phải nộp thuế, tuy nhiên Trần Công D với ý thức chủ quan
không muốn nộp thuế, nên đã mua 18 hóa đơn giá trị gia tăng của Công ty NNL
về làm hồ khai báo thuế, mục đích nhằm khấu trừ tiền thuế giá trị gia tăng
thuế thu nhập doanh nghiệp lẽ ra Công ty DTĐ phải nộp, gây thiệt hại cho
ngân sách nhà nước với tổng số tiền 5.489.783.673 đồng. Hành vi của bị cáo
Trần Công D đã phạm vào tội “Trốn thuế”, thuộc trường hợp số tiền trốn thuế từ
1.000.000.000 đồng trở lên, được quy định tại khoản 3 Điều 200 của Bộ luật
Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Do đó, Tòa án nhân dân Quận 9 đã xét xử bị cáo theo các điều, khoản nêu
trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[3] Xét đơn kháng cáo của bị cáo:
Trong đơn kháng cáo tại phiên tòa hôm nay, bị cáo giữ nguyên yêu cầu
kháng cáo xin được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần Công D cung cấp thêm tình tiết mới
đã khắc phục hậu quả với số tiền 1.500.000.000 đồng vào tài khoản chi cục
Thi hành án dân sự Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh.
Xét hình phạt đã áp dụng đối với bị cáo, khi lượng hình thì Tòa án cấp
thẩm đã xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ là: Bị cáo chưa tiền án, tiền s
phạm tội lần đầu, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa đã khai báo thành khẩn, có
thái độ ăn năn hối lỗi, bị cáo đã nộp lại tổng cộng 200.000.000 đồng đkhắc
phục một phần hậu quả của tội phạm, từ đó áp dụng điểm s khoản 1 và khoản 2
Điều 51 của Bộ luật hính sự. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo tình tiết mới
đã khắc phục thêm số tiền 1.500.000.000 đồng, do đó, cấp áp dụng cho bị cáo
được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 của Bộ
luật hình sự. Xét thấy đây là vụ án 2 bị cáo tuy nhiên là đồng phạm giản đơn,
không mang tính tổ chức, bị cáo cũng chỉ mua lại hóa đơn của đối tượng tên
T, n vai trò chủ mưu không thể hiện ncấp thẩm đã nhận định, bị cáo
7
nhân thân tốt và xin hưởng án treo đcơ hội tiếp tục khắc phục toàn bộ số
tiền còn lại
Xét bị cáo công việc nơi trú ràng, nhiều tình tiết giảm nhẹ
quy định tại khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, bcáo phạm tội
lần đầu, chưa tiền án, tiền sự nên Hội đồng xét xử chấp nhận đơn kháng cáo
của bị o để sửa bản án thẩm theo hướng giữ nguyên mức hình phạt
nhưng cho bị cáo được hưởng án treo là cũng đủ tác dụng giáo dục và răn đe đối
với bị cáo. Đồng thời, cũng là cơ hội cho bị cáo có điều kiện cải sửa bản thân và
trở thành công dân có ích cho xã hội.
[4] Lập luận trên đây cũng căn cứ để chấp nhận quan điểm luận tội của
đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về việc chấp nhận đơn
kháng cáo và cho bị cáo được hưởng án treo.
[5] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo khooing phải chịu án phí hình s
phúc thẩm.
[6] Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, không bị
kháng nghị có hiệu lực pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình
sự năm 2015;
1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Công D và sửa một phần bản án sơ
thẩm số 25/2020/HS-ST ngày 02/3/2020 của Tòa án nhân dân Quận 9, Thành
phố Hồ Chí Minh.
2. Căn cứ khoản 3 Điều 200; các điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51;
Điều 17; Điều 58; các khoản 1, 2, 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa
đổi bổ sung năm 2017,
Xử phạt bị cáo Trần Công D: 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, về tội “Trốn
thuế”, nhưng cho bị cáo được hưởng án treo. Thời gian thử thách 05 (năm)
năm kể từ ngày tuyên án phúc thẩm (ngày 07/9/2020).
Giao bị cáo Trần Công D cho Ủy ban nhân dân phường LT, quận Z, Thành
phố Hồ Chí Minh nơi trú của các bị cáo để giám t giáo dục bị cáo
trong thời gian thử thách.
4. Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự và áp dụng Điều 22 và 23
Nghị quyết quyết định vmức thu, miễn giám, thu, nộp, quản và sử dụng án
phí lphí toà án số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, cùng D mục án
8
phí, lệ phí toà án;
Bị cáo Trần Công D không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
5. Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, không bị
kháng nghị đã hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng
nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
(Đã giải thích chế định án treo cho bị cáo)
Nơi nhận:
- TAND Tối cao; (1)
- TAND cấp cao tại Tp.HCM; (1)
- VKSND cấp cao tại Tp.HCM; (1)
- TAND Quận 9; (1)
- VKSND Tp.HCM; (3)
- VKSND Quận 9; (1)
- P.PV06 – CA Tp.HCM; (1)
- Chi cục THA Quận 9; (1)
- Bị cáo; (1)
- Công an Quận 9; (1)
- Sở Tư pháp; (1)
- Lưu: VT, THS, hồ sơ. (19) (6)
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thị Bích Vân
Tải về
Bản án số 437/2020/HS-PT Bản án số 437/2020/HS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất