Bản án số 32/2020/HS-ST ngày 07/08/2020 của TAND huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình về tội trốn thuế

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 32/2020/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 32/2020/HS-ST ngày 07/08/2020 của TAND huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình về tội trốn thuế
Tội danh: 161.Tội trốn thuế (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Lệ Thủy (TAND tỉnh Quảng Bình)
Số hiệu: 32/2020/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 07/08/2020
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN LỆ THỦY Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNH QUẢNG BÌNH
Bản án số: 32/2020/HS-ST
Ngày: 07/8/2020
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỆ THUỶ – TỈNH QUẢNG BÌNH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán- Chủ toạ phiên toà: Bà Trương Thị Nhàn
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Trương Hải Nam
Ông Lê Ngọc Thành
- Thư ký phiên toà: Ông Nguyễn Văn Châu, Thư ký Toà án nhân dân huyện
Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.
- Đại diện VKSND huyện Lệ Thuỷ tham gia phiên toà: Nguyễn Thị
Diệp, Kiểm sát viên.
Ngày 07 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lệ Thủy, tỉnh
Quảng Bình m phiên toà xét xử thẩm công khai v án hình sự thụ số:
13/2020/TLST-HS ngày 24/3/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:
23/2020/QĐXXST-HS ngày 26/5/2020; Quyết định hoãn phiên tòa số
05/2020/HSST- ngày 09/6/2020 số 07/HSST- ngày 10/7/2020, đối với
bị cáo: Nguyễn Quốc H, sinh ngày: 08/3/1974 tại S, huyện L, tỉnh Quảng Bình;
nơi đăng ký HKTT chỗ hiện nay: Tổ dân phố 2, thị trấn N, huyện L, tỉnh
Quảng Bình; nghề nghiệp: Kinh doanh; trình độ văn hoá: Lớp 12/12; dân tộc:
Kinh; giới tính: Nam; không tôn giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Minh
T, sinh năm 1950 bà: Thị Đ, sinh năm 1955; Vợ: Hoàng Thị Việt H, sinh
năm 1974; con: 05 con, con lớn nhất sinh năm 2001, con nhỏ nhất sinh năm
2013; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam từ
ngày 22/9/2019 cho đến ngày 11/3/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn tạm
giam bằng bảo lĩnh, có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Quốc H: Ông Diệp Kiến T, Luật -
Văn phòng Luật Diệp T thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Bình, địa chỉ 29 M,
thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, có mặt
- Bị hại: Chi cục Thuế huyện L, tỉnh Quảng Bình, đại diện theo pháp luật
ông Hà Quyết T - Chi cục trưởng, có mặt.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
Ông Nguyễn Minh T, sinh năm 1950, nơi trú: Tổ dân phố 4, thị trấn N,
huyện L, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt.
Ông Trí T, sinh năm 1963, nơi trú: Tổ dân phố Đ, phường H, thành
phố Đ, tỉnh Quảng Bình, có mặt
Chị Thị Thùy N, sinh năm 1985, nơi cư trú: Thôn C, N, huyện L, tỉnh
Quảng Bình, vắng mặt.
2
- Những người làm chứng:
Anh Nguyễn Quốc K, địa chỉ: Tổ dân phố 4, thị trấn N, huyện L, tỉnh Quảng
Bình, vắng mặt;
Anh Ngọc K, địa chỉ: Thôn L, L, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, vắng
mặt;
Anh Phan Thanh T, địa chỉ: Thôn X, xã M, huyện L, tỉnh Quảng Bình,
mặt;
Chị Nguyễn Thị S, địa chỉ: Thôn M, xã S, huyện L, tỉnh Quảng Bình, vắng
mặt;
Anh Võ Ngọc H, địa chỉ: Công ty TNHH XDTH L, thị trấn N, huyện L, tỉnh
Quảng Bình, vắng mặt;
Chị Nguyễn Thị G, địa chỉ: Công ty TNHH XDTH L, thị trấn N, huyện L,
tỉnh Quảng Bình, vắng mặt;
Chị Đỗ Thị L, địa chỉ: Thôn L, xã H, huyện L, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt;
Anh Nguyễn Văn T, địa chỉ: Thôn L, S, huyện L, tỉnh Quảng Bình, vắng
mặt;
Anh Hoài N, địa chỉ: Tổ dân phố 3, thị trấn N, huyện L, tỉnh Quảng
Bình, vắng mặt;
Bà Trần Thị X, địa chỉ: Thôn H, xã C, huyện L, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt;
Bà Ngô Thị T, địa chỉ: Đội 2, thôn M, xã S, huyện L, tỉnh Quảng nh, vắng
mặt;
Ông Trần Thành C, địa chỉ: Thôn M, S, huyện L, tỉnh Quảng Bình, vắng
mặt;
Anh Nguyễn Văn B, địa chỉ: Tổ dân phố 2, thị trấn N, huyện L, tỉnh Quảng
Bình, vắng mặt;
Anh Võ Văn Đ, địa chỉ: Thôn M, xã S, huyện L, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt
Anh Dương Công D, địa chỉ: Thôn T, xã T, huyện L, tỉnh Quảng Bình, vắng
mặt;
Anh Văn N, địa chỉ: Tổ dân phố 2 thị trấn N, huyện L, tỉnh Quảng Bình,
vắng mặt.
- Người giám định: Ông Nguyễn Hữu C- Giám định viên tư pháp, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ
án được tóm tắt như sau: Công ty TNHH H(gọi tắt công ty H) trụ sở đóng tại
tổ dân phố 2C, thị trấn N, huyện L, tỉnh Quảng Bình được sở kế hoạch đầu tư tỉnh
Quảng Bình cấp giấy chứng nhận đăng Công ty TNHH hai thành viên trở lên
ngày 29/5/2001, đăng thay đổi lần thứ 5 ngày 08/4/2014, số doanh nghiệp
3100270171, vốn điều lệ: 15.000.000.000 đồng(mười lăm tỷ đồng), công ty gồm 5
thành viên góp vốn: Nguyễn Minh T, Nguyễn Quốc H, Trí T, Nguyễn Quốc K
Thị Thùy N. Người đại diện theo pháp luật của Công ty là Nguyễn Quốc H,
Chủ tịch Hội đồng thành viên kiêm Giám đốc. Công ty H kinh doanh nhiều ngành
nghề khác nhau, trong đó, Công ty được phép khai thác đá vôi làm vật liệu xây
dựng thông thường bằng phương pháp lộ thiên tại mỏ đá Lèn Dân Chủ, N,
3
huyện L, tỉnh Quảng Bình; thời hạn khai thác 30 năm; công suất khai thác
45.000m
3
/năm. Cách thức hoạt động như sau:
Sau khi khai thác đá bằng các phương tiện máy móc tập kết sản phẩm tại
mỏ, nếu có đơn vị, cá nhân đến mua, công ty sẽ dùng máy móc, phương tiện đưa đá
theo đúng chủng loại lên thùng xe của đơn vị, nhân đó. Căn cứ khối lượng,
chủng loại, đơn giá nhân viên của Công ty H sẽ tính giá tiền bán đá vôi cho tng
đơn vị, nhân mua hàng vào sổ theo dõi việc mua bán hàng hóa của Công ty.
Đối với một số đơn vị, nhân, Công ty sẽ bán đá vôi và thu tiền mặt trực tiếp rồi
ghi chép, thống vào sổ bán đá thu tiền mặt. Tiền mặt thu được trực tiếp từ việc
bán hàng hóa do Phan Thanh T Ngọc K thu từ khách hàng, đến cuối ngày
Phan Thanh T Ngọc K chuyển giao tiền mặt thu được cho Thị Thùy N
quản lý.
Một số đơn vị mua với khối lượng lớn, quen biết, Công ty H chưa thu tiền
mặt ngay ghi chép, thống kê(về số lượng, chủng loại phương tiện chở), rồi
yêu cầu lái xe mua hàng của đơn vị đó ký tên vào sổ theo dõi, sau đó, Công ty H sẽ
xuất hóa đơn, thanh toán sau với đơn vị mua hàng khi đến kỳ thanh toán.
Cuối ngày, kế toán của Công ty là Phan Thanh T sẽ hạch toán chi tiết, cụ thể
vào các chứng từ, sổ ch của Công ty H, nhập dữ liệu chứng từ, sổ sách viết tay
vào máy nh xách tay của Công ty để phục vụ cho việc theo dõi, báo cáo kết quả
hoạt động sản xuất, kinh doanh, kê khai thuế đối với Nhà nước.
Giá bán các loại đá được Công ty H tính nsau: Đá hộc: 80.000 đồng/m
3
,
đá 1x2: 120.000 đồng/m
3
, đá 2x4: 95.000.000 đồng/m
3
, đá 3x5: 120.000 đồng/m
3
,
đá 4x6: 90.000.000 đồng/m
3
, đá 5x8: 120.000 đồng/m
3
, đá bây: 38.000 đồng/m
3
, đá
chân lèn: 50.000 đồng/m
3
, đá bột: 50.000 đồng/m
3
, đá 1x3(khác): 90.000 đồng/m
3
,
đá đất: 45.000 đồng/m
3
.
Do Công ty H nợ tiền thuế, tiền chậm nộp tiền thuế đã quá 90 ngày kể từ
ngày hết thời hạn nộp thuế, ngày 13/4/2018 Chi cục Thuế huyện L đã ra quyết định
số 209/QĐ-CCT về việc áp dụng cưỡng chế bằng biện pháp thông báo hóa đơn
GTGT của Công ty H không còn gtrị sử dụng. Công ty chỉ được sử dụng khi
sự cho phép của Chi cục Thuế L. Thời gian cưỡng chế một năm, kể từ ngày
13/4/2018 đến ngày 12/4/2019.
Giai đoạn từ tháng 4/2018 đến tháng 02/2019, Công ty H thực hiện khai
thuế tài nguyên phí bảo vệ môi trường theo tháng và thuế giá trị gia tăng theo
quý. Tuy nhiên, trong thời gian bị Chi cục Thuế L cưỡng chế, Nguyễn Quốc H
không thông qua các thành viên trong Công ty tự ý quyết định việc không lập
hóa đơn giá trị gia tăng khai thuế khi bán đá cho các nhân, hộ gia đình
các công ty khác.
Tổng doanh thu được qua việc H bán đá cho các công ty và nhân từ
14/4/2018 đến 28/02/2019 3.848.348.000 đồng, (với khối lượng đá bán ra gồm:
Đá hộc: 3.251m
3
; đá 1x2: 3.659m
3
; đá 2x4: 15.583m
3
; đá 3x5: 1.836m
3
; đá 4x6:
6.971m
3
; đá 5x8: 1.456m
3
; đá bây: 3.918m
3
; đá chân lèn: 2.682m
3
; đá bột:
6.539m
3
; đá 1x3: 202m
3
; đá đất: 407m
3
).
Ngày 20/5/2019, quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lệ Thủy đã ra
quyết định trưng cầu Chi cục Thuế huyện L, tỉnh Quảng Bình giám định số tiền
trốn thuế của Công ty H mã số thuế 3100270171.
4
Ngày 17/6/2019, Chi cục Thuế huyện Lệ Thủy đã kết luận giám định số
677/KL-GĐ, trong đó kết luận Công ty H đã trốn 1.628.224.524 đồng tiền thuế, phí
gồm: Thuế giá trị gia tăng: 344.250.799 đồng, thuế thu nhập doanh nghiệp:
338.313.145 đồng, thuế tài nguyên: 689.888.600 đồng, phí bảo v môi trường:
255.772.000 đồng.
Về vật chứng: Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Lệ Thủy tạm giữ:
1. 01 (một) Sổ công nợ;
2. 01(một) Sổ thu bán đá;
3. 01(một) Sổ bán đá hàng ngày;
4. 01(một) Nhật ký công nợ;
5. 01(một) tập tài liệu ghi “Công ty Đ”;
6. 01(một) Sổ chi phí;
7. 12(mười hai) tập Phiếu xuất kho của Công ty H;
8. 01(một) tập Phiếu thu của Công ty H;
9. 01(một) Máy tính xách tay nhãn hiệu DELL, loại VOSTRO 15- 3568,
màu đen đã qua sử dụng;
10. 01(một) dây sạc máy tính nhãn hiệu DELL, loại HA65NS5-00, đã qua
sử dụng;
11. 01(một) đầu ghi camera, nhãn hiệu VANTECH VP- 864T, đã qua sử
dụng.
Ngày 16/12/2019, quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lệ Thủy đã trả
lại 01(một) đầu ghi camera, nhãn hiệu VANTECH VP- 864T, đã qua sử dụng cho
Nguyễn Quốc H.
Về dân sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, Bị cáo Nguyễn Quốc H gia
đình đã tự nguyện nộp số tiền 350.000.000 đồng, trong thời gian chuẩn bị xét xử, bị
cáo nộp thêm 400.000.000 đồng, tổng cộng 750.000.000 đồng. Trong đó,
675.000.000 nộp vào tài khoản tạm giữ của Chi cục Thi hành án dân sự huyện L và
75.000.000 đồng nộp vào tài khoản của Chi cục Thuế huyện L để phục vụ cho việc
thi hành án.
Đại diện theo pháp luật của bị hại: Ông Hà Quyết T, Chi cục trưởng Chi cục
Thuế huyện L trình bày các nội dung về việc Chi cục Thuế đã phát hiện hành vi
trốn thuế của Công ty H, qua kết luận giám định và kết quả điều tra, ông hoàn toàn
nhất trí và đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo Nguyễn Quốc H phải bồi thường số
tiền trốn thuế còn lại để Chi cục Thuế kịp thời nộp vào Ngân sách Nhà nước, đồng
thời đề nghị Hội đồng xét xử xem xét vhoàn cảnh gia đình để giảm nhẹ cho bị
cáo Nguyễn Quốc H một phần hình phạt, tạo điều kiện cho bị cáo có cơ hội làm ăn,
sớm khắc phục hậu quả do hành vi rốn thuế gây ra.
Tại bản cáo trạng số: 17/CT-VKSNDLT ngày 19/3/2020, Viện kiểm sát
nhân dân huyện Lệ Thuỷ đã truy tbị cáo Nguyễn Quốc H về "Tội trốn thuế” theo
khoản 3 Điều 200 của Bộ luật Hình sự. Qua tranh luận tại phiên toà, đại diện Viện
kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa
giữ nguyên quyết định truy tố đề nghị Hội đồng xét xtuyên bố bị cáo Nguyễn
Quốc H phạm “Tội trốn thuế”; xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc H từ 24 đến 30 tháng
cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 48 đến 60 tháng; về vật chứng: Đề
nghị tuyên tịch thu lưu vào hồ vụ án những vật chứng đã tạm giữ. Riêng máy
5
tính xách tay và bộ sạc máy tính xách tay đề nghị trả lại cho bị cáo; về trách nhiệm
dân sự: Đề nghị xử buộc bị cáo bồi thường số tiền trốn thuế cho Chi cục Thuế
huyện L để nộp vào ngân sách Nhà nước 1.628.224.524 đồng, đã nộp trước số tiền
750.000.000 đồng, số còn lại phải nộp tiếp là 878.224.524 đồng.
Người bào chữa cho bị cáo: Ông Diệp Kiến T trình bày lời bào chữa cho bị
cáo, không đồng tình với bản Cáo trạng của Viện kiểm sát về một số nội dung, đề
nghị Hội đồng xét xét xử xem xét:
- Về trách nhiệm hình sự, cần xem xét về dấu hiệu phạm tội của Pháp nhân
thương mại Công ty H, hành vi trốn thuế mục đích mang lại lợi ích cho Công
ty;
- Về trách nhiệm dân sự, cần xem xét vai trò trách nhiệm của ông Trí T
vì ông T đã nhận số tiền 900.000.000 đồng trong số tiền trốn thuế.
- Về hình phạt: Trong phần luận tội, Kiểm t viên đã đề nghị mức án cũng
tính nhân văn nhưng người bào chữa phân tích thêm tính chất, mức độ, điều
kiện, hoàn cảnh phạm tội của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc H với mức án cải tạo không
giam giữ bằng thời hạn đã bị tạm giam đã quy đổi vừa phải tạo điều kiện cho bị
cáo được lao động, sản xuất, nhằm khắc phục hậu quả phần nghĩa vụ còn lại, đồng
thời có thời gian chăm sóc gia đình cùng các con còn nhỏ dại.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Chứng cứ xác định có tội và điều luật áp dụng:
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Quốc H khai nhận tất cả hành vi phạm tội của
mình như đã khai tại quan Điều tra. Bị cáo khai, bị cáo Chủ tịch Hội đồng
thành viên kiêm giám đốc Công ty H, trong thời gian từ ngày 14/4/2018 đến ny
28/02/2019, bị cáo tự quyết định việc khai thác bán các loại đá vôi làm vật liệu
xây dựng thông thường cho các công ty nhân trên địa bàn huyện L nhưng
không lập hóa đơn khi bán hàng hóa, không hạch toán đầy đủ doanh thu của Công
ty vào chứng từ kế toán, không báo cáo tài chính, không khai đầy đsố thuế
phí phải nộp với tổng số tiền như Kết luận giám định 677/KL-ngày 17/6/2019
của Chi cục Thuế huyện L 1.628.224.524 đồng giám định viên đã trình bày
tại phiên tòa. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của những người làm chứng,
cũng như các chứng cứ, tài liệu trong hvụ án do quan điều tra đã thu
thập đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Nguyễn Quốc H đã có hành vi xâm phạm đến trật tự
quản kinh tế của Nhà nước trong lĩnh vực thuế. Hành vi đó đã đủ yếu tố cấu
thành "Tội trốn thuế" được quy định tại Điều 200 của Bộ luật Hình sự, như Cáo
trạng truy tố của Viện kiểm sát hoàn toàn căn cứ. Việc xem xét hành vi của
pháp nhân thương mại phạm tội đã được Viện kiểm t nhân dân huyện Lệ Thủy
trả hyêu cầu điều tra bổ sung nhưng qua kết quđiều tra bổ sung, không
căn cứ truy tố pháp nhân thương mại nên Viện kiểm sát không truy tố, Hội đồng
xét xử thấy đề nghị của người bào chữa không có căn cứ.
6
[2]. Xét tính chất, mức đhành vi phạm tội của bị cáo tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự
quản kinh tế của Nhà nước. Số tiền trốn thuế 1.628.224.524 đồng nên bị cáo
phải chịu tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 3
Điều 200 của Bộ luật hình sự. Vì vậy, cầnmột mức án tương xứng với tính chất
mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nhằm tác dụng giáo dục, răn
đe bị cáo và phòng ngừa chung.
[3]. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Trong quá trình nghiên cứu toàn bộ nội dung vụ án cũng như xét hỏi công
khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thấy, sau khi phạm tội bị cáo và gia đình đã nộp
số tiền 750.000.000 đồng để bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả và luôn thành
khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Ngoài ra, bố mẹ của bị cáo, ông Nguyễn Minh T
Thị Đ người công trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước được
Nhà nước tặng thưởng nhiều Huân, Huy chương; bản thân bị cáo trong thời gian
công tác tại mỏ đá thuộc Thôn C, N đã hành động nhiều lần cứu giúp người
đuối nước trong lụt được UBND xã N xác nhận nên khi thảo luận nghị án,
Hội đồng xét xử nhất trí áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được
quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đgiảm
nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt, thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật,
đồng thời xem xét về nhân thân của người phạm tội: Bị cáo nhân thân tốt, chưa
có tiền án, tiền sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cứ trú rõ ràng và có khả năng
tự cải tạo tốt nên chưa cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi hội cần giao cho
chính quyền địa phương nơi bị cáo thường trú để giám sát, giáo dục vừa phải,
tạo điều kiện cho bị cáo tu dưỡng rèn luyện bản thân trở thành công dân ích
cho gia đình xã hội phù hợp với Điều 65 của Bộ luật Hình sự cũng phù
hợp với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát. Về ý kiến của người bào chữa, đề nghị
cho bị cáo được hưởng mức án cải tạo không giam giữ hình phạt không tương
xứng với mức độ hành vi phạm tội nên không thể chấp nhận được.
[4]. Về hành vi, quyết định tố tụng của quan điều tra Công an huyện Lệ
Thủy, Điều tra viên; của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lệ Thủy Kiểm sát viên
trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng không ai
ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng.
[5].Vật chứng vụ án: Ngày 16/12/2019 quan Cảnh sát điều tra Công an
huyện Lệ Thủy đã trả lại 01 đầu ghi camera, nhãn hiệu VANTECH VP- 864T cho
Nguyễn Quốc Huy nên Hội đồng xét xử không xem xét. Các vật chứng khác đều là
tài liệu đi kèm hồ sơ ván cần tịch thu lưu vào hồ vụ án. Riêng máy nh xách
tay nhãn hiệu Dell kèm một dây sạc máy nh, đã được quan Điều tra trưng cầu
giám định và đã trích toàn bộ tài liệu có trong máy tính, sau đó niêm phong nên cần
trả lại cho bị cáo theo điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự;
[6]. Về trách nhiệm dân sự: Theo kết quả điều tra cũng như xét hỏi tại phiên
tòa, không căn cứ buộc ông Trí T Công ty H liên đới chịu trách nhiệm
dân sự như đề nghị của người bào chữa. Mọi hành vi phạm tội bị cáo Nguyễn Quốc
H đã thừa nhận do chính mình thực hiện và nhất trí sẽ bồi thường phần nghĩa vụ
7
còn lại nên cần buộc bị cáo phải bồi thường cho Chi cục Thuế huyện L để nộp vào
ngân sách Nhà nước số tiền 1.628.224.524 đồng căn cứ, đã bồi thường trước
số tiền 750.000.000 đồng, số còn lại phải bồi thường tiếp phù hợp với các Điều
46, 48 của Bộ luật Hình sự và các Điều 584, 585, 586, 589 của Bộ luật Dân sự.
[7].Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự thẩm án phí dân sự
thẩm theo luật định.
[8].Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo theo luật định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quốc H phạm "Tội trốn thuế".
Căn cứ vào khoản 3 Điều 200; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51
khoản 1, khoản 2 Điều 65 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc H
30(ba mươi) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 60 tháng(5 năm) kể từ
ngày tuyên án sơ thẩm (07/8/2020).
Giao Nguyễn Quốc H cho UBND thị trấn N, huyện L, tỉnh Quảng Bình để
giám t, giáo dục trong thời gian ththách. Trong trường hợp người được hưởng
án treo thay đổi nơi trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án
hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ
02 lần trở lên, thì Tòa án thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải
chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Tuyên lưu vào hồ sơ vụ án:
1. 01 (một) Sổ công nợ;
2. 01(một) Sổ thu bán đá;
3. 01(một) Sổ bán đá hàng ngày;
4. 01(một) Nhật ký công nợ;
5. 01(một) tập tài liệu ghi “Công ty Đ”;
6. 01(một) Sổ chi phí;
7. 12(mười hai) tập Phiếu xuất kho của Công ty H;
8. 01(một) tập Phiếu thu của Công ty H;
Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Trả lại cho bị
cáo Nguyễn Quốc H một máy tính xách tay một bộ sạc máy nh hiệu Dell đã
qua sử dụng theo biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu ngày 19/3/2020 .
Áp dụng Điều 46, Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 357, Điều 584, Điều
585, Điều 586 Điều 589 của Bộ luật Dân sự: Xử buộc bị cáo Nguyễn Quốc H
phải bồi thường cho Chi cục Thuế huyện L để nộp vào ngân sách Nhà nước số tiền
1.628.224.524 đồng, đã bồi thường trước số tiền 750.000.000 đồng, trong đó
675.000.000 đồng nộp tại tài khoản tạm giữ của Chi cục Thi hành án dân sự huyện
L(theo giấy ủy nhiệm chi của Công an huyện Lệ Thủy ngày 06/5/2020, biên lai thu
tiền của Chi cục Thi hành án dân sự huyện L ngày 28/02/2020 và ngày 04/8/2020);
75.000.000 đồng tại tài khoản của Chi cục Thuế huyện L(Theo giấy ủy nhiệm chi
của Công an huyện Lệ Thủy ngày 31/12/2019). Số còn lại bcáo phải bồi thường
tiếp là: 878.224.524 đồng.
8
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, cho đến
khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn
phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định
tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án
dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thoả thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng
chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 9 Luật thi hành án dân sự; thi
hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Áp dụng khoản 2 Điều 135 khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình
sự; các điểm a, c khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Xử bị cáo Nguyễn Quốc H phải
chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng án phí dân sự thẩm 38.346.735
đồng để nộp vào ngân sách Nhà nước.
Bị cáo, bị hại quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày
tuyên án thẩm (07/8/2020), người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được kháng
cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được
niêm yết, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử phúc thẩm.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Trương Thị Nhàn
Nơi nhận:
- Bị cáo;
- Bị hại;
- VKSND h. Lệ Thủy;
- VKSND t. Quảng Bình;
- TAND t. Quảng Bình;
- Chi cục THADS h. Lệ Thủy;
- Công an h. Lệ Thủy
- Sở Tư pháp t.Quảng Bình;
- Bộ phận THAHS
- Lưu HS,VP
Tải về
Bản án số 32/2020/HS-ST Bản án số 32/2020/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất