Bản án số 398A/2022/HS-PT ngày 27/05/2022 của TAND TP. Hà Nội về tội trốn thuế

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 398A/2022/HS-PT

Tên Bản án: Bản án số 398A/2022/HS-PT ngày 27/05/2022 của TAND TP. Hà Nội về tội trốn thuế
Tội danh: 161.Tội trốn thuế (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Hà Nội
Số hiệu: 398A/2022/HS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/05/2022
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI HÀ NỘI
Bản án số: 398A/2022/HS-PT
Ngày: 27/5/2022
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Nguyễn Phương Hạnh;
Các Thẩm phán: Ông Võ Hồng Sơn;
Ông Đặng Văn Hưng.
Thư phiên toà: Vy Minh Huyền, Thư Toà án nhân dân cấp cao
tại Hà Nội.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Nội tham gia phiên tòa:
Bà Lê Thị Thu Hà, Kiểm sát viên.
Ngày 26, 27 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà
Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ s
536/2021/TLPT-HS ngày 28 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo Đinh Đức T phạm
tội “Trốn thuế do kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự thẩm số
31/2020/HS-ST ngày 21/7/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ.
* Bị cáo kháng cáo:
Đinh Đức T, sinh ngày 03/l1/1978; hkhẩu thường trú: Khu 2, Đan
T, huyện Hạ H, tỉnh Phú Thọ; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo:
Không; trình độ văn hóa: 9/12; nghề nghiệp: Giám đốc HTX Duy B, trụ sở: Khu
10, Phụ K, huyện Hạ H, tỉnh Phú Thọ; con ông Đinh Công V Nguyễn
Thị Đ; có v Nguyễn Thị P; có 02 con, (con lớn sinh năm 2008, nhỏ sinh năm
2013); tiền án, tiền sự: Không; bcáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi
trú từ ngày 18/10/2019 đến nay. Hiện đang tại ngoại, có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo: Luật Đỗ Thị Hương G - Công ty Luật
TNHH Tường M, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; có mặt.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Nguyễn Thị P, sinh năm 1984; địa chỉ: Khu 2, xã Đan T, huyện Hạ H,
tỉnh Phú Thọ; có mặt.
- Ông Trần Hữu H, sinh năm 1968; địa chỉ: Khu 10, xã Phụ K, huyện Hạ H,
tỉnh Phú Thọ; vắng mặt.
- Nguyễn Thị T1, sinh năm 1979; địa chỉ: Khu 10, Phụ K, huyện Hạ
H, tỉnh Phú Thọ; vắng mặt.
2
- Ông Đinh Quốc H1, sinh năm 1981; địa chỉ: Khu 1, Đan T, huyện Hạ
H, tỉnh Phú Thọ; vắng mặt.
- Nguyễn Thị G1, sinh năm 1977; địa chỉ: Khu 7, xã Lệnh K, huyện Hạ
H, tỉnh Phú Thọ; vắng mặt.
- Ông Đào Văn H2, sinh năm 1874; địa chỉ: Khu 7, Lệnh K, huyện Hạ
H, tỉnh Phú Thọ; vắng mặt.
- Nguyễn Mai L, sinh năm 1978; địa chỉ: Snhà 103, tổ 3, khu T,
thị trấn Phong C, huyện Phù N, tỉnh Phú Thọ;
- Ông Trần Minh T2, sinh năm 1983; địa chỉ: Khu Tầm V, thị trấn Phong
C, huyện Phù N, tỉnh Phú Thọ; vắng mặt.
- Công ty TNHH Lâm sản Đại N; địa chỉ: Phường Đằng G, quận Ngô Q,
thành phố Hải Phòng.
- Công ty Cổ phần Thuận Đ; địa chỉ: Tây C, huyện Đoan H, tỉnh Phú
Thọ; vắng mặt.
- Tổng Công ty G; địa chỉ: Thị trấn Phong C, huyện Phù N, tỉnh Phú Thọ;
vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu trong hồ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Hợp tác xã nông nghiệp Duy B (gọi tắt là HTX Duy B) thành lập theo Giấy
chứng nhận đăng hợp tác số 180407000086/HTX do UBND huyện Hạ H
cấp, đăng lần đầu ngày 03/01/2017, đăng lại lần hai ngày 15/5/2018. Địa
chỉ trụ sở chính: Khu 10, xã Phụ K, huyện Hạ H, tỉnh Phú Thọ. Ngành nghề kinh
doanh chính: Dịch vụ vận tải chế biến gỗ. Người đại diện theo pháp luật:
Đinh Đức T - Giám đốc - Chủ tịch Hội đồng quản trị. HTX Duy B 07 thành
viên, vốn điều lệ: 1.200.000.000 đồng, trong đó vốn góp của ông Đinh Đức T
230.000.000 đồng, chiếm 19,16%; vốn góp của Nguyễn Thị P, sinh năm
1984, trú tại: Khu 2, xã Đan T, huyện Hạ H là 190.000.000 đồng chiếm 15,83%;
vốn góp của ông Trần Hữu H, sinh năm 1968, trú tại: Khu 10, Phụ K, huyện
Hạ H 140.000.000 đồng chiếm 12,5%; vốn góp của Nguyễn Thị T1, sinh
năm 1979, trú tại: Khu 10, xã Phụ K là 170.000.000 đồng chiếm 14,16%; vốn
góp của ông Đinh Quốc H1 sinh năm 1981, trú tại: Khu 1, Đan Thượng,
huyện Hạ H là 160.000.000 đồng chiếm 13,75%; vốn góp của bà Nguyễn Thị
G1, sinh năm 1977, trú tại: Khu 7, xã Lệnh K, huyện Hạ H là 180.000.000 đồng
chiếm 15,83%; vốn góp của ông Đào Văn H2 sinh năm 1974, trú tại: Khu 7,
Lệnh K, huyện Hạ H là 130.000.000 đồng chiếm 10,83%.
HTX Duy B hoạt động sản xuất kinh doanh dăm mảnh gỗ làm nguyên liệu
giấy dưới hình thức: HTX thu mua cành cây, gỗ cây keo nguyên liệu của các hộ
dân trên địa bàn huyện Hạ H, thực hiện sản xuất thành dăm mảnh gỗ tại xưởng
3
thuộc khu 10, Phụ K, huyện Hạ H, tỉnh Phú Thọ để xuất bán cho các khách
hàng.
Quá trình điều tra xác định:
Trong thời gian ttháng 01/2018 đến tháng 6/2019, HTX Duy B đã sản
xuất và bán ra thị trường 9.431,115 tấn dăm mảnh gỗ tương đương trị giá
12.498.305.724 đồng. Trong đó:
- Bán hàng cho các đơn vị trong ngoài tỉnh thể hiện trên hóa đơn giá trị
gia tăng (GTGT), các đơn vị mua hàng đã thanh toán tiền hàng vào tài khoản số
112000196002 của HTX Duy B mở tại Ngân hàng Viettinbank - Chi nhánh thị
Phú T được hạch toán trên sổ sách kế toán, khai quyết toán thuế là:
2.640,043 tấn tương đương trị giá 4.461.578.569 đồng, cụ thể:
+ Năm 2018: Xuất bán 1.718,220 tấn tương đương trị giá 3.166.815.352
đồng.
+ Năm 2019: Xuất bán 921,823 tấn tương đương trị giá 1.294.763.217
đồng.
- Ngoài số lượng dăm mảnh đã bán theo hoá đơn GTGT nêu trên, HTX
Duy B còn bán cho Nguyễn Mai L, ttại: Thị trấn Phong C, huyện Phù N,
tỉnh Phú Thọ tổng số 6.791,072 tấn dăm mảnh gỗ tương đương 8.036.727.155
đồng, nhưng không xuất hóa đơn GTGT, không hạch toán doanh thu trên sổ
sách kế toán của Hợp tác xã, không kê khai báo cáo thuế với đơn vị quản lý thuế
trực tiếp là Chi cục thuế khu vực Thanh B - Hạ H. Cụ thể:
Đầu năm 2018, Nguyễn Mai L đã trực tiếp liên hệ với Đinh Đức T -
Giám đốc HTX Duy B để mua dăm mảnh gỗ nhưng không hợp đồng mua
bán, không yêu cầu HTX Duy B xuất hoá đơn GTGT, giá thu mua từ 1.100.000
đồng đến 1.200.000 đồng/tấn tuỳ vào từng thời điểm. Địa điểm giao nhận hàng
tại kho của Tổng Công ty G, trụ sở tại: Thị trấn Phong C, huyện Phù N, tỉnh Phú
Thọ. Để vận chuyển số dăm mảnh gỗ bán cho bà L, HTX nông nghiệp Duy B đã
sử dụng 02 xe ô tải của HTX biển kiểm soát: 19C - 090.67 19C-107.47 do
các nhân gồm: Ông Trần Hữu H3, sinh năm 1972 thường trú: Phụ K,
huyện Hạ H, tỉnh Phú Thọ và ông Nguyễn Văn Ư sinh năm 1987, thường trú: Xã
Lang S, huyện Hạ H, tỉnh Phú Thọ lái xe của HTX Duy B trực tiếp điều
khiển. Ngoài ra, HTX Duy B còn thuê 01 xe ô tô tải biển kiểm soát 19C - 081.34
của anh Nguyễn Xuân Đ1 sinh năm 1978, Khu 11, thị trấn Thanh B, huyện
Thanh B, tỉnh Phú Thọ để chở dăm mảnh từ xưởng sản xuất của HTX Duy B
đến kho của Tổng Công ty G giao cho L. Khi chở dăm mảnh đến kho Tổng
Công ty G, lái xe sẽ liên hệ với bà L để làm các thủ tục cân hàng. Sau khi xuống
hàng, lái xe mang phiếu cân vật v chuyển lại cho ông T tập hợp theo dõi số
lượng dăm mảnh đã bán cho L để chốt số lượng thanh toán tiền hàng.
Trong thời gian từ tháng 01/2018 đến tháng 6/2019, HTX Duy B đã xuất bán
cho bà L tổng số 6,791,072 tấn dăm mảnh gỗ (trong đó năm 2018 bán 3.251,765
4
tấn, năm 2019 bán 3.539,307 tấn). L đã chuyển khoản thanh toán tiền mua
dăm mảnh vào tài khoản nhân số 106868545103 của Đinh Đức T mở tại
Ngân hàng Viettinbank - Chi nhánh thị Phú Thọ tổng số 8.042.620.000 đồng
thông qua 91 lần chuyển tiền thể hiện 91 giấy báo (trong đó: Thanh toán
tiền mua 6.791,072 tấn dăm mảnh gỗ số tiền 8.036.727.155đ, tiền thừa chuyển
thanh toán lần sau: 5.892.845 đồng). Toàn bộ số tiền nhận được T đã t tiền
mặt, để thanh toán tiền mua nguyên liệu đầu vào, chi phí sản xuất.
Theo quy định tại Điều 16 Thông số 39/2014/TT-BTC ngày 31/3/2014
của Bộ Tài chính quy định: "Người bán hàng phải lập hoá đơn khi bán hàng hóa
... Trường hợp khi bán hàng hoá từ 200.000đ trở lên mỗi lần người mua không
lấy hóa đơn hoặc không cung cấp tên, địa chỉ, số thuế thì vẫn phải lập hoá
đơn ghi người mua không lấy hoá đơn hoặc người mua không cung cấp
tên, địa chỉ, số thuế”. Đồng thời, phải ghi nhận doanh thu gvốn vào sổ
sách kế toán, khai thuế đối với doanh thu phát sinh. Tuy nhiên, để trốn tiền
thuế GTGT phải nộp cho Nhà nước, HTX Duy B đã không xuất hóa đơn GTGT,
không hạch toán kê khai số tiền 8.036.727.155 đồng doanh thu từ việc bán
6.791,072 tấn dăm mảnh gỗ cho bà L.
Quá trình làm việc tại Cơ quan điều tra, bà Nguyễn Mai L khai nhận:
L được ông Trần Minh T2, sinh năm 1983, trú tại thị trấn Phong C,
huyện Phù N, Phú Thọ thuê thu mua dăm mảnh của các doanh nghiệp trên địa
bàn tỉnh Phú Thọ, nhưng không yêu cầu đơn vị bán hàng xuất hoá đơn GTGT.
Mỗi tấn dăm mảnh thu mua được ông T2 trả cho L số tiền 2.000 đồng. Sau
đó, L đã liên hệ với Đinh Đức T - Giám đốc HTX Duy B đmua dăm mảnh
gcung cấp cho T2. Từ tháng 01/2018 đến tháng 6/2019, L mua của HTX
Duy B tổng số 6.791,72 tấn dăm mảnh gnhưng không hợp đồng mua bán,
không yêu cầu HTX Duy B xuất hóa đơn GTGT. Sau khi chốt khối lượng dăm
mảnh nêu trên với L, ông T2 đã chuyển vào tài khoản nhân số
103868527382 của Nguyễn Mai L mở tại Ngân hàng Vietinbank - Chi nhánh
Đền H số tiền 10.178.791.000 đồng thông qua 33 lần chuyển tiền thể hiện trên
33 giấy báo (trong đó số tiền 8.042.620.000đ tiền thanh toán cho HTX
Duy B). L chuyển số tiền 8.042.620.000 đồng đến tài khoản nhân của
Đinh Đức T để thanh toán tiền mua 6.791,072 tấn dăm mảnh của HTX Duy B,
còn lại 2.136.171.000 đồng L sử dụng để thanh toán tiền mua dăm mảnh của
các doanh nghiệp và cá nhân khác.
Quá trình làm việc tại quan điều tra ông Trần Minh T2 khai nhận: Đầu
năm 2018, ông T2 được Công ty TNHH Lâm Sản Đại N trụ sở tại: Phường
Đằng G, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng Công ty CP Thuận Đ trụ
sở tại: Tây C, huyện Đoan H, tỉnh Phú Thọ ththu mua dăm mảnh gỗ để
bán cho Tổng Công ty G. Mỗi tấn dăm mảnh thu mua được Công ty TNHH Lâm
Sản Đại N Công ty CP Thuận Đ trả cho ông T2 số tiền 5.000 đồng. Sau đó,
5
ông T2 đã thuê Nguyễn Mai L thu mua dăm mảnh thỏa thuận trả cho bà L
2.000đ/tấn thu mua được. Từ tháng 01/2018 đến tháng 6/2019, L đã thu mua
cho ông T2 tổng số 6.791,072 tấn dăm mảnh gỗ của HTX Duy B như đã nêu
trên. Ông T2 đã phân bổ Công ty TNHH Lâm sản Đại N 2.931,334 tấn phân
bổ cho Công ty CP Thuận Đ 3.859,738 tấn để nhập vào Tổng công ty G. Sau khi
được Công ty TNHH Lâm sản Đại N Công ty CP Thuận Đ chuyển khoản
thanh toán dăm mảnh vào tài khoản nhân số 104868004590 của ông T2 m
tại Ngân hàng Viettinbank - Chi nhánh Đền H số tiền: 10.210.000.000 đồng
thông qua 24 lần chuyển tiền (thể hiện trên 24 giấy báo có) để thanh toán tiền
mua dăm mảnh (trong đó: Công ty TNHH Lâm Sản Đại N chuyển 15 lần, số tiền
4.900.000.000đ, Công ty CP Thuận Đ chuyển 9 lần, số tiền 5.310.000.000đ),
ông T2 đã chuyển vào tài khoản nhân số 103868527382 của Nguyễn Mai
L m tại Ngân hàng Vietinbank - Chi nhánh Đền H số tiền 10.178.791.000 đồng
thông qua 33 lần chuyển tiền thể hiện trên 33 giấy báo có để bà L thanh toán tiền
cho các đơn vị bán dăm (trong đó số tỉền 8.042.620.000đ tiền thanh toán cho
HTX Duy B), còn lại 31.209.000 đồng chuyển thừa thanh toán lần sau.
Ngày 08/10/2019, Cơ quan CSĐT đã ra Quyết định trưng cầu giám định số
253 trưng cầu Cục thuế tỉnh Phú Thgiám định vthuế đối với số lượng dăm
mảnh gỗ HTX Duy B đã xuất bán nhưng không xuất hóa đơn GTGT, không
kê khai, hạch toán nêu trên.
Tại Kết luận giám định ngày 16/10/2019 của Cục thuế tỉnh Phú Thọ xác
định: Số tiền thuế GTGT HTX nông nghiệp Duy B đã trốn là:
(8.036.727.155đ : 1,1) x 10% = 730.611.560đ.
Quá trình điều tra, quan CSĐT đã thu thập hồ sơ, tài liệu chi phí của
HTX Duy B để phục vụ giám định xác định việc khai, nộp thuế thu nhập
doanh nghiệp của HTX Duy B. Ngày 13/02/2020, quan CSĐT đã ra Quyết
định trưng cầu giám định số 36 trưng cầu Cục thuế tỉnh Phú Thọ giám định về
thuế thu nhập doanh nghiệp đối với số lượng dăm mảnh gỗ HTX Duy B đã
xuất bán nhưng không xuất hóa đơn GTGT, không kê khai, hạch toán nêu trên.
Tại Kết luận giám định ngày 18/2/2020 của Cục thuế tỉnh Phú Thọ xác
định: Năm 2018, HTX nông nghiệp Duy B lỗ 356.921.634 đồng nên không gây
thiệt hại về thuế thu nhập doanh nghiệp. Đối với 5 tháng đầu năm 2019, do chưa
đến kỳ quyết toán thuế của đơn vị, nhiều khoản chi phí liên quan không tính
toán được nên chưa đủ sở kết luận về thuế. Do đó, cần tách nội dung này ra,
khi nào làm rõ sẽ xem xét sau là phù hợp.
Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu thập các tài liệu, chứng cứ
chứng minh hành vi phạm tội của Đinh Đức T như: Giấy báo thể hiện việc
chuyển tiền giữa Công ty TNHH m sản Đại N, Công ty CP Thuận Đ với ông
T2, giữa ông T2 với bà L, giữa bà L và Đinh Đức T; phiếu cân vật tư kèm chứng
thư giám định chất lượng khối lượng của Tổng công ty G thể hiện số lượng
6
dăm mảnh HTX nông nghiệp Duy B chở đến cho Công ty TNHH Lâm sản Đại
N, Công ty CP Thuận Đ để nhập vào Tổng công ty G; bảng kê theo dõi số lượng
dăm mảnh HTX Duy B xuất bán cho Nguyễn Mai L nhập tại kho Tổng công ty
giấy nhưng không xuất hóa đơn được in ra từ máy tính của Hợp tác xã.
Bản thân Đinh Đức T - Giám đốc, người đại diện theo pháp luật của HTX
nông nghiệp Duy B người chịu trách nhiệm điều hành toàn bộ hoạt động sản
xuất kinh doanh các hoạt động khác của Hợp tác xã. Tuy nhiên, T đã không
trao đổi, bàn bạc, thống nhất với các thành viên góp vốn của HTX nông nghiệp
Duy B mà tự ý thực hiện việc thu mua gỗ nguyên liệu của các hộ dân trồng rừng
trên địa bàn huyện Hạ H, tỉnh Phú Thọ không có hóa đơn rồi sản xuất thành
hàng dăm mảnh tại xưởng sản xuất của HTX Duy B. Sau đó xuất bán m mảnh
cho bà Nguyễn Mai L nhưng không ký hợp đồng mua bán hàng hóa, không xuất
hóa đơn GTGT. Việc thanh toán tiền mua bán dăm mảnh gỗ lại chuyển vào tài
khoản nhân của Đinh Đức T, T không hạch toán trên sổ sách kế toán của
HTX Duy B, không khai nộp thuế tại Chi cục thuế khu vực Thanh B - Hạ H
gây thiệt hại cho Ngân sách Nhà nước tiền thuế giá trị gia tăng là: 730.611.560
đồng.
Đối với các thành viên góp vốn tại HTX Duy B: Nguyễn Thị P, ông
Trần Hữu H, Nguyễn Thị T1, ông Đinh Quốc H1, Nguyễn Thị G1, ông
Đào Văn H2 các thành viên góp vốn vào Hợp tác xã. Tuy nhiên, các thành
viên này không trực tiếp tham gia điều hành hoạt động, không theo dõi tình hình
sản xuất, kinh doanh của HTX Duy B. Mặt khác, các thành viên góp vốn không
được T trao đổi, bàn bạc, thống nhất về việc HTX Duy B xuất bán 6.791,072 tấn
dăm mảnh gỗ với số tiền 8.036.727.1550 cho Nguyễn Mai L nhưng không
xuất hoá đơn GTGT, không khai thuế không được hưởng lợi ích từ việc
này. Do vậy, Viện kiểm sát xác định các thành viên góp vốn tại HTX Duy B
không đồng phạm trong việc thực hiện hành vi trốn thuế nêu trên.
Quá trình điều tra xác định: Hợp tác nông nghiệp Duy B hoạt động theo
Giấy chứng nhận đăng doanh nghiệp Hợp tác xã, vốn điều lệ: 1.200.000.000
đồng gồm 07 thành viên. Theo quy định pháp luật hiện hành, HTX Duy B
pháp nhân thương mại. Với số tiền trốn thuế giá trị gia tăng của HTX Duy B là:
730.611.560 đồng đã đủ yếu tố định lượng của tội phạm trốn thuế của pháp nhân
thương mại. Nhưng theo quy định tại khoản 1 Điều 75 BLHS quy định vđiều
kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại thì:
“7. Pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi đủ các
điều kiện sau đây:
a, Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại;
b, Hành vi phạm tội được thực hiện lợi ích của pháp nhân thương mại;
c, Hành vi phạm tội được thực hiện sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp
7
thuận của pháp nhân thương mại.
d, Chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2
khoản 3 Điều 27 bộ luật này.
Đối chiếu với quy định trên thấy rằng: Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh
của HTX đều do Đinh Đức T trực tiếp chỉ đạo điều hành. Hàng năm, T không tổ
chức họp hội đồng thành viên, không thông báo tình hình hoạt động sản xuất
kinh doanh cho các thành viên. Việc HTX Duy B bán 6.791,072 tấn dăm mảnh
gỗ với số tiền 8.036.727.155 đồng cho Nguyễn Mai L nhưng không xuất hoá
đơn GTGT, không khai báo cáo thuế do T trực tiếp thực hiện, không bàn
bạc với ai, không sđồng thuận của các thành viên tham gia góp vốn thông
qua các cuộc họp hội đồng thành viên, không vì lợi ích chung của các thành viên
tham gia góp vốn, không lợi ích của pháp nhân. Các thành viên góp vốn
không ủy quyền toàn bộ cho Đinh Đức T trong việc quản lý, chỉ đạo, điều hành
HTX. Do vậy, không đủ căn cứ để khởi tố pháp nhân thương mại đối với HTX
Duy B về hành vi trốn thuế.
Tại Bản án hình sự thẩm số 31/2020/HS-ST ngày 21/7/2020, Tòa án
nhân dân tỉnh Phú Thọ đã quyết định:
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 200, điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình
sự 2015 xử phạt: Bcáo Đinh Đức T 18 (mười tám) tháng tù về tội “Trốn thuế”.
Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo Đinh Đức T đi thi hành án.
Không áp dụng phạt bổ sung đối với bị cáo.
- Vbiện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình s 2015:
Thu hồi để nộp ngân sách Nhà nước số tiền trốn thuế của bị cáo Đinh Đức T
730.611.560 đồng (Bảy trăm ba mươi triệu sáu trăm mười một nghìn năm trăm
sau mươi đồng).
Ngày 03/8/2020, bị cáo Đinh Đức T có đơn kháng cáo kêu oan.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bcáo Đinh Đức T thay đổi nội dung kháng cáo
từ kêu oan sang xin giảm nhẹ hình phạt xin được hưởng án treo, thừa nhận
toàn bộ hành vi phạm tội của mình, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét
cho bị cáo được hưởng án treo.
Luật bào chữa cho bị cáo T trình bày: Bị cáo T đã nhận thức được hành
vi phạm tội của mình, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội do thiếu
hiểu biết pháp luật, thuộc trường hợp phạm tội lần đầu và ít nghiêm trọng, gia
đình bị cáo có công với Cách mạng (bố vợ bị cáo là Thương binh). Tại phiên tòa
phúc thẩm, bị cáo Đinh Đức T đã tự nguyện nộp 50 triệu đồng khắc phục hậu
quả. Do bị cáo T có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1, 2 Điều 51 Bộ
luật Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chp nhận kháng cáo của bị
cáo T, cho bị cáo T được hưởng án treo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Nội sau khi phân tích nội
8
dung vụ án, vật chứng thu giữ được đã kết luận: Bị cáo Đinh Đức T không
hợp đồng mua bán dăm mảnh với L, không xuất hóa đơn giá trị gia tăng,
không hạch toán vào sổ sách của HTX Duy B không đăng khai thuế.
Tòa án cấp thẩm xét xử bị cáo Đinh Đức T phạm tội Trốn thuế” căn
cứ, đúng pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Đinh Đức T thay đổi nội
dung kháng cáo từ kêu oan sang giảm nhẹ hình phạt. Xét thấy tại phiên tòa phúc
thẩm, bị cáo T thừa nhận hành vi phạm tội của mình tự nguyện nộp 50 triệu
đồng khắc phục hậu quả. Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm
trọng, bị cáo bvợ Thương binh nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ
quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Đề
nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đinh Đức T,
cho bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ snội dung ván, căn cứ vào các tài liệu trong hồ vụ án đã
được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Đinh Đức T thừa nhận hành vi phạm tội
của mình. Lời khai của bị cáo phợp với lời khai của bị cáo tại quan điều
tra, tài liệu thu giữ cùng các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ vụ án đủ
skết luận: Trong thời gian từ tháng 01/2018 đến tháng 6/2019, bị cáo Đinh
Đức T đã thực hiện thu mua gỗ nguyên liệu của các hộ dân trồng rừng trên địa
bàn huyện Hạ H, tỉnh Phú Thọ không hóa đơn chứng từ rồi sản xuất thành
hàng dăm mảnh tại xưởng của Hợp tác Duy B. Sau đó, bị cáo Đinh Đức T
xuất bán hàng cho Nguyễn Mai L theo thỏa thuận từ 1.100.000 đồng đến
1.200.000 đồng/tấn dăm mảnh (tùy vào từng thời điểm). Tổng số lượng xuất bán
6.791,072 tấn dăm mảnh gỗ với số tiền 8.036.727.155 đồng. Quá trình bán hàng
không ký hợp đồng mua bán hàng hóa, không xuất hóa đơn giá trị gia tăng. Bà L
đã thanh toán đầy đủ tiền mua hàng vào tài khoản cá nhân của bị cáo T. Toàn bộ
số tiền có được từ việc bán dăm mảnh gỗ cho Nguyễn Mai L, bị cáo T không
hạch toán các khoản thu liên quan đến việc xác định số tiền thuế phải nộp
trên hệ thống sổ sách kế toán của Hợp tác Duy B, không khai nộp thuế tại
Chi cục thuế khu vực Thanh B - Hạ H gây thất thu thuế cho ngân sách Nhà nước
số tiền 730.611.560 đồng tiền thuế giá trị gia tăng. Do đó, Tòa án nhân dân
tỉnh Phú Thọ đã xét xử bị cáo Đinh Đức T về tội Trốn thuế” theo điểm b khoản
2 Điều 200 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.
Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt được hưởng án treo của bị o
Đinh Đức T, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:
Mặc bị cáo Đinh Đức T Giám đốc Hợp tác nông nghiệp Duy B,
nhưng Hợp tác Duy B do bị cáo T thành lập mới hoạt động được một thời
gian ngắn bị cáo mới học hết lớp 9, nhận thức pháp luật hạn chế, không hiểu
biết quy định của pháp luật về quản doanh nghiệp đặc biệt chính sách về
9
thuế nên nhất thời phạm tội do thiếu hiểu biết pháp luật. Quá trình điều tra, xét
xử bị cáo T thành khẩn khai báo, b cáo nhân thân tốt, phạm tội lần đầu
thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Bị cáo nơi thường trú cụ thể ràng
việc làm ổn định (khi phạm tội bị cáo đang làm Giám đốc Hợp tác nông
nghiệp Duy B hiện nay Hợp tác xã nông nghiệp Duy B vẫn đang duy trì hoạt
động) nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, i khoản
1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo T xuất
trình tài liệu thể hiện bị cáo nộp 50.000.000 đồng để khắc phục hậu quả, thể hiện
thái độ thật sự ăn năn hối cải của bị cáo. Gia đình bị cáo có công với Cách mạng
(bố mẹ đẻ bmẹ vợ của bị cáo được tặng thưởng Huy chương kháng chiến)
và hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn. Xét thấy bị cáo T được hưởng nhiều tình
tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015,
nếu không bắt bị cáo đi chấp hành hình phạt thì cũng không gây nguy hiểm
cho hội. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ chấp nhận kháng cáo
của bị cáo, chấp nhận ý kiến đnghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp
cao tại Nội cho bị cáo được cải tạo tại địa phương, giao cho chính quyền địa
phương giám sát giáo dục bị cáo cũng đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và thể
hiện tính khoan hồng của pháp luật, tạo điều kiện cho bị cáo có cơ hội được tiếp
tục làm việc.
Về án phí: Kháng cáo của bị cáo được chấp nhận nên bị cáo Đinh Đức T
không phải chịu án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 2 Điều 357 Bộ luật Tố
tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý
và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận kháng cáo của bị o Đinh Đức T; sửa Bản án hình sự
thẩm số 31/2020/HSST ngày 21/7/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ về
phần hình phạt đối với bị cáo Đinh Đức T, cụ thể như sau:
- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 200; điểm i, s, khoản 1; khoản 2 Điều 51;
Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt: Bị cáo Đinh Đức T 18 (Mười m)
tháng về tội “Trốn thuế”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36
tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm. Giao bị cáo Đinh Đức T cho Ủy ban
nhân dân xã Đan T, huyện Hạ H, tỉnh Phú Thọ giám sát, giáo dục trong thời gian
thử thách. Trường hợp bị cáo Đinh Đức T thay đổi nơi trú thì thực hiện theo
quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo Đinh Đức T cố ý vi phạm nghĩa vụ
theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết
định buộc bị cáo Đinh Đức T phải chấp hành hình phạt của bản án đã cho
10
hưởng án treo.
2. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Đinh Đức T không phải chịu án phí
hình sự phúc thẩm.
3. Về biện pháp pháp: Xác nhận bị cáo Đinh Đức T đã nộp 50.000.000
đồng khắc phục hậu quả số tiền trốn thuế tại Biên lai số 0000117 ngày
27/5/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ. Bị cáo Đinh Đức T còn
phải nộp ngân sách Nhà nước số tiền trốn thuế n lại là 680.611.560 đồng (Sáu
trăm tám mươi triệu, sáu trămời một nghìn, năm trăm sáu mươi đồng).
4. Các quyết định khác của bản án hình sự thẩm không kháng cáo,
không bị kháng nghị hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo,
kháng nghị.
Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSNDCC tại Hà Nội;
- TAND tỉnh Phú Thọ;
- VKSND tỉnh Phú Thọ;
- Công an tỉnh Phú Thọ;
- Cục THADS tỉnh Phú Thọ;
- Bị cáo T (theo địa chỉ)
- Lưu HS, HCTP.
T/M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa
Nguyễn Phương Hạnh
Tải về
Bản án số 398A/2022/HS-PT Bản án số 398A/2022/HS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất