Bản án số 03/2024/HS-ST ngày 15-01-2024 của TAND tỉnh Hà Tĩnh về về tội trốn thuế
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
03_2024_HS_ST_HA_TINH.pdf
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
03_2024_HS_ST_HA_TINH.doc
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 03/2024/HS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 03/2024/HS-ST ngày 15-01-2024 của TAND tỉnh Hà Tĩnh về về tội trốn thuế |
|---|---|
| Tội danh: | 161.Tội trốn thuế (Bộ luật hình sự năm 1999) |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Hà Tĩnh |
| Số hiệu: | 03/2024/HS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 15/01/2024 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: | Hà Văn Q; Nguyễn Thị T phạm tội Trốn thuế. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH HÀ TĨNH
Bản án số: 03/2024/HS-ST
Ngày: 15 - 01- 2024
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Bùi Minh Thư
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Nguyển Tất Thể
Ông Bùi Văn Hồng
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Hải Thuần - Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Hà Tĩnh.
- Đại diện viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh tham gia phiên tòa: Ông
Nguyễn Hữu Đồng - Kiểm sát viên.
Ngày 15 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xét
xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 100/2023/TLST-HS, ngày 01
tháng 12 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 98/2023/QĐXXST-HS
ngày 29 tháng 12 năm 2023 đối với các bị cáo:
1. Hà Văn Q; giới tính: Nam; sinh ngày 11 tháng 11 năm 1969 tại huyện
C, tỉnh Hà Tĩnh; nơi cư trú: Thôn Sơn Trung, xã C, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh; là Đảng
viên Đảng cộng sản Việt Nam (đã bị đình chỉ sinh hoạt Đảng t ngày 24/7/2023, theo
Quyết định số: 89 – QĐ/UBKTHU ngày 24/7/2023 ca y Ban kiểm tra huyện y,
huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh); nghề nghiệp: Kinh doanh; trình độ văn hóa: lớp
9/10; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Văn H
(đã chết) và bà Nguyễn Thị L; có vợ Lê Thị T và 01 con sinh năm 1990; tiền án,
tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt tạm giam t ngày
13/7/2023, đến ngày 06/9/2023 được thay thế biện pháp ngăn chặn Bảo lĩnh. Có
mặt
2. Nguyễn Thị T; giới tính: Nữ; sinh ngày 06 tháng 6 năm 1991 tại huyện
C, tỉnh Hà Tĩnh; nơi cư trú: Thôn Đ, xã C, Thuyện C, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp:
Kế toán; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch:
Việt Nam; con ông Nguyễn Đình C và bà Nguyễn Thị Đ; có chồng Lê Ngọc Đ
và 02 con, lớn sinh năm 2017, nh sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: Không; bị
cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt tạm giam t ngày 13/7/2023, đến ngày
06/9/2023 được thay thế biện pháp ngăn chặn Bảo lĩnh. Có mặt
2
* Người có Q lợi nghĩa vụ liên quan:
- Chị Phạm Thị T, sinh năm 1987; địa chỉ: Tổ 3, phường T, thành phố H,
tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do (có đơn xin xét xử vắng mặt).
- Chị Trần Thị L, sinh năm 1993; địa chỉ: Số nhà 462, đường N, phường P,
thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do (có đơn xin xét xử
vắng mặt).
- Anh Hồ Văn C, sinh năm 1989; địa chỉ: Số 19, ngõ 64 đường T, phường
T, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do (có mặt).
- Anh Võ T, sinh năm 1973; địa chỉ: Thôn T, xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh;
nghề nghiệp: Lao động tự do (có đơn xin xét xử vắng mặt).
- Chị Võ Thị H, sinh năm 1984; địa chỉ: Thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Hà
Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do (có đơn xin xét xử vắng mặt).
- Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1985; địa chỉ: Thôn S, xã C, huyện C, tỉnh
Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do (có đơn xin xét xử vắng mặt).
- Anh Lê Xuân H, sinh năm 1976; địa chỉ: Thôn Q, xã C, huyện C, tỉnh Hà
Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do (có đơn xin xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG V N
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Công ty TNHH V được Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Hà Tĩnh cấp Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh số 3001448216, ngày 07/4/2011, mã số doanh
nghiệp 3001448216, vốn điều lệ 3.000.000.000 đồng, địa chỉ đăng ký kinh
doanh tại thôn Sơn Trung, xã C, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh, kinh doanh nhiều ngành
nghề trong đó có kinh doanh vật liệu xây dựng, vận tải đường bộ và thi công
công trình. Hà Văn Q làm Giám đốc, là người đại diện theo pháp luật ca công ty
trực tiếp chỉ đạo điều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh; Nguyễn Thị T làm
kế toán. Hình thức sử dụng hóa đơn GTGT bán ra: Xuất hóa đơn điện tử; Hình thức
kê khai thuế giá trị gia tăng: Theo phương pháp khấu tr thuế. Công ty TNHH V
thực hiện việc kê khai, nộp thuế tại Cục thuế tỉnh Hà Tĩnh.
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, Công ty TNHH V mua các mặt
hàng đất, cát không rõ nguồn gốc, không có hóa đơn, chứng t quyết toán. Để
hợp thức hóa mặt hàng đất, cát đã mua, Hà Văn Q chỉ đạo Nguyễn Thị T mua
các hóa đơn GTGT khống (không có hàng hóa dịch vụ kèm theo) và sử dụng bất
hợp pháp các hóa đơn này nhằm mục đích kê khai khấu tr thuế GTGT đầu vào
để trốn thuế. Sau đó, Nguyễn Thị T trực tiếp liên hệ mua 04 số hóa đơn GTGT đầu
vào ca Công ty TNHH xây dựng và vận tải T (viết tắt là công ty T), mã số thuế:
3001930483, địa chỉ tại xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh và 04 số hóa đơn ca Công
ty dịch vụ tổng hợp M (viết tắt là công ty M), mã số thuế: 3002154346, địa chỉ
tại phường Kỳ Long, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh, với tổng giá trị hàng hóa ghi

3
trong 08 số hóa đơn GTGT là 2.350.136.363 đồng, tiền thuế GTGT là
235.013.636 đồng, cụ thể:
1. Hành vi mua hóa đơn GTGT của Công ty TNHH xây dựng và vận tải T
để trốn thuế: Năm 2019, sau khi rà soát hóa đơn hàng hóa đất, cát đầu vào, đầu ra,
Công ty TNHH V còn thiếu hóa đơn mặt hàng đất, cát nên Hà Văn Q chỉ đạo
Nguyễn Thị T tìm kiếm đầu mối mua hóa đơn GTGT đầu vào để cân đối trên hồ sơ
kê khai thuế. Thông qua Trần Thị L (sinh năm 1993, trú tại thôn 2, xã Sơn Long,
huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh) giới thiệu, Nguyễn Thị T liên hệ với Phạm Thị
T (sinh năm 1987, trú tại phường P, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh) đặt vấn đề mua
các hóa đơn GTGT khống, Hoa đồng ý. Sau đó, Phạm Thị T liên hệ, trao đổi việc
mua bán hóa đơn GTGT với Hồ Văn C (sinh năm 1989, trú tại phường Thạch
Quý, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh, kế toán ca Công ty T), C đồng ý bán hóa đơn
GTGT khống cho công ty V với giá 12% giá trị hàng hóa chưa tính thuế ghi trên
hóa đơn. Sau đó, Phạm Thị T báo lại cho Nguyễn Thị T giá mua bán hóa đơn như
đã tha thuận với Hồ Văn C, T đồng ý và gửi các thông tin về mặt hàng, số lượng
và giá trị hàng hóa cần ghi trong hóa đơn GTGT qua tài khoản zalo cho Phạm Thị
T. Sau đó, Phạm Thị T chuyển các thông tin này cho Hồ Văn C để soạn thảo Hợp
đồng mua bán, Biên bản nghiệm thu, Biên bản đối chiếu công nợ và điền thông
tin vào các số hóa đơn GTGT theo yêu cầu ca Nguyễn Thị T. Khi hoàn thiện các
th tục trên, Hồ Văn C đưa lại cho Võ T (sinh năm 1973, trú tại thôn Trung Đức,
xã Kỳ Tân, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh, Giám đốc Công ty T) ký, đóng dấu rồi
C chuyển hóa đơn GTGT cùng hồ sơ liên quan cho Phạm Thị T để Hoa chuyển
lại cho Nguyễn Thị T. Với phương thức trên, t tháng 6/2019 đến tháng 9/2019
công ty TNHH V đã mua 04 số hóa đơn GTGT (không có hàng hóa dịch vụ kèm
theo) ca công ty T, gồm các số hóa đơn có mẫu 01GTKT3/001, ký hiệu TH/18P
số 100 ngày 20/6/2019, số 103 ngày 10/7/2019, số 120 ngày 10/8/2019, số 137
ngày 10/9/2019 với tổng giá trị tiền hàng chưa thuế ghi trên 04 số hóa đơn GTGT
là 1.452.636.363 đồng, tiền thuế GTGT là 145.263.636 đồng, chi phí mua hóa
đơn GTGT là 174.316.353 đồng. Để hợp thức việc mua bán hóa đơn GTGT,
Phạm Thị T chuyển số tiền 1.452.636.363 đồng vào tài khoản ca Nguyễn Thị T
số 0201000695581 mở tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam. Sau đó,
Nguyễn Thị T rút toàn bộ số tiền trên nộp vào tài khoản số 0201006696969 ca
công ty V mở tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam, T sử dụng y
nhiệm chi do Hà Văn Q ký khống để chuyển tổng số tiền 1.626.952.176 đồng
(bao gồm cả 12% giá mua bán hóa đơn, tương đương số tiền 174.316.353 đồng)
sang tài khoản ca công ty T số 0201000725372 mở tại Ngân hàng TMCP Ngoại
thương Việt Nam. Sau đó, Hồ Văn C sử dụng séc rút tiền do Võ T ký khống để
rút tiền mặt, sau khi tr chi phí bán hóa đơn tương ứng với 12% giá trị tiền hàng
chưa thuế ghi trong hóa đơn, C chuyển trả lại cho Phạm Thị T số tiền
1.452.636.363 đồng. Đối với số tiền bán hóa đơn GTGT có được, Hồ Văn C sử
dụng 10% tương đương với số tiền 145.263.636 đồng để nộp thuế cho công ty T;
còn lại 2% tương đương với số tiền 29.052.717 đồng, Hồ Văn C chia cho Phạm
Thị T 3.000.000 đồng và C hưởng lợi 26.052.717 đồng.

4
2. Hành vi mua hóa đơn GTGT của Công ty TNHH thương mại và dịch vụ
tổng hợp M để trốn thuế: Tháng 9/2020, thông qua hội nhóm kế toán trên mạng
xã hội Zalo, Nguyễn Thị T liên hệ với Võ Thị H (sinh năm 1984, trú tại xã Tân
Lâm Hương, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, kế toán Công ty M) đặt vấn đề mua
hóa đơn GTGT khống để hợp thức hàng hóa đầu vào, Hà đồng ý. Võ Thị H và
Nguyễn Thị T thống nhất, Công ty M sẽ bán 04 số hóa đơn GTGT mặt hàng đất,
cát (không có hàng hóa dịch vụ kèm theo) cho công ty TNHH V với giá 2% giá
trị tiền hàng chưa tính thuế ghi trên hóa đơn, đồng thời Hà yêu cầu chuyển khoản
đặt cọc tiền mua bán hóa đơn. Ngày 24/9/2020, Nguyễn Thị T hai lần chuyển tiền
t tài khoản cá nhân ca T số 0201000695581 mở tại Ngân hàng TMCP Ngoại
thương Việt Nam đến tài khoản cá nhân ca Võ Thị H số 1013651323 mở tại
Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam, với tổng số tiền 72.000.000 đồng để
đặt cọc tiền mua bán hóa đơn GTGT. Sau đó, Nguyễn Thị T gọi điện thoại trao
đổi với Võ Thị H thống nhất về mặt hàng, số lượng và giá trị hàng hóa cần ghi
trong hóa đơn. Sau khi có các thông tin do Nguyễn Thị T cung cấp, Võ Thị H
soạn thảo Hợp đồng mua bán, Biên bản nghiệm thu, Biên bản đối chiếu công nợ
và điền thông tin vào các số hóa đơn GTGT theo yêu cầu ca T. Sau đó, Võ Thị H
đưa các th tục trên cho Lê Xuân Hà, sinh năm 1976, trú tại xã Cẩm Trung,
huyện C, tỉnh Hà Tĩnh (Giám đốc công ty M) ký tên, đóng dấu và chuyển lại cho
Nguyễn Thị T. Với phương thức trên, công ty TNHH V đã mua 04 số hóa đơn
GTGT (không có hàng hóa dịch vụ kèm theo) ca công ty M, gồm các số hóa đơn
có mẫu 01GTKT0/001, ký hiệu MH/20E số 54 ngày 10/9/2020, số 55 ngày
12/9/2020, số 56 ngày 14/9/2020, số 122 ngày 25/12/2020 với tổng giá trị tiền
hàng chưa thuế ghi trên 04 số hóa đơn là 897.500.000 đồng, tiền thuế GTGT là
89.750.000 đồng, chi phí mua hóa đơn là 17.950.000 đồng. Do đến cuối tháng
9/2020, Nguyễn Thị T nghỉ sinh nên công ty V thuê Nguyễn Thị T, sinh năm
1985, trú tại thôn Sơn Trung, xã C, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh làm kế toán, tuy nhiên
mọi hoạt động phát sinh nghiệp vụ kế toán vẫn do Nguyễn Thị T điều hành chỉ
đạo. Để hợp thức việc mua bán hóa đơn GTGT, Nguyễn Thị T đã cung cấp tài
khoản cá nhân ca Nguyễn Thị T số 0201000606632 mở tại Ngân hàng TMCP
Ngoại thương Việt Nam cho Võ Thị H để Hà chuyển số tiền 987.150.000 đồng
vào tài khoản ca T. Sau đó, Nguyễn Thị T hướng dẫn Nguyễn Thị T rút tiền ra
nộp vào tài khoản công ty V số 0201006696969 mở tại Ngân hàng TMCP Ngoại
thương Việt Nam, đồng thời dùng y nhiệm chi do Hà Văn Q ký khống để
chuyển số tiền 987.150.000 đồng sang tài khoản ca công ty M số 1023366456
mở tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam. Võ Thị H sử dụng séc do Lê
Xuân Hà ký khống để rút tiền mặt ra sử dụng. Sau đó, Nguyễn Thị T và Võ Thị H
tính toán chi phí mua bán hóa đơn hết 17.950.000 đồng (tương đương 2% giá trị
hàng hóa chưa tính thuế ghi trên hóa đơn). Do Nguyễn Thị T đã đặt cọc trước
72.000.000 đồng nên Võ Thị H đã trả lại cho Nguyễn Thị T số tiền 54.050.000
đồng bằng tiền mặt.
Tại bản Kết luận giám định ngày 16/6/2023 ca Cục thuế tỉnh Hà Tĩnh kết
luận: Việc Công ty V sử dụng không hợp pháp 08 số hóa đơn GTGT ca Công
ty T và Công ty M để kê khai, khấu tr thuế GTGT đầu vào và đưa vào chi phí
5
sản xuất kinh doanh trong năm 2019 và năm 2020 với tổng giá trị hàng hóa ghi
trên các hóa đơn là 2.350.136.363 đồng (chi phí không được tr khi xác định thu
nhập tính thuế TNDN); tiền thuế GTGT đã khấu tr là: 235.013.636 đồng (thuế
GTGT đầu vào không được khấu tr khi xác định số thuế GTGT phải nộp)
nhằm làm giảm thuế GTGT, thuế TNDN phải nộp là hành vi trốn thuế. Số tiền
thuế GTGT đã trốn là 225.931.592 đồng; Số tiền thuế TNDN đã trốn là
353.750.682 đồng. Tổng số tiền thuế Công ty TNHH V đã trốn là 579.682.274
đồng.
* Vật chứng Cơ quan điều tra đã thu giữ: Quá trình điều tra vụ án, bị cáo
Hà Văn Q đã tự nguyện giao nộp số tiền 579.682.274 đồng vào tài khoản tạm giữ
ca Công an tỉnh Hà Tĩnh mở tại Kho bạc nhà nước tỉnh Hà Tĩnh. Số tiền này
được chuyển đến Cục thi hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh để xử lý theo quy định
ca pháp luật.
Với hành vi trên, tại bản Cáo trạng số 105/CT-VKSHT-P1, ngày 28 tháng
11 năm 2023 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh đã truy tố Hà Văn Q và
Nguyễn Thị T về tội “Trốn thuế” theo điểm b khoản 2 Điều 200 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh sau khi phân
tích, đánh giá tính chất hành vi ca vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự cũng như nhân thân ca các bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:
Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Hà Văn Q, Nguyễn Thị T phạm tội “Trốn
thuế”
Về hình phạt:
- Về hình phạt chính: Đề nghị hội đồng xét xử:
Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 4 Điều 200; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2
Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 54; Điều 65; Điều 35 Bộ luật hình sự, xử phạt
bị cáo Hà Văn Q t 09 tháng đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử
thách t 18 tháng đến 24 tháng tính t ngày tuyên án. Phạt bổ sung bằng tiền
50.000.000 đồng.
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 200, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51
Điều 17; Điều 58; Điều 54; Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị
T t 06 tháng đến 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách t 12 tháng
đến 18 tháng tính t ngày tuyên án.
Ngoài ra còn đề nghị tuyên về biện pháp tư pháp đối với các bị cáo và
những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; xử lý vật chứng, án phí và Q
kháng cáo theo quy định ca pháp luật.
Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến gì tranh
luận. Các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHN ĐNH CỦA TOÀ N
6
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã
được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng ca Cơ quan điều tra Công an tỉnh Hà
Tĩnh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, Kiểm sát viên trong
quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm Q, trình tự, th tục theo quy
định ca Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo
và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi,
quyết định ca Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các
hành vi, quyết định tố tụng ca Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa hôm nay các bị cáo đều tha nhận hành vi, cách thức thực
hiện tội phạm ca mình đúng như bản cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận tội ca
các bị cáo phù hợp với các lời khai ca những người liên quan, phù hợp với các
tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đ cơ sở khẳng
định:
Trong khoảng thời gian t tháng 6/2019 đến tháng 12/2020, Hà Văn Q là
Giám đốc (người đại diện theo pháp luật) ca công ty TNHH V đã chỉ đạo
Nguyễn Thị T là kế toán công ty liên hệ, mua và sử dụng 04 số hóa đơn GTGT
bất hợp pháp ca công ty TNHH xây dựng và vận tải T và 04 số hóa đơn GTGT
bất hợp pháp công ty TNHH thương mại và dịch vụ tổng hợp M với tổng giá trị
hành hóa ghi trên hóa đơn là 2.350.136.363 nhằm mục đích giảm số tiền thuế
phải nộp cho Nhà nước. Thông qua việc hợp thức 08 số hóa đơn GTGT đầu vào
ca Hà Văn Q và Nguyễn Thị T, công ty TNHH V đã trốn thuế giá trị gia tăng
và thuế thu nhập doanh nghiệp với tổng số tiền là 579.682.274 đồng.
[3] Các bị cáo là người có đầy đ năng lực hành vi và năng lực pháp luật,
nhận thức được việc trốn thuế ca mình bị nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực
hiện. Hành vi ca các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ
quản lý ca Nhà nước đối với các loại hóa đơn, chứng t, xâm phạm đến chế độ
quản lý thuế, gây thất thu ngân sách nhà nước; ảnh hưởng xấu đến tình hình phát
triển kinh tế, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Hành vi ca các bị cáo đã phạm vào tội “Trốn thuế” quy định tại điểm b
khoản 2 Điều 200 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Cáo trạng số 105/CT-VKSHT-P1,
ngày 28 tháng 11 năm 2023 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh truy tố các bị
cáo Hà Văn Q, Nguyễn Thị T về tội “Trốn thuế” theo điểm b khoản 2 Điều 200
Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan sai.
Trong vụ án này, Hà Văn Q là người giữ vai trò chính, trực tiếp chỉ đạo
thực hiện hành vi phạm tội; Nguyễn Thị T giữ vai trò đồng phạm thực hành tích
cực.
[4] Xét về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các
bị cáo:
7
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự.
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Bị cáo Hà Văn Q được hưởng các tình tiết giảm nhẹ: “Tự nguyện khắc
phục hậu quả”; “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”; “Thành
khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại các điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ
luật hình sự. Ngoài ra, bị cáo Hà Văn Q được Ban chấp hành Đảng bộ xã C và
UBND xã C, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh tặng nhiều Giấy khen trong công tác xây
dựng Đảng và trong sản xuất kinh doanh; Ban chấp hành hội nạn nhân chất độc
da cam Dioxin xã C tặng Giấy chứng nhận vì nạn nhân chất độc da cam Dioxin;
có bố là ông Hà Văn Hứa được tặng Huy chương kháng C hạng nhì, bà nội Hà
Thị Đị được UBND tỉnh Hà Tĩnh tặng Bằng khen trong cuộc kháng C chống
Pháp; ông nội Hà Văn Thàng là cán bộ lão thành cách mạng trước tháng 8/1945;
chú ruột Hà Văn Mỹ Liệt sỹ, là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều
51 Bộ luật hình sự.
Bị cáo Nguyễn Thị T được hưởng các tình tiết giảm nhẹ: “Phạm tội lần đầu
và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”; “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”
quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, bị cáo Nguyễn
Thị T được Ch tịch UBND huyện C, tỉnh Hà Tĩnh tặng giấy khen trong thi đua
“Lao động gii, lao động sáng tạo” năm 2018; có bố Nguyễn Đình Cháu được
tặng Huân chương C sỹ giải phóng và Huân chương kháng C chống Mỹ, quy
định tại khoản 2, Điều 51 Bộ luật hình sự.
[5] Xét thấy, các bị cáo Hà Văn Q, Nguyễn Thị T đều phạm tội lần đầu và
thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình
sự; có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1, khoản
2 Điều 51 Bộ luật hình sự, có nơi cư trú rõ ràng. Do đó không cần thiết phải
cách ly các bị cáo ra khi đời sống xã hội mà cho các bị cáo có cơ hội được sửa
chữa lỗi lầm ca mình dưới sự giám sát ca chính Q địa phương và gia đình như
đề nghị ca Viện kiểm sát là phù hợp và cũng đ nghiêm.
[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy cần áp dụng khoản 4 Điều 200; khoản 2,
3 Điều 35 Bộ luật hình sự phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo Hà Văn Q như
đề nghị ca Viện kiểm sát là phù hợp.
Đối với bị cáo Nguyễn Thị T, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo hoàn cảnh
khó khăn, không có việc làm ổn định, đang nuôi hai con nh do đó, xét thấy
không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo như đề nghị ca Viện
kiểm sát là có căn cứ.
[7] Về vật chứng và biện pháp tư pháp:
Tổng số tiền bị cáo Hà Văn Quyền trốn thuế là 579.682.274 đồng. Quá trình
điều tra, bị cáo Hà Văn Q đã tự nguyện giao nộp số tiền trốn thuế là 579.664.274
đồng vào tài khoản tạm giữ ca Công an tỉnh Hà Tĩnh mở tại Kho bạc nhà nước
tỉnh Hà Tĩnh đã được chuyển vào tài khoản tạm giữ ca Cục Thi hành án dân sự
8
tỉnh Hà Tĩnh mở tại Kho bạc nhà nước tỉnh Hà Tĩnh theo y nhiệm chi số 299 lập
ngày 06/12/2023; bị cáo Nguyễn Thị T nộp số tiền 218.000 đồng tại Cục Thi hành
án dân sự tỉnh Hà Tĩnh, theo biên lai thu tiền số 0000911, ngày 22/11/2023, số
tiền bị cáo T đã nộp sau khi tr đi số tiền trốn thuế còn thiêu 18.000 đồng còn
tha 200.000 đồng trả lại cho bị cáo T.
Đối với số tiền 26.052.717 đồng ca Hồ Văn C; 3.000.000 đồng ca Phạm
Thị Hoa và 17.950.000 đồng ca Võ Thị H, Hội đồng xét xử xét thấy, hành vi ca
các đối tượng trên chưa đ để cấu thành tội phạm, tuy nhiên số tiền này các đối
tượng trên thu lợi bất chính t hành vi mua bán trái phép hóa đơn mà có.
Do đó, cần áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46, điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ
luật Hình sự và điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu, truy
thu nộp ngân sách nhà nước số tiền các bị cáo trốn thuế và số tiền những người
có quyền lợi nghĩa vụ liên quan thu lợi bất chính nói trên.
[9] Những vấn đề khác liên quan trong vụ án:
Đối với Trần Thị L là người thực hiện việc kê khai thuế và làm báo cáo tài
chính cho công ty V, đồng thời theo khai nhận ca Nguyễn Thị T thì Trần Thị L
là người cung cấp số điện thoại ca Phạm Thị T cho Nguyễn Thị T để liên lạc trao
đổi việc mua bán hóa đơn GTGT đầu vào ca công ty T. Tuy nhiên, Trần Thị L
không tham gia vào hoạt động kinh doanh ca công ty, không biết mục đích
Nguyễn Thị T liên hệ với Phạm Thị T để mua bán hóa đơn đầu vào cho công ty
nhằm hợp thức số lượng hàng hóa không rõ nguồn gốc để trốn thuế nên Cơ quan
điều tra không đề cập hình thức xử lý trách nhiệm hình sự đối với Trần Thị L là
có căn cứ.
Đối với Nguyễn Thị T là người thực hiện việc nhận tiền t Võ Thị H và
thực hiện việc chuyển tiền t tài khoản ca công ty V đến tài khoản ca công ty
M để hợp thức số tiền mua bán hóa đơn GTGT. Tuy nhiên, Nguyễn Thị T thực
hiện các nhiệm vụ trên theo chỉ đạo ca Nguyễn Thị T, T không bàn bạc, trao
đổi, thống nhất với các đối tượng và không biết việc công ty V mua 04 số hóa
đơn GTGT đầu vào ca công ty M nên Cơ quan điều tra không đề cập hình thức
xử lý trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Thị T là có căn cứ.
Đối với Phạm Thị T là người môi giới để công ty V mua 04 số hóa đơn
GTGT ca công ty T. Quá trình điều tra xác định số tiền các đối tượng thu lợi
bất chính t hành vi mua bán 04 số hóa đơn trên là 29.052.727 đồng (dưới
30.000.000 đồng) và số lượng hóa đơn mua bán dưới 10 số nên hành vi ca
Phạm Thị T không cấu thành tội “Mua bán trái phép hóa đơn”.
Đối với Võ T là giám đốc và Hồ Văn C là kế toán công ty T: Quá trình điều
tra xác định Hồ Văn C là người trực tiếp tha thuận, thống nhất việc mua bán 04
số hóa đơn GTGT cho công ty V thông qua Phạm Thị T, còn Võ T là người ký
các hồ sơ, tài liệu để Hồ Văn C hợp thức việc bán 04 số hóa đơn nêu trên. Tuy
nhiên, số tiền mà Hồ Văn C hưởng lợi t việc bán 04 số hóa đơn GTGT dưới
30.000.000 đồng và số lượng bán hóa đơn dưới 10 số nên Cơ quan điều tra
9
không đề cập hình thức xử lý trách nhiệm hình sự đối với Hồ Văn C và Võ T là
có căn cứ.
Đối với Võ Thị H là người trực tiếp tha thuận, thống nhất với Nguyễn Thị
T về việc mua bán 04 số hóa đơn GTGT giữa công ty M và công ty V. Quá trình
điều tra xác định, số tiền Võ Thị H thu lợi bất chính t hành vi mua bán 04 số
hóa đơn trên là 17.950.000 đồng (dưới 30.000.000 đồng) và số lượng hóa đơn
mua bán dưới 10 số nên hành vi ca Võ Thị H không cấu thành tội “Mua bán
trái phép hóa đơn”.
Đối với Lê Xuân Hà là giám đốc ca công ty M, tuy nhiên trên thực tế Lê
Xuân Hà là người được Võ Thị H nhờ đứng tên làm giám đốc, còn Lê Xuân Hà
không tham gia vào hoạt động kinh doanh ca công ty M và không được hưởng
lợi t việc bán 04 số hóa đơn GTGT cho công ty V nên Cơ quan điều tra không
đề cập hình thức xử lý trách nhiệm hình sự đối với Lê Xuân Hà là có căn cứ.
[8] Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1
Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 ca UBTV Quốc Hội buộc các bị cáo Hà Văn Q, Nguyễn Thị T mỗi
bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐNH:
1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Hà Văn Q; Nguyễn Thị T phạm tội
“Trốn thuế”.
2. Về hình phạt chính:
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 200, điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 17; Điều 58; Điều 54; Điều 65 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Hà Văn Q 10
(mười) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 20 tháng tính t
ngày tuyên án.
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 200, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều
17; Điều 58; Điều 54; Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị T 07
(bảy) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 14 tháng tính t ngày
tuyên án.
Giao các bị cáo Hà Văn Q và Nguyễn Thị T cho y ban nhân dân xã C,
huyện C, tỉnh Hà Tĩnh và gia đình giám sát, giáo dục các bị cáo trong thời gian
thử thách.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ
02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải
chấp hành hình phạt tù ca bản án đã cho hưởng án treo. Trong trường hợp
người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại
Điều 87, Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.
10
3. Về hình phạt bổ sung: Căn cứ khoản 4 Điều 200; khoản 2, 3 Điều 35 Bộ
luật hình sự, phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo Hà Văn Q 50.000.000 đồng
(năm mươi triệu đồng).
4. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều
46, điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ
luật Tố tụng hình sự:
- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 579.682.274 đồng mà bị cáo Hà
Văn Quyền trốn thuế (số tiền này bị cáo Q đã nộp 579.664.274 đồng vào tài
khoản tạm giữ ca Công an tỉnh Hà Tĩnh mở tại Kho bạc nhà nước tỉnh Hà Tĩnh
đã được chuyển vào tài khoản tạm giữ ca Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh
mở tại Kho bạc nhà nước tỉnh Hà Tĩnh theo y nhiệm chi số 299 lập ngày
06/12/2023; bị cáo Nguyễn Thị T đã nộp 18.000 đồng trong số 218.000 đồng tại
biên lai thu tiền số 0000911 ngày 22/11/2023 ca Cục thi hành án dân sự tỉnh Hà
Tĩnh); trả lại cho bị cáo T số tiền còn tha 200.000 đồng bị cáo đã nộp tại Cục
Thi hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh theo Biên lai số 0000911, ngày 22/11/2023.
- Truy thu nộp ngân sách nhà nước số tiền những người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan thu lợi bất chính gồm: Hồ Văn C 26.052.717 đồng; Phạm Thị T
3.000.000 đồng; Võ Thị Thu Hà 17.950.000 đồng.
5. Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1
Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 ca U ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án và Danh mục án phí, lệ phí
tòa án kèm theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14: Buộc các bị cáo Hà Văn Q,
Nguyễn Thị T mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí
hình sự sơ thẩm.
6. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, người có Q lợi nghĩa vụ liên quan có
mặt có Q kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể t ngày tuyên án. Những
người có Q lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có Q kháng cáo bản án trong thời
hạn 15 ngày kể t ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Nơi nhận:
- TAND Cấp cao tại Hà Nội;
- VKSND Cấp cao tại Hà Nội;
- VKSND tỉnh Hà Tĩnh;
- Công an tỉnh Hà Tĩnh;
- Sở Tư pháp tỉnh Hà Tĩnh;
- PV 06 Công an tỉnh Hà Tĩnh;
- PC 03 Công an tỉnh Hà Tĩnh;
- Các bị cáo;
- Người liên quan;
- Lưu HSVA, lưu VT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Bùi Minh Thư
11
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 29/09/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 12/09/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 09/09/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 15/02/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 10/06/2022
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 27/05/2022
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 04/04/2022
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 15/06/2021
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 23/04/2021
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 09/04/2021
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 07/01/2021
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 25/11/2020
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 07/09/2020
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 07/08/2020
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 30/07/2020
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 06/07/2020
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 16/06/2020
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 04/06/2020
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 13/05/2020
Cấp xét xử: Sơ thẩm