Bản án số 43/2022/HS-ST ngày 25/02/2022 của TAND huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai về tội hủy hoại tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 43/2022/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 43/2022/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 43/2022/HS-ST ngày 25/02/2022 của TAND huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai về tội hủy hoại tài sản |
---|---|
Tội danh: | |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Thống Nhất (TAND tỉnh Đồng Nai) |
Số hiệu: | 43/2022/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 25/02/2022 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỐNG NHẤT, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 43/2022/HS-ST NGÀY 25/02/2022 VỀ TỘI HỦY HOẠI TÀI SẢN
Ngày 25 tháng 02 năm 2022, tại Hội trường A Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai, Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất xét xử công khai án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 37/2022/HSST ngày 13 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2022/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 02 năm 2022, đối với bị cáo:
Nguyễn Hoàng D (theo bị cáo trình bày tại phiên tòa, bị cáo không có tên gọi khác), sinh năm 1987 tại Đồng Nai. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: 56/1A ấp V, xã G, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai. Nghề nghiệp: buôn bán; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn D1, sinh năm: 1965 và bà Nguyễn Thị Xuân M, sinh năm 1968; Bị cáo có vợ là Nguyễn Thị Bích T, sinh năm 1990; có 03 con, lớn sinh nhất năm 2013, nhỏ sinh năm 2017.
+/ Tiền án, tiền sự: Không Quá trình điều tra, bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh. Bị cáo có mặt tại phiên tòa Người bào chữa cho bị cáo có ông Sin Thoại K, luật sư thuộc Công ty Luật TNHH MTV Thoại K, Đoàn Luật sư tp. Hồ Chí Minh. (Luật sư K có mặt tại phiên tòa).
* Bị hại: Ông Nguyễn Văn D1, sinh năm 1965 1 Địa chỉ: 56/1A ấp V, xã G, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Anh Phạm Quốc T, sinh năm 1995 Địa chỉ: ấp V, xã G, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai.
+ Chị Phạm Thị Thùy Tr, sinh năm 1981 Địa chỉ: ấp V, xã G, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai. (Ông D1 có mặt, chị Tr và anh T vắng mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 21 giờ tối ngày 09/6/2021 ông Nguyễn Văn D1 sinh năm 1965 trú tại ấp V, xã G, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai mượn từ anh Phạm Quốc T sinh năm 1995, cùng trú tại ấp V, xã G, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai 01 xe mô tô hiệu Honda Vision màu trắng biển số 60B7-414.62 để đi về nhà. Đến 14 giờ chiều ngày 10/6/2021, bị cáo Nguyễn Hoàng D là con trai của ông D1 đi nhậu về, lúc này giữa ông D1 và Nguyễn Hoàng D xảy ra mâu thuẫn, cãi vã. Sau đó, D đi vào nhà bếp lấy 01 cây tuýp sắt dài 1,2m, đường kính 27mm cầm trên tay phải ra phòng khách nơi dựng chiếc mô tô Honda Vision đập từ 3 đến 4 cái vào các vị trí đầu xe, yếm nhựa phía trước và bên hông làm bể nát dàn nhựa đầu xe. Chưa dừng lại, Nguyễn Hoàng D tiếp tục dắt chiếc mô tô kể trên ra ngoài cổng, dựng ngay vị trí sát mép đường V - L, sau đó vào nhà lấy ra 01 chai trà xanh chứa khoảng 200ml xăng, 01 khò ga mini (gồm 01 bình ga mini và 01 đầu khò) rồi tưới xăng lên toàn bộ phần đuôi xe, dùng khò ga châm lửa đốt làm chiếc xe bốc cháy. Sau khoảng 15 phút, chiếc xe bị phá hủy hoàn toàn. Công an xã G đã đến ghi nhận hiện trường, đưa bị cáo D về làm việc.
Căn cứ kết luận định giá tài sản số 587/KL-HĐĐGTS ngày 23/6/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Thống Nhất xác định: 01 xe mô tô biển số 60B7-414.62 nhãn hiệu Honda, màu trắng, số loại VISION đã qua sử dụng có giá trị tại thời điểm định giá ngày 10/6/2021 là 23.000.000 đồng.
Quá trình điều tra, bị cáo Nguyễn Hoàng D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Tại bản Cáo trạng số 10/CT-VKS-TN ngày 07/01/2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất đã truy tố bị cáo Nguyễn Hoàng D về tội "Hủy hoại tài sản" theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 178 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất giữ nguyên quan điểm về nội dung vụ án, tội danh, khung hình phạt đã truy tố đối với bị cáo. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, quá trình điều tra, truy tố bị cáo thành khẩn khai báo, sau khi phạm tội bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại về tài sản cho bị hại; bị hại có đơn bãi nại trách nhiệm dân sự và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Từ những lập luận trên, áp dụng điểm d khoản 2 Điều 178; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng D từ 02 năm 06 tháng tù đến 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 năm.
+/ Vật chứng của vụ án:
- 01 tuýp sắt tròn dài 1,2m, đường kính 27mm, 01 khò ga mini (gồm bình ga mini và đầu khò), 01 vỏ chai đựng xăng là công cụ Nguyễn Hoàng D sử dụng vào hành vi phạm tội, sau đó đã làm thất lạc, cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành truy tìm vật chứng nhưng không có kết quả.
- 01 xe mô tô hiệu Honda Vision màu trắng biển số 60B7-414.62 đã bị cháy hỏng hoàn toàn, cơ quan Cảnh sát điều tra đã trao trả lại cho ông Nguyễn Văn D1.
+/ Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Sau sự việc, ông Nguyễn Văn D1 đã mua lại chiếc xe kể trên của anh Phạm Quốc T với giá 23.000.000 đồng. Ông D1 yêu cầu Nguyễn Hoàng D phải bồi thường số tiền 23.000.000 đồng, bị cáo D đã bồi thường số tiền 23.000.000 đồng cho ông D1, ông D1 đã làm đơn bãi nại về dân sự, cam kết không thắc mắc khiếu nại về sau.
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Hoàng D đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, bị cáo không có ý kiến về tội danh, khung hình phạt, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát vừa đề nghị đối với bị cáo và không có ý kiến.
Bị hại ông Nguyễn Văn D1 không có ý kiến về tội danh, khung hình phạt, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát vừa đề nghị đối với bị cáo và không có ý kiến hay tranh luận gì.
Phần tranh luận, bào chữa của luật sư: Bị cáo phạm tội do nóng nảy nên đã nhất thời có hành vi trái pháp luật như trên, sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, bồi thường thiệt hại cho bị hại, bị cáo lần đầu phạm tội và là lao động duy nhất trong gia đình nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo để bị cáo có cơ hội sửa chữa sai lầm của bản thân.
Bị cáo không có tranh luận và bổ sung gì khác.
Bị cáo nói lời sau cùng:
Bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Thống Nhất, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Hoàng D đã thừa nhận hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng cứ có tại hồ sơ, đủ cơ sở kết luận: Vào lúc 14 giờ 00 phút ngày 10/6/2021, tại nhà của bị cáo Nguyễn Hoàng D thuộc ấp V, xã G, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai do phát sinh mâu thuẫn với cha ruột của mình là ông Nguyễn Văn D1 nên bị cáo D đã có hành vi dùng tuýp sắt dài 1,2m đường kính 27mm và xăng để đập phá và đốt 01 xe mô tô hiệu Honda Vision màu trắng biển số 60B7-414.62 của ông D1. Giá trị thiệt hại theo kết luận định giá tài sản số 587/KL-HĐĐGTS ngày 23/6/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Thống Nhất xác định: 01 xe mô tô mang biển số 60B7-414.62 nhãn hiệu Honda, màu trắng, số loại VISION đã qua sử dụng có giá trị tại thời điểm định giá ngày 10/6/2021 là 23.000.000 đồng (Hai mươi ba triệu đồng). Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất truy tố bị cáo Nguyễn Hoàng D về tội “Hủy hoại tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 178 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, sau khi phạm tội bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho bị hại, bị hại ông Dũng đã có đơn xin bãi nại trách nhiệm dân sự và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nên cần áp dụng để xem xét cho bị cáo.
[5] Hành vi như trên của bị cáo đã xâm phạm tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội tại địa phương, nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo xuất phát từ mâu thuẫn trong sinh hoạt gia đình giữa bị cáo với cha mình. Do bị cáo có hai tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, có nơi cư trú ổn định, rõ ràng và là lao động chính trong gia đình, đang nuôi con nhỏ nên không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà xử phạt tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo theo quy định của pháp luật là đủ răn đe, giáo dục đối với bị cáo.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Ông Nguyễn Văn D1 đã nhận số tiền do bị cáo bồi thường thiệt hại là 23.000.000 đồng (hai mươi ba triệu đồng) và không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[7] Vật chứng của vụ án:
[7.1] Xe mô tô hiệu Honda Vision màu trắng biển số 60B7-414.62 là tài sản của anh Nguyễn Quốc T cho ông D1 mượn, sau khi xe bị hư hỏng ông D1 đã mua lại với giá 23.000.000 đồng, anh T đồng ý và không có ý kiến hay yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[7.2] Xe mô tô hiệu Honda Vision màu trắng biển số 60B7-414.62 đã bị cháy hỏng hoàn toàn, do ông D1 đã mua lại của ông T nên cơ quan Cảnh sát điều tra đã trao trả lại cho ông Nguyễn Văn D1. Chủ sở hữu đã nhận lại tài sản và không có ý kiến hay yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[8] Xét phần bào chữa của luật sư cho bị cáo phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên ghi nhận.
[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
[1] Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 178; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Áp dụng Điều 2 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo.
[2] Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Hoàng D phạm tội “Hủy hoại tài sản”.
[3] Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hoàng D 03 (ba) năm tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 05 (năm) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
[3.1] Giao cho Ủy ban nhân dân xã G, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai quản lý, giám sát, giáo dục bị cáo Nguyễn Hoàng D trong thời gian thử thách.
[3.2] Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 92 Luật Thi hành án hình sự 2019.
[3.3] Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
[4] Về án phí:
[4.1] Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
[4.2] Buộc bị cáo Nguyễn Hoàng D phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
[5] Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!