Bản án số 42/2025/DS-ST ngày 10/04/2025 của TAND huyện Bến Lức, tỉnh Long An về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 42/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 42/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 42/2025/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 42/2025/DS-ST ngày 10/04/2025 của TAND huyện Bến Lức, tỉnh Long An về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Bến Lức (TAND tỉnh Long An) |
Số hiệu: | 42/2025/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 10/04/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Nguyễn Văn Út H "Quyền sử dụng đất" Trần Hoàng P |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN BẾN LỨC
TỈNH LONG AN
Bản án số: 42/2025/DS-ST
Ngày: 10 - 4 - 2025
V/v: “Tranh chấp quyền sử
dụng đất, yêu cầu công nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu tài sản trên đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẾN LỨC, TỈNH LONG AN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Thái Thị Thanh Thúy
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Dương Công Danh
2. Ông Tống Văn Truyền
- Thư ký phiên tòa: Ông Lê Phước Long – Thư ký Tòa án nhân dân huyện Bến
Lức, tỉnh Long An.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An tham gia
phiên tòa: Bà Ngô Thị Quỳnh Hương - Kiểm sát viên.
Ngày 10 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh
Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 64/2023/TLST-DS ngày 09 tháng 3
năm 2023 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu công nhận quyền sử
dụng đất và quyền sở hữu tài sản trên đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ
thẩm số 57/2025/QĐXXST-DS ngày 24 tháng 3 năm 2025 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn U H, sinh năm 1978; Địa chỉ: Ấp 4, xã Đ,
huyện Đ, tỉnh Long An.
Bị đơn:
1. Ông Trần H Ph, sinh năm 1979;
2. Bà Trần Th N, sinh năm 1976;
Người đại diện hợp pháp theo ủy quyền của Nữ: Ông Trần H Ph, sinh năm
1979; Địa chỉ: Ấp 2, xã Th, huyện B, tỉnh Long An (theo Văn bản ủy quyền ngày
26/12/2024)
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
2
1. Bà Hồ Thị Th H, sinh năm 1976; Địa chỉ: Ấp 4, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Long
An.
2. Ông Nguyễn Văn Tuấn, sinh năm 1986; Địa chỉ: Ấp 2, xã Th, huyện B, tỉnh
Long An.
3. Ông Hồ M S, sinh năm 1968;
4. Bà Nguyễn Th TH, sinh năm 1977;
Cùng địa chỉ: Ấp 1A, xã Hựu Thạnh, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.
5. Bà Huỳnh K Nh, sinh năm 1952;
6. Ông Trần Văn Nh, sinh năm 1948;
7. Bà Bùi Ngọc D , sinh năm 1986;
Người đai diện hợp pháp theo ủy quyền của bà Nh, ông Nh1và bà D : Ông
Trần H Ph, sinh năm 1979 (theo Văn bản ủy quyền ngày 26/12/2024 và ngày
15/01/2025)
Cùng địa chỉ: Ấp 2, xã Th, huyện B, tỉnh Long An.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Đơn khởi kiện ghi ngày 01/02/2023, Đơn sửa đổi bổ sung yêu cầu khởi
kiện ngày 22/01/2024 cũng như trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông
Nguyễn Văn U H trình bày:
Phần đất các bên tranh chấp có tổng diện tích là 197.4m
2
thuộc một phần thửa
198, tờ bản đồ số 64, tọa lạc xã Thi, huyện B, tỉnh Long An theo Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số CR 149373, số vào sổ cấp GCN:CS 12054 do Sở Tài nguyên
và Môi trường tỉnh Long An cấp ngày 18/4/2019 đứng tên ông Nguyễn Văn U H
(từ đây gọi tắt là thửa 198). Cụ thể, phần đất này thuộc các vị trí gồm khu D1 diện
tích 123.2m
2
, khu D2 là 14.4m
2
, khu D3 diện tích 58.2m
2
và khu D4 là 1.6m
2
theo
Mảnh trích đo bản đồ địa chính số 415-2024 do Công ty TNHH đo đạc nhà đất
Hưng Phú đo vẽ ngày 07/10/2024 được Chi nhánh VPĐKĐĐ tại huyện Bến Lức
duyệt ngày 28/10/2024 và Mảnh trích đo phân khu số 415A-2024 do Công ty
TNHH đo đạc nhà đất Hưng Phú thực hiện ngày 31/12/2024 (từ đây gọi tắt lần lượt
là Mảnh trích đo bản đồ địa chính số 415-2024 và Mảnh trích đo phân khu số
415A-2024). Nguồn gốc phần đất tranh chấp trước đây thuộc một phần thửa 34 và
47 của ông Nguyễn Văn Khích, sau đó ông Khích tặng cho lại con ruột là ông
Nguyễn Văn Tuấn. Ông Tuấn nhập thành thửa 82 và tách thành nhiều thửa, trong
đó có thửa 196 tờ bản đồ số 64 (từ đây gọi tắt là thửa 196) để chuyển nhượng lại
cho anh vợ của ông là ông Hồ M S. Năm 2019, ông Sương tách thửa 196 thành hai
thửa gồm thửa 198 và thửa 196pcl để chuyển nhượng lại thửa 198 cho ông theo
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập giữa bên chuyển nhượng
là ông Hồ M S, bà Nguyễn Th TH với bên nhận chuyển nhượng là ông, được Văn
phòng công chứng Phương Nam chứng nhận số công chứng 2998, quyển số 02
TP/CC-SCC/HĐGD ngày 26/3/2019. Khi chuyển nhượng có tiến hành đo đạc, cụ
thể thửa 198 ông nhận chuyển nhượng có tứ cận gồm cạnh phía Đông giáp thửa
196 có chiều dài là 207.75m, cạnh phía Tây giáp thửa 48 có chiều dài là 141.31m
3
và thửa 164 có chiều dài là 64m, cạnh phía Nam giáp với bờ đê có chiều dài là
9.6m, cạnh phía Bắc giáp với thửa 119 có chiều dài là 9.4m. Trước khi nhận
chuyển nhượng, ông không đến xem đất vì ông Sương xác định đã có ranh là
đường mương nước rồi, ông cũng có nhìn thấy bản ranh do chủ đất liền kề là bà Nữ
và ông Phong ký cho ông Tuấn nên ông không hỏi lại bà Nữ và ông Phong. Ông
xác định từ thời ông Khích đến ông Tuấn, ông Sương rồi đến ông thì đều sử dụng
đúng vị trí ranh đất này, dù vn chưa cắm ranh nhưng cũng không có ai tranh chấp.
Khi nhận chuyển nhượng, phần đất của ông có bờ đất và ông cho người khác thuê
để trồng mai. Bờ này là do ba ông Phong là ông Trần Văn Nh và ba ông Tuấn là
ông Nguyễn Văn Khích cùng đắp để hai bên làm ruộng và cho người khác đi chung
chứ thực tế không ai canh tác trên đây. Đầu năm 2022, ông có cắm trụ bê tông theo
đúng vị trí đất của ông nhận chuyển nhượng nhưng đến tháng 8 năm 2022 thì ông
phát hiện ông Phong nhổ hết trụ vì cho rằng toàn bộ bờ đất là của ông Phong được
ba ông Phong là ông Trần Văn Nh đắp từ xưa đến nay, nên hai bên phát sinh tranh
chấp.
Do đó, nay ông khởi kiện yêu cầu: Ông Trần H Ph và bà Bùi Ngọc D trả lại
cho ông quyền sử dụng đất tại vị trí khu D1 diện tích 123.2m
2
và khu D2 là 14.4m
2
tổng diện tích là 137.6m
2
; Bà Trần Th N trả lại quyền sử dụng đất tại vị trí khu D3
diện tích 58.2m
2
và khu D4 là 1.6m
2
tổng diện tích là 59.8m
2
đều thuộc một phần
thửa 198 của ông. Ông xác đinh ông chỉ tranh chấp các khu D1, D2, D3 và D4 nêu
trên, ngoài ra không còn tranh chấp quyền sử dụng đất nào khác và cũng không còn
yêu cầu khởi kiện nào khác.
Tại Đơn phản tố ngày 07/01/2025 cũng như trong quá trình giải quyết vụ án,
bị đơn ông Trần H Ph trình bày:
Ông thống nhất với lời trình bày của nguyên đơn về vị trí mà hiện nay các bên
tranh chấp là tại khu D1, khu D2, khu D3 và khu D4 được thể hiện theo Mảnh trích
đo bản đồ địa chính số 415-2024 và Mảnh trích đo bản đồ địa chính phân khu số
415A-2024; riêng về nguồn gốc đất cũng như quá trình quản lý sử dụng đất thì ông
không thống nhất. Nguồn gốc đất tranh chấp tại vị trí khu D1, D2 trước đây thuộc
thửa 48 và khu D3, D4 thuộc thửa 57 cùng TBĐ số 3 của ba ruột ông là ông Trần
Văn Nh khai hoang và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày
03/7/1997. Từ khi khai hoang, ông Nh1có đắp bờ để sử dụng và làm lối đi chung
cho những chủ đất lân cận, đến năm 2008 ông Nh1tặng cho lại thửa 48 cho ông và
thửa 57 cho bà Nữ. Sở dĩ kết quả đo đạc thể hiện các khu đất này thuộc thửa 198
của ông Hai là vì khi ba ông kê khai cấp giấy thì khai thiếu phần này nên phần đất
này nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Văn Khích.
Hiện trạng phần đất tranh chấp là bờ đất do ba ông đắp và sử dụng cách nay khoảng
36 năm, đây cũng là ranh giữa thửa 48 và 57 (nay là thửa 48 và 164) của ba ông với
thửa 34 và 47 của ông Nguyễn Văn Khích. Từ thời ba ông và ông Khích đã sử dụng
ổn định, đến khi ba ông chuyển qua cho ông và bà Nữ, còn ông Khích chuyển cho
ông Tuấn thì các bên cũng sử dụng ổn định mà không ai tranh chấp. Năm 2017,
ông Tuấn thực hiện cấp đổi thì ông có ký ranh cho ông Tuấn nhưng khi ông Tuấn
chuyển nhượng lại cho ông Sương và ông Sương chuyển nhượng lại cho ông Hai
thì ông không biết vì không kêu ông ký tên. Từ khi mua thì ông Hai cho người khác
thuê, người thuê không sử dụng phần bờ nên ông không có ý kiến. Năm 2022, ông
4
Hai tự cắm trụ bê tông trên bờ đất là lấn qua thửa 48 của ông và thửa 164 của bà
Nữ nên ông không đồng ý cho cắm trụ và xảy ra tranh chấp. Ông xác định khu đất
tranh chấp do ba ông sử dụng và đắp bờ toàn bộ các thửa đất liền kề, những người
chủ sau đến sử dụng và đều biết bờ đất này là của ba ông, nay ba ông đã cho chị em
ông nên ông đề nghị Tòa án công nhận các khu này của chị em ông để làm thủ tục
điều chỉnh tăng diện tích. Do đó, ông không đồng ý toàn bộ yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn, đồng thời ông có yêu cầu phản tố đề nghị công nhận quyền sử dụng
đất tại vị trí khu D1 và khu D2 tổng diện tích là 137.6m
2
thuộc một phần thửa 83
TBĐ số 64 là thuộc quyền sử dụng của ông, công nhận tài sản trên khu D1 và D2 là
đất đen san lấp có giá trị 15.000.000đồng là thuộc quyền sở hữu của ông.
Tại Đơn phản tố ngày 07/01/2025 cũng như trong quá trình giải quyết vụ án,
bị đơn bà Trần Th N do ông Trần H Ph là người đại diện theo ủy quyền trình bày:
Bà Nữ thống nhất với toàn bộ lời trình bày của ông Phong, bà không đồng ý toàn
bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đồng thời bà có yêu cầu phản tố đề nghị
công nhận quyền sử dụng đất tại vị trí khu D3 và khu D4 tổng diện tích là 59.8m
2
thuộc một phần thửa 164 TBĐ số 64 là thuộc quyền sử dụng của bà, công nhận tài
sản trên khu D3 và D4 là đất đen san lấp có giá trị 5.000.000đồng là thuộc quyền sở
hữu của bà.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Hồ Thị Th H trình bày: Bà là vợ
của ông Nguyễn Văn U H, bà thống nhất với ý kiến và yêu cầu khởi kiện của ông
Hai, bà không có ý kiến hay yêu cầu gì khác.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn Tuấn trình bày: Phần
đất mà các đương sự hiện đang tranh chấp trước đây thuộc một phần thửa 82 tờ bản
đồ số 64 do ba ông là ông Nguyễn Văn Khích khai hoang từ trước khi ông sinh ra.
Giáp ranh với đất của ba ông là thửa đất 83 và 164 của ông Trần Văn Nh (hiện đã
cho con là ông Trần H Ph và bà Trần Th N đứng tên). Hiện trạng phần đất tranh
chấp là bờ đất, bờ này do chủ trước là ba ông và ông Nh1cùng đắp để cùng sử
dụng. Quá trình sử dụng ranh này thì ổn định, không ai tranh chấp, trên bờ đất thì
ba ông và ông Nh1cùng trồng cây khuyên diệp, cùng sử dụng và cho người khác
cùng đi chung. Ông xác định việc ba ông được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất rồi tặng cho ông, ông bán lại cho ông Sương và ông Sương bán lại cho ông Hai,
có ký ranh cũng không thấy ông Nhỏ, ông Phong hay bà Nữ tranh chấp. Việc cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ba ông và ông là hoàn toàn đúng quy định,
ba ông và ông đã sử dụng theo đúng diện tích được cấp, không lấn sang ai. Khi bán
cho ông Sương thì ông đã giao đủ đất cho ông Sương, hợp đồng chuyển nhượng đã
hoàn thành. Ông đã hiểu rõ và đầy đủ các quy định liên quan nhưng ông không có
tranh chấp cũng không có yêu cầu khởi kiện gì trong vụ án này. Hiện nay các
đương sự đang tranh chấp thì ông đề nghị Tòa án căn cứ theo quy định pháp luật để
giải quyết. Do bận công việc nên đề nghị giải quyết vắng mặt ông, ông cam kết lời
khai là tự nguyện không bị ép buộc.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là ông Hồ M S trình bày: Phần đất
tranh chấp là khu D1, khu D2, khu D3 và khu D4 tổng diện tích là 197.4m
2
thuộc
một phần thửa 198 do ông Hai đang đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất trước đây thuộc một phần thửa 196 do ông nhận chuyển nhượng của ông Tuấn,
5
sau đó ông tách ra thành thửa 198 và 196pcl để chuyển nhượng lại thửa 198 cho
ông Hai. Khi ông mua đất của ông Tuấn thì ông Tuấn có nói trước đây bà Nữ và
ông Phong đã ký ranh cho ông Tuấn rồi nên ông yên tâm mua. Sau đó, ông có tiến
hành đo đạc để tách thửa và chuyển quyền cho ông Hai. Ông xác định ông Tuấn
bán cho ông thửa 196 là có tiến hành đo đạc, khi ông tách thửa chuyển qua cho ông
Hai thì cũng có đo đạc nên việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông và
cả ông Hai là hoàn tòan đúng quy định và đúng diện tích, các ông sử dụng theo
đúng diện tích đã cấp, không lấn sang ai. Hiện nay, hợp đồng chuyển nhượng từ
ông Tuấn qua ông và từ ông qua ông Hai đã hoàn tất, ông không có tranh chấp
cũng không có yêu cầu gì trong vụ án nên đề nghị giải quyết vụ án vắng mặt ông.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Th TH thống nhất trình
bày: Bà là vợ ông Sương, bà thống nhất với lời trình bày của ông Hai, hợp đồng
chuyển nhượng giữa vợ chồng bà cùng ông Hai đã hoàn tất, ông bà đã giao đủ diện
tích đất thửa 198 theo hợp đồng chuyển nhượng. Hiện nay, bà không có tranh chấp
cũng không có yêu cầu gì trong vụ án này, do bận công việc nên đề nghị giải quyết
vắng mặt bà.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Huỳnh K Nh, ông Trần Văn Nh và
bà Bùi Ngọc D do ông Trần H Ph là người đại diện theo ủy quyền trình bày: Các
ông bà thống nhất với ý kiến và yêu cầu khởi kiện của ông Phong và bà Nữ, các
ông bà không có ý kiến hay yêu cầu gì khác.
Kết quả xác minh những người biết sự việc gồm ông Nguyễn Văn Chiến, ông
Huỳnh Văn Khương và ông Nguyễn Văn Mưng thống nhất trình bày: Phần bờ đất
mà các đương sự đang tranh chấp là do ông Trần Văn Nh đắp để ngăn nước làm
ruộng và làm lối đi chung, tuy nhiên các ông không xác định được ai canh tác và
cũng không xác định được quyền sử dụng đất là của ai.
Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Bến Lức cung cấp tài liệu
chứng cứ bao gồm: Công văn số 998/CV-CNVPĐKĐĐ ngày 08/5/2023, Công văn
số 2479/CNVPĐKĐĐ-HCTP ngày 30/5/2024 và Công văn số 4848/CV-
CNVPĐKĐĐ ngày 13/11/2024 cùng hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
và cấp đổi thửa 58; hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và cấp đổi thửa
34 cùng 47; hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 48 và thửa 57 (cùng
tờ bản đồ số 3 tọa lạc xã Thi, huyện B, tỉnh Long An); hồ sơ tách thửa và chuyển
nhượng thửa 196 tờ bản đồ số 64; hồ sơ tách thửa và chuyển nhượng thửa 198 tờ
bản đồ số 64.
Trung tâm lưu trữ lịch sử tỉnh Long An cung cấp tài liệu chứng cứ gồm: Hồ
sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu thửa 48, thửa 57, thửa 34 và
thửa 67 cùng tờ bản đồ số 3 tọa lạc xã Thi, huyện B, tỉnh Long An.
Ủy ban nhân dân xã Thi, huyện B, tỉnh Long An cung cấp thông tin: Tại Công
văn số 69/UBND-ĐC ngày 23/01/2025 thể hiện bà Trần Th N đứng tên quyền sử
dụng đất thửa 164, tờ bản đồ số 64 loại đất LUC theo giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số BY329078 vào sổ cấp GCN:CS04582 do Sở Tài nguyên và Môi trường
tỉnh Long An cấp ngày 26/10/2016. Qua quá trình tìm kiếm hiện tại hồ sơ đăng ký
cấp đổi quyền sử dụng đất của bà Trần Th N đã thất lạc không tìm được, chỉ còn
file giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cung cấp kèm công văn này.
6
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp
tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng kết quả không thành. Nguyên đơn
vn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn vn giữ yêu cầu phản tố, các đương sự thống
nhất yêu cầu không tiến hành hòa giải. Do đó, Tòa án không tiếp tục hòa giải và đưa
vụ án ra xét xử theo thủ tục chung.
Tại phiên tòa sơ thẩm: Các đương sự thống nhất cam kết, sau khi Ủy ban
nhân dân xã Thi, huyện B, tỉnh Long An tiến hành hòa giải và có kết quả hòa giải
12/01/2023 và ngày 17/01/2024 thì các bên chỉ khởi kiện đối với phần đất nêu trên
tại Tòa án nhân dân huyện Bến Lức. Không có đương sự nào khởi kiện hành chính
tại Tòa án nhân dân tỉnh Long An và cũng không có khiếu nại tại Ủy ban nhân dân
huyện Bến Lức cũng như Ủy ban nhân dân tỉnh Long An. Các đương sự xác định
đã nhận và thống nhất với Mảnh trích đo bản đồ địa chính số 415-2024 và Mảnh
trích đo bản đồ địa chính phân khu số 415A-2024, thống nhất đề nghị sử dụng kết
quả đo đạc này để giải quyết vụ án. Về giá trị quyền sử dụng đất và tài sản trên đất
thì hai bên đã thống nhất toàn bộ quyền sử dụng đất tranh chấp có giá
80.000.000đồng và tài sản trên đất là đất đen có giá 20.000.000đồng (cụ thể đất đen
trên khu D1 và D2 có giá trị 15.000.000đồng; đất đen trên khu D3 và D4 có giá trị
5.000.000đồng) đề nghị Tòa án căn cứ vào giá này để giải quyết vụ án, không yêu
cầu Tòa án tiến hành đo đạc lại và không yêu cầu định giá. Các đương sự cam kết
ngoài những chứng cứ đã cung cấp cho Tòa án thì không yêu cầu Tòa án thu thập
thêm chứng cứ nào khác tại thời điểm hiện tại cho đến khi Tòa án xét xử ở các cấp,
cũng không yêu cầu Tòa án triệu tập thêm những người khác tham gia tố tụng trong
vụ án này.
Đại diện Viện kim sát nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An tham gia phiên
tòa sơ thẩm phát biu quan đim:
Về tố tụng: Toà án nhân dân huyện Bến Lức thụ lý đơn khởi kiện của nguyên
đơn và yêu cầu phản tố của bị đơn về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu
công nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản trên đất” là đúng thẩm quyền.
Hội đồng xét xử, Thư ký phiên toà đã tuân theo pháp luật tố tụng và những người
tham gia tố tụng trong vụ án đã chấp hành pháp luật kể từ khi thụ lý vụ án cho đến
trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án.
Về nội dung: Căn cứ biên bản thẩm định tại chỗ của Toà án nhân dân huyện
Bến Lức ngày 21/7/2023, lời trình bày của các đương sự và các tài liệu chứng cứ
khác nhận thấy phần đất khu D1,D2, D3, D4 hiện trạng thực tế là một phần bờ đất,
cao hơn phần đất lúa tại thửa 164, thửa 83 và thửa 196. Hiện trạng trên phần đất
này còn có một số cây khuynh diệp nhỏ. Các đương sự trình bày có mâu thun với
nhau về việc xác định ranh đất, cụ thể: Ông Hai trình bày phần đất tranh chấp là
của ông Hai, bờ này do ông Khích (ba ông Tuấn) và ông Nh1đắp, hàng khuynh
diệp là do ông Sương trồng, tuy nhiên tại phiên toà sơ thẩm ông Hai trình bày phần
bờ đất này ông không biết ai đắp. Ông Phong trình bày phần bờ đất này là do ông
Nh1đắp, sau đó cho lại ông Phong bà Nữ, cây khuynh diệp là ông Phong trồng. Do
các đương sự trình bày có mâu thun với nhau về ranh đất, cũng không cung cấp
được tài liệu chứng cứ gì chứng minh cho lời trình bày của mình nên cần dựa vào
các tài liệu chứng cứ khác Toà án thu thập trong hồ sơ để xem xét giải quyết vụ án.

7
Căn cứ hồ sơ do Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Bến Lức cung cấp,
thể hiện việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất qua các lần tách thửa, cấp đổi
có đo đạc thực tế, ông Phong bà Nữ có ký tên vào bản mô tả ranh giới, mốc giới
thửa đất số 82 cho ông Tuấn vào ngày 29/4/2014. Tại hồ sơ cấp giấy chứng nhận
thửa 198 thể hiện thửa 198 có diện tích là 1.851m
2
loại đất LUC, có hình thể rõ
ràng gồm chiều rộng cạnh phía nam giáp bờ đê là 9.6m, chiều rộng cạnh hướng bắc
giáp thửa 119 là 9.4m, chiều dài cạnh giáp thửa 83 và thửa 164 là 141.31m, chiều
dài cạnh giáp thửa 82 là 207.75m. Như vậy, về quy trình thủ tục cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất các thửa đất nói trên là đúng quy định, ranh đất qua các lần
cấp đổi không thay đổi, hiện trạng ranh đất đã được sử dụng từ trước đến nay
không có tranh chấp. Căn cứ Mảnh trích đo bản đồ địa chính số 415-2024 và Mảnh
trích đo phân khu số 415A-2024 thể hiện phần diện tích đất các đương sự tranh
chấp thuộc thửa 198 hiện do ông Hai đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Từ những phân tích trên xét thấy không có căn cứ chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của bà Nữ về công nhận khu D3, D4 thuộc quyền sử dụng của bà Nữ,
không có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phong về công nhận quyền
sử dụng tại khu D1, D2 là của ông Phong; có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của ông Hai về việc yêu cầu trả lại quyền sử dụng đất. Về yêu cầu thanh toán giá trị
phần đất đen của ông Phong, bà Nữ, ông Phong và bà Nữ trình bày phần bờ đất này
do một mình ông Nh1đắp, ông Nh1lấy đất đen từ phần đất thuộc 83 và 164 đắp lên
tạo thành bờ đất cao khoảng 1m. Ông Hai trình bày ông Hai không phải là người
đắp bờ, cũng không biết ai đắp bờ, từ khi ông nhận chuyển nhượng thì đã có bờ
sẵn. Hơn nữa, ông Huỳnh Văn Khương, ông Nguyễn Văn Nhưng, ông Nguyễn Văn
Chiến là những người sinh sống lâu đời tại địa phương, biết rõ sự việc, các ông
trình bày thống nhất rằng ông Nh1là người đắp bờ đất này để ngăn nước và làm bờ
đi chung, thời điểm đó không ai canh tác trên bờ. Do đó, có căn cứ xác định ông
Nh1(ba của ông Phong bà Nữ) có công sức trong việc đắp bờ đất này, phần đất đen
ông Nh1đắp là do ông Nh1lấy từ thửa đất của ông Nh1đắp lên. Do đó chi phí ông
Phong bà Nữ đưa ra yêu cầu ông Hai hoàn trả là phù hợp và tương ứng chi phí thực
tế hiện nay. Do đó, có căn cứ chấp nhận yêu cầu của ông Phong, bà Nữ về giá trị tài
sản là đất đen. Ông Hai có nghĩa vụ thanh toán cho ông Phong 15.000.000 đồng,
thanh toán cho bà Nữ 5.000.000 đồng. Đối với các cây trồng là một số cây khuynh
diệp Nh1trên diện tích đất tranh chấp, các đương sự không có ai tranh chấp yêu cầu
gì trong vụ án nên đề nghị không xem xét tới. Từ những phân tích trên, căn cứ các
Điều 175, Điều 176 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 98, Điều 99, Điều 166, Điều
170, Điều 202 và Điều 203 Luật Đất đai năm 2013, đề chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn, chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của ông Phong, chấp nhận
một phần yêu cầu phản tố của bà Nữ theo hướng phân tích trên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:
Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu trả lại quyền sử dụng đất, bị đơn khởi kiện yêu cầu
công nhận quyền sử dụng đất và yêu cầu được sở hữu tài sản trên đất nên xác định
quan hệ tranh chấp trong vụ án là “Tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu công
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản trên đất”. Căn cứ Điều 26, điểm a
8
khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015,
thẩm quyền giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm thuộc Tòa án nhân dân huyện
Bến Lức, tỉnh Long An.
[1.2] Về việc tham gia phiên tòa của đương sự: Nguyên đơn ông Hai, bị đơn
ông Phong và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Hà và ông Nh1có mặt;
những người còn lại vắng mặt nhưng đều có yêu cầu xét xử vắng mặt. Do đó, Tòa
án vn tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo căn cứ tại Điều 227 và Điều
228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[1.3] Về phạm vi xét xử của Tòa án: Các đương sự chỉ tranh chấp đối với
quyền sử dụng đất, tài sản trên đất là phần đất tại vị trí D1, D2, D3 và D4; các
đương sự không tranh chấp về cây trồng trên đất và không yêu cầu nội dung nào
khác, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập. Căn cứ vào
Điều 5, Điều 188 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án chỉ giải quyết trong
phạm vi yêu cầu của đương sự, những nội dung khác không liên quan đến nội dung
khởi kiện không được Tòa án xem xét.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về vị trí, nguồn gốc và quá trình quản lý, sử dụng đất: Phần đất tranh
chấp được các bên thống nhất xác định có tổng diện tích là 197.4m
2
gồm khu D1,
khu D2, khu D3 và khu D4. Các đương sự thống nhất xác định toàn bộ quyền sử
dụng đất tranh chấp có giá 80.000.000đồng, tài sản trên đất là đất đen có giá
20.000.000đồng (đất đen trên khu D1 và D2 có giá trị 15.000.000đồng; đất đen trên
khu D3 và D4 có giá trị 5.000.000đồng) và một số cây khuyên diệp nhưng không
tranh chấp cây trồng. Tuy nhiên, về quá trình quản lý sử dụng thì các bên không
thống nhất, cụ thể nguyên đơn cho rằng toàn bộ diện tích tranh chấp thuộc thửa 198
còn bị đơn xác định khu D1, D2 thuộc thửa 48 và khu D3, D4 thuộc thửa 164. Ông
Hai cho rằng khi nhận chuyển nhượng là đã có phần bờ đất này và vợ ông Hai là bà
Hà xác định đất đen là do ông Nh1và ông Khích cùng đắp, riêng ông Phong xác
định toàn bộ phần đất đen là do ông Nh1đắp; riêng về cây trồng trên đất là một số
cây khuynh diệp Nh1thì nguyên đơn cho rằng do ông Sương trồng, còn bị đơn xác
định là ông Nh1trồng. Căn cứ kết quả đo đạc, hiện nay các khu đất này đều thuộc
một phần thửa 198 do ông Hai đang đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất; còn theo kết quả xác minh những người biết sự việc gồm ông Nguyễn Văn
Chiến, ông Huỳnh Văn Khương và ông Nguyễn Văn Mưng thì thể hiện bờ đất là do
ông Trần Văn Nh đắp để ngăn nước làm ruộng và làm lối đi chung, không xác định
được ai canh tác và cũng không xác định được quyền sử dụng đất của ai. Căn cứ
kết quả xem xét thẩm định tại chỗ được các đương sự thống nhất, xác định phần đất
tranh chấp có hiện trạng là bờ đất có bề mặt cao hơn các phần đất xung quanh và có
một số cây khuyên diệp. Phần bờ đất này nằm giữa thửa 198 của ông Hai đang
trồng mai với thửa 164 và 48 của ông Phong bà Nữ đang trồng chanh nhưng các
bên đều không trồng trên bờ đất này nên không xác định được người trực tiếp trồng
cây, chỉ có căn cứ xác định ông Trần Văn Nh có đắp đất đen trên phần đất tranh
chấp.
[2.2] Về quá trình đăng ký kê khai cấp giấy:
9
[2.2.1] Nguyên đơn khởi kiện vì cho rằng phần đất tranh chấp hiện nằm trong
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của nguyên đơn do nhận chuyển nhượng từ
người khác, quá trình chuyển nhượng có đo đạc và trước đó bị đơn có ký biên bản
giáp ranh với chủ cũ là ông Nguyễn Văn Tuấn. Bị đơn không đồng ý toàn bộ yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn vì cho rằng khu D1, D2, D3 và D4 thuộc thửa 48 và
164 của bị đơn. Theo Mảnh trích đo địa chính thể hiện phần đất tranh chấp này
thuộc một phần thửa 198 do ông Hai đang đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, bị đơn đã nhận được kết quả đo vẽ này nhưng không có ý kiến và cũng
không đề nghị Tòa án đo đạc lại.
[2.2.2] Căn cứ hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu cho ông
Nh1ngày 03/7/1997 thể hiện ông Nh1được cấp thửa đất 48 có diện tích 11.953m
2
và thửa 57 là 4559m
2
. Năm 2008, ông Nh1tặng cho ông Phong và bà Nữ thì diện
tích hai thửa đất này vn không thay đổi. Năm 2016, khi bà Nữ thực hiện cấp đổi
thửa 57 thành thửa 164 thì diện tích sau cấp đổi là 4705.5m
2
(tăng thêm 146.5m
2
so
với thời điểm ông Nh1được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu), riêng
ông Phong chưa thực hiện cấp đổi. Cùng thời điểm trên, ông Khích thực hiện kê
khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu thửa 34 có diện tích là
2.818m
2
và thửa 47 là 9.124m
2
, năm 2008 ông Khích tặng cho ông Tuấn hai thửa
đất này thì diện tích vn không thay đổi. Năm 2016, ông Tuấn tiến hành đo đạc
thực tế và có ký giáp ranh với ông Phong và bà Nữ để thực hiện cấp đổi thửa 34 và
47 thành thửa 82, diện tích thửa 82 chỉ còn 11.889m
2
(giảm 53m
2
so với thời điểm
ông Khích được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu). Bị đơn cho rằng
phần đất tranh chấp từ trước đến nay có hiện trạng không đổi là bờ đất do ông
Nh1đắp nhưng khi làm hồ sơ cấp giấy cho thửa 48 và 57 thì ông Nh1cũng có kê
khai để cấp giấy phần này nhưng do không kiểm tra lại giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất khi được cấp nên không biết bị thiếu. Tuy nhiên, căn cứ đơn xin cấp giấy
thửa 48 và 57 của ông Nh1ngày 26/10/1995 thì bản thân ông Nh1chỉ kê khai cho
thửa 48 diện tích 11.953m
2
và thửa 57 là 4559m
2
. Do đó, có căn cứ xác định ông
Nh1không kê khai cấp giấy đối với phần đất đang tranh chấp. Đến khi ông Nh1tặng
cho qua ông Phong và bà Nữ theo Hơp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cùng ngày
08/5/2008 được Ủy ban nhân dân xã Thạnh Lợi huyện Bến Lức tỉnh Long An
chứng thực lần lượt số 522 quyển số 01/2008 TP/CC-SCT/HĐGD và số 524 quyển
số 01/2008 TP/CC-SCT/HĐGD thì vn không có phần đất này mà các bị đơn cũng
không có ý kiến. Thời điểm ông Nh1được cấp giấy thửa 48 và 57, ông Khích cũng
kê khai cấp giấy 34 và 47 thì ông Khích có kê khai luôn phần đất tranh chấp, sau đó
thực hiện tặng cho trọn hai thửa qua ông Tuấn cũng bao gồm luôn phần đất này
nhưng ông Nh1cũng không có ý kiến. Hơn nữa, khi ông Tuấn thực hiện cấp đổi và
hợp thửa 34 và 47 thành thửa 82, các bị đơn còn ký giáp ranh theo Bản mô tả ranh
giới mốc giới thửa đất ngày 29/4/2014, bản ranh này xác định phần đất tranh chấp
hoàn toàn nằm trong thửa 82 của ông Tuấn. Hồ sơ cấp đổi thửa 57 thành thửa 164
của bà Nữ thực hiện năm 2016 đã bị thất lạc theo xác nhận của UBND xã Thạnh
Lợi, phần đất sau cấp đổi của bà Nữ không bao gồm khu D3 và D4 nhưng diện tích
đã tăng thêm 146.5m
2
, bà Nữ cũng hoàn toàn không có ý kiến với diện tích mới
được cấp đổi. Đối với thửa 48 của ông Phong chưa thực hiện cấp đổi nhưng theo
kết quả đo đạc vn tăng so với thời điểm cấp giấy ban đầu, cụ thể là tăng từ
11953m
2
lên 12153.9m
2
(tăng 200.9m
2
) dù không bao gồm phần đất D1 và D2.
10
Như vậy, về quy trình thủ tục và đối tượng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
các thửa đất nói trên là đúng quy định.
[2.2.3] Theo xác nhận của ông Tuấn cũng xác định việc cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho ba ông là ông Khích và cho ông là hoàn toàn đúng quy định,
ba ông và ông đã sử dụng theo đúng diện tích được cấp, không lấn sang ai. Khi
chuyển nhượng cho ông Sương thì ông đã giao đủ đất, hợp đồng chuyển nhượng đã
hoàn thành. Như vậy, theo nội dung trên thì nguồn gốc thửa đất 48 và 57 của ông
Nh1và thửa 34 và 47 của ông Khích do ông Nh1và ông Khích khai hoang và canh
tác ổn định ranh giới. Khi ông Nh1chuyển quyền qua cho cho ông Phong và bà Nữ,
ông Khích chuyển quyền cho ông Tuấn thì các bên cũng tiếp tục sử dụng theo đúng
diện tích được cấp giấy và đều không có tranh chấp. Giữa chủ sử dụng đất của hai
thửa đất nêu trên không có bất kỳ tranh chấp nào từ khi xác định ranh giới đất bằng
biên bản ranh vào năm 2014 cho đến khi ông Hai đứng tên quyền sử dụng đất.
Đồng thời, việc xác định ranh giới này đã hoàn thành trước khi ông Hai đứng tên
quyền sử dụng đất thông qua hình thức nhận chuyển nhượng và đứng tên vào năm
2019. Các bên đã thống nhất ranh giới đất trên thực tế và theo đúng Bản mô tả ranh
giới, mốc giới ngày 29/4/2014 mà các bên đã ký kết, cho đến nay thì vn không có
sự chuyển dịch thay đổi mốc giới. Như vậy, ranh đất qua các lần cấp đổi không
thay đổi, hiện trạng ranh đất đã được sử dụng từ trước đến nay không có tranh
chấp.
[2.3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn U H về việc yêu
cầu trả lại quyền sử dụng đất: Như đã phân tích trên, có căn cứ xác định bị đơn
thống nhất và không có ý kiến gì đối với việc xác định ranh giới, mốc giới với chủ
đất liền kề. Thực tế, bị đơn cũng không đăng ký, không kê khai, không sử dụng
diện tích đất tranh chấp và cũng không có một trong các loại giấy tờ theo Điều 100
Luật Đất đai năm 2013 nên không đủ điều kiện để Nhà nước công nhận quyền sử
dụng đất, giao đất, cho thuê đất theo quy định tại Điều 54, Điều 55, Điều 56 Luật
Đất đai năm 2013. Theo hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, xác định
phần đất này là do nguyên đơn đăng ký, kê khai và đã được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. Mãi đến năm 2022, khi tiến hành đo đạc lại thì bị đơn mới tranh
chấp nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền sử dụng đất
đối với diện tích đất tranh chấp nên lời trình bày của bị đơn là không có căn cứ, ý
kiến trình bày của nguyên đơn là phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ
cũng như diễn biến tại phiên toà sơ thẩm. Từ đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu
cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu trả lại quyền sử dụng đất tranh chấp.
[2.4] Xét yêu cầu phản tố của bị đơn về việc yêu cầu công nhận quyền sử
dụng đất: Như đã phân tích trên, bị đơn đề nghị công nhận quyền sử dụng đất tranh
chấp nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh. Do đó, không có
căn cứ chấp nhận yêu cầu của bị đơn về việc đề nghị công nhận quyền sử dụng đất
tranh chấp tại vị trí D1, D2, D3 và D4 nên yêu cầu này của bị đơn không được Hội
đồng xét xử chấp nhận.
[2.5] Xét yêu cầu phản tố của bị đơn về việc yêu cầu công nhận quyền sở hữu
tài sản trên đất: Tại Mảnh trích đo bản đồ địa chính số 415-2024 và Mảnh trích đo
bản đồ địa chính phân khu số 415A-2024 đã xác định phần đất tranh chấp do ông
11
Hai đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Về phần đất đen đắp trên bờ
đất thì các bên trình bày không thống nhất, cụ thể ông Phong cho rằng do ông
Nh1đắp nhưng ông Hai không thừa nhận, ông Tuấn thì xác định do ông Nh1cùng
ông Khích đắp. Tuy nhiên, qua kết quả xác minh những người lớn tuổi ở địa
phương thì đều thể hiện ông Nh1có trực tiếp đắp đất để giữ nước và đi lại chung,
ông Hai cũng thừa nhận khi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ ông Sương
thì bờ đất này đã có sẵn, hiện vn được sử dụng để ngăn nước là vn có giá trị sử
dụng. Do quyền sử dụng đất đã được trả lại cho nguyên đơn nên buộc ông Hai hoàn
trả giá trị này cho bị đơn là phù hợp. Buộc nguyên đơn thanh toán lại cho ông
Phong số tiền 15.000.000đồng và bà Nữ là 5.000.000đồng, ông Hai được sở hữu
toàn bộ tài sản này, nên có căn cứ chấp nhận yêu cầu này của bị đơn.
[2.6] Về chi phí đo đạc, định giá và xem xét thẩm định tại chỗ bao gồm: Chi
phí đo đạc, định giá, xem xét thẩm định tại chỗ tổng cộng là 28.000.000đồng, do
yêu cầu của ông Hai được chấp nhận nên buộc ông Phong, bà D và bà Nữ chịu
toàn bộ chi phí này. Tuy nhiên, ông Hai tự nguyện chịu ½ là 14.000.000đồng nên
được ghi nhận, ông Phong và bà D liên đới chịu 7.000.000đồng, bà Nữ chịu
7.000.000đồng. Do ông Hai đã tạm ứng 26.000.000đồng, ông Phong và bà D đã
tạm ứng 2.000.000đồng nên buộc ông Phong và bà D có nghĩa vụ hoàn trả cho ông
Hai số tiền là 5.000.000đồng và bà Nữ hoàn trả cho ông Hai số tiền là
7.000.000đồng.
[2.7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Phong, bà D và bà Nữ phải chịu án phí
đối với yêu cầu khởi kiện của ông Hai được chấp nhận; Ông Phong và bà Nữ phải
chịu án phí đối với yêu cầu phản tố công nhận quyền sử dụng đất không được chấp
nhận, ông Hai phải chịu án phí trên số tiền thanh toán cho bị đơn.
[2.8] Về quan điểm đề nghị giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân
dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An tham gia phiên tòa là hoàn toàn phù hợp với
nhận định của Hội đồng xét xử và quy định pháp luật nên có căn cứ chấp nhận toàn
bộ.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 5, 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39, Điều
147, Điều 165, Điều 188, Điều 227, Điều 228 và Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015;
Căn cứ Điều 175, Điều 176, Điều 221, Điều 235, Điều 357 và Điều 468 Bộ
luật Dân sự năm 2015;
Căn cứ các Điều 54, Điều 55, Điều 56, Điều 95, Điều 98, Điều 99, Điều 100,
Điều 166, Điều 170, Điều 202 và Điều 203 Luật Đất đai năm 2013;
Căn cứ Điều 12, Điều 14 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
12
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn U
H về việc tranh chấp quyền sử dụng đất đối với bị đơn ông Trần H Ph và bà Trần
Th N, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Bùi Ngọc D :
1.1 Buộc ông Trần H Ph và bà Bùi Ngọc D có nghĩa vụ liên đới trả lại cho
ông Nguyễn Văn U H quyền sử dụng đất tại vị trí khu (D1) diện tích 123.2m
2
và
khu (D2) diện tích 14.4m
2
tổng diện tích là 137.6m
2
thuộc một phần thửa đất số
198, tờ bản đồ 64, loại đất LUC, tọa lạc xã Thi, huyện B, tỉnh Long An do ông
Nguyễn Văn U H đang đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CR
149373, số vào sổ cấp GCN:CS 12054 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long
An cấp ngày 18/4/2019.
1.2 Buộc bà Trần Th N có nghĩa vụ trả lại cho ông Nguyễn Văn U H quyền sử
dụng đất tại vị trí khu D3 diện tích 58.2m
2
và khu D4 là 1.6m
2
tổng diện tích là
59.8m
2
thuộc một phần thửa đất số 198, tờ bản đồ 64, loại đất LUC, tọa lạc xã Thi,
huyện B, tỉnh Long An do ông Nguyễn Văn U H đang đứng tên trên Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số CR 149373, số vào sổ cấp GCN:CS 12054 do Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp ngày 18/4/2019.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bị đơn ông Trần H Ph và bà Trần Th N về
việc yêu cầu công nhận quyền sở hữu tài sản trên đất:
2.1 Buộc ông Nguyễn Văn U H có nghĩa vụ thanh toán cho ông Trần H Ph số
tiền 15.000.000đồng (mười lăm triệu đồng) giá trị tài sản là phần đất đen đã được
san lấp tại vị trí khu (D1) diện tích 123.2m
2
và khu (D2) diện tích là 14.4m
2
thuộc
một phần thửa đất số 198, tờ bản đồ 64, loại đất LUC, tọa lạc xã Thi, huyện B, tỉnh
Long An.
2.2 Buộc ông Nguyễn Văn U H có nghĩa vụ thanh toán cho bà Trần Th N số
tiền 5.000.000đồng (năm triệu đồng) giá trị tài sản là phần đất đen đã được san lấp
tại vị trí khu (D3) diện tích là 58.2m
2
và khu (D4) diện tích là 1.6m
2
thuộc một
phần thửa đất số 198, tờ bản đồ 64, loại đất LUC, tọa lạc xã Thi, huyện B, tỉnh
Long An.
3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bị đơn ông Trần H Ph về việc yêu
cầu công nhận cho ông Trần H Ph được quyền sử dụng phần đất tại vị trí khu (D1)
diện tích 123.2m
2
và khu (D2) diện tích là 14.4m
2
tổng diện tích là 137.6m
2
thuộc
một phần thửa đất số 198, tờ bản đồ 64, loại đất LUC, tọa lạc xã Thi, huyện B, tỉnh
Long An do ông Nguyễn Văn U H đang đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số CR 149373, số vào sổ cấp GCN:CS 12054 do Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh Long An cấp ngày 18/4/2019.
4. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bị đơn bà Trần Th N về việc yêu
cầu công nhận cho bà Trần Th N được quyền sử dụng phần đất tại vị trí khu (D3)
diện tích 58.2m
2
và khu (D4) diện tích là 1.6m
2
tổng diện tích là 59.8m
2
thuộc một
phần thửa đất số 198, tờ bản đồ 64, loại đất LUC, tọa lạc xã Thi, huyện B, tỉnh
Long An do ông Nguyễn Văn U H đang đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số CR 149373, số vào sổ cấp GCN:CS 12054 do Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh Long An cấp ngày 18/4/2019.
13
5. Ông Nguyễn Văn U H được quyền quản lý, sử dụng và sở hữu toàn bộ tài
sản là phần đất đen đã được san lấp tại các vị trí gồm khu (D1) diện tích là
123.2m
2
, khu (D2) diện tích là 14.4m
2
, khu (D3) diện tích là 58.2m
2
và khu (D4)
diện tích là 1.6m
2
thuộc một phần thửa đất số 198, tờ bản đồ 64, loại đất LUC, tọa
lạc xã Thi, huyện B, tỉnh Long An do ông Nguyễn Văn U H đang đứng tên trên
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CR 149373, số vào sổ cấp GCN:CS 12054
do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp ngày 18/4/2019.
6. Ông Nguyễn Văn U H được quyền liên hệ cơ quan nhà nước có thẩm
quyền để thực hiện kê khai, điều chỉnh hoặc đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đối với phần đất tại vị trí khu (D1) diện tích 123.2m
2
, khu (D2) là 14.4m
2
,
khu (D3) diện tích 58.2m
2
và khu (D4) diện tích là 1.6m
2
thuộc một phần thửa đất
số 198, tờ bản đồ 64, loại đất LUC, tọa lạc xã Thi, huyện B, tỉnh Long An nêu trên
theo quy định của pháp luật về đất đai.
(Vị trí, tứ cận, diện tích, ký hiệu các khu đất được thể hiện tại Mảnh trích đo
bản đồ địa chính số 415-2024 do Công ty TNHH đo đạc nhà đất Hưng Phú đo vẽ
ngày 07/10/2024 được Chi nhánh VPĐKĐĐ tại huyện Bến Lức duyệt ngày
28/10/2024 và Mảnh trích đo phân khu số 415A-2024 do Công ty TNHH đo đạc
nhà đất Hưng Phú thực hiện ngày 31/12/2024 được đính kèm theo bản án)
7. Cơ quan cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất căn cứ vào bản án, quyết
định của Tòa án để giải quyết điều chỉnh biến động hoặc cấp lại giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất phù hợp với kết quả giải quyết của Tòa án.
8. Về chi phí đo đạc, định giá, xem xét thẩm định tại chỗ tổng cộng là
28.000.000 đồng (hai mươi tám triệu đồng), các đương sự phải chịu như sau: Ông
Nguyễn Văn U H tự nguyện chịu 14.000.000 đồng (mười bốn triệu đồng), ông Trần
H Ph và bà Bùi Ngọc D phải liên đới chịu 7.000.000 đồng (bảy triệu đồng), bà
Trần Th N phải chịu 7.000.000 đồng (bảy triệu đồng). Do ông Nguyễn Văn U H đã
nộp tạm ứng là 26.000.000 đồng (hai mươi sáu triệu đồng), ông Trần H Ph và bà
Bùi Ngọc D đã nộp tạm ứng là 2.000.000đồng (hai triệu đồng) nên buộc ông Trần
H Ph và bà Bùi Ngọc D có nghĩa vụ liên đới hoàn trả lại cho ông Nguyễn Văn U H
số tiền là 5.000.000đồng (năm triệu đồng), bà Trần Th N hoàn trả lại cho ông
Nguyễn Văn U H số tiền là 7.000.000đồng (bảy triệu đồng).
9. Về lãi suất chậm thi hành án: Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối
với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành
án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với
các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong
tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi
của số tiền chậm thi hành án, theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468
Bộ luật Dân sự năm 2015.
10. Về án phí dân sự sơ thẩm:
10.1 Ông Trần H Ph phải chịu án phí là 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng),
khấu trừ số tiền tạm ứng án phí mà ông Trần H Ph đã nộp là 675.000 đồng (sáu
trăm bảy mươi lăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí lệ phí Tòa án
số 0007353 và số 0007354 cùng ngày 07/01/2025 của Chi cục thi hành án dân sự
14
huyện Bến Lức, hoàn lại cho ông Trần H Ph số tiền tạm ứng án phí đã nộp còn thừa
là 375.000 đồng (ba trăm bảy mươi lăm nghìn đồng).
10.2 Ông Trần H Ph và bà Bùi Thị D phải liên đới chịu án phí là 300.000
đồng (ba trăm nghìn đồng).
10.3 Bà Trần Th N phải chịu án phí là 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng),
khấu trừ số tiền tạm ứng án phí mà bà Trần Th N đã nộp là 600.000 đồng (sáu trăm
nghìn đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí lệ phí Tòa án số 0007351 và số
0007352 cùng ngày 07/01/2025 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bến Lức, bà
Trần Th N đã nộp xong án phí.
10.4 Ông Nguyễn Văn U H phải chịu án phí là 1.000.000 đồng (một triệu
đồng), khấu trừ số tiền tạm ứng án phí mà ông Nguyễn Văn U H đã nộp là 600.000
đồng (sáu trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí lệ phí Tòa án số
0009555 ngày 06/3/2023 và số 0006918 ngày 22/01/2024 của Chi cục thi hành án
dân sự huyện Bến Lức, ông Nguyễn Văn U H còn phải nộp tiếp số tiền án phí là
400.000 đồng (bốn trăm nghìn đồng).
11. Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn
15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo
bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án
được tống đạt hợp lệ.
12. Trường hợp bản án hoặc quyết định được thi hành theo quy định tại Điều
2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại Điều 6,7, Điều 7a, 7b và
Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định
tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Long An;
- VKSND huyện Bến Lức;
- CCTHADS huyện Bến Lức;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Thái Thị Thanh Thúy
15
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 14/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 09/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Bản án số 422/2025/DS-PT ngày 08/05/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Bản án số 398/2025/QĐ-PT ngày 28/04/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Bản án số 360/2025/DS-PT ngày 23/04/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 22/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 22/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 22/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 18/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm