Bản án số 41/2019/HS-PT ngày 26/02/2019 của TAND tỉnh Bình Định
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 41/2019/HS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 41/2019/HS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 41/2019/HS-PT ngày 26/02/2019 của TAND tỉnh Bình Định |
---|---|
Tội danh: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Định |
Số hiệu: | 41/2019/HS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 26/02/2019 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 41/2019/HS-PT NGÀY 26/02/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 26 tháng 02 năm 2019 tại trụ sở TAND tỉnh Bình Định xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 57/2019/TLPT-HS ngày 28 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo Nguyễn Tấn T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 50/2018/HS-ST ngày 28 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện T.
Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Tấn T (tên gọi khác: Nguyễn Thanh), sinh năm 1966 tại thành phố H; hộ khẩu thường trú: Số Tập thể C, Quận N, thành phố H; nơi cư trú: Thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hoá: 0/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Tấn H (đã chết) và bà Phạm Nguyệt A (đã chết); vợ: Chưa có, bị cáo sống như vợ chồng với bà Lê Thị S; con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 21/01/1987, bị Tòa án nhân dân Quận N, thành phố Hải Phòng xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”, tại bản án số: 97/HSST, ngày 16/9/1987, đã chấp hành xong năm 1988; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Sáng ngày 09/5/2018, Nguyễn Tấn T không có giấy phép lái xe hợp lệ điều khiển xe môtô hiệu Prealmi I màu nâu, BKS: 77F7 – 1692 (có dung tích xi lanh 110 cm3) từ ngã ba Cầu 16 thuộc thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Bình Định đi đến thị trấn Phú Phong, huyện T, tỉnh Bình Định, khi đến đoạn Km 53 + 800 QL19 thuộc thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Bình Định, T điều khiển xe đi với vận tốc khoảng 30km/h, đi ở giữa làn đường dành cho xe cơ giới, hướng từ tây sang đông. Cách khoảng 40m, T phát hiện ở hướng ngược chiều có một xe ôtô tải (không rõ biển số) đang tới, thấy giống xe quen nên T chỉ nhìn xe ôtô tải này mà không quan sát phía trước cùng chiều. Khi xe này vừa qua khỏi xe môtô do T điều khiển, T mới phát hiện thấy bà Lưu Thị D đang đi bộ từ phần đường trái qua phần đường phải đến giữa làn đường dành cho xe cơ giới để qua đường, cách xe T khoảng 02m. Do khoảng cách quá gần, T không kịp xử lý nên đã để xe mô tô tông vào bên phải người bà D, làm bà D ngã xuống đường gây tai nạn, xe môtô ngã trượt về phía trước một đoạn làm T ngã trên mặt đường cách xe môtô khoảng 02 – 03m. Hậu quả: Bà Diệu bị thương cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Định đến 09 giờ cùng ngày thì chết do sốc đa chấn thương điều trị không phục hồi.
Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 141/PY-TT ngày 11/5/2018 của Trung tâm Pháp y tỉnh Bình Định kết luận: Nạn nhân Lưu Thị D chết do: “Sốc đa chấn thương điều trị không hồi phục”.
Quá trình điều tra, bị cáo T đã bồi thường xong cho gia đình nạn nhân số tiền 74.000.000 đồng. Đại diện gia đình nạn nhân đã có đơn bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và không yêu cầu bồi thường thêm.
Bản án hình sự sơ thẩm số 50/2018/HS-ST ngày 28 ngày 11 năm 2018 của Tòaán nhân dân huyện T đã quyết định:
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Tấn T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”;
Áp dụng: điểm a khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật hình sự; xử phạt: Bị cáo Nguyễn Tấn T 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt thi hành án;
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của những người tham gia tố tụng.
Ngày 07 tháng 12 ngày 2018, bị cáo Nguyễn Tấn T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bịcáo Nguyễn Tấn T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận hành vi phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu khác có trong sơ vụ án thể hiện: Nguyễn Tấn T không có giấy phép lái xe hợp lệ, khoảng 05 giờ sáng ngày 09/5/2018, bị cáo điều khiển xe mô tô BKS 77F7-1692 (có dung tích xi lanh 110cm3) tham gia giao thông theo Quốc lộ 19 đi từ ngã ba Cầu 16 thuộc thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Bình Định đi đến thị trấn P, huyện T, tỉnh Bình Định, khi đến đoạn đường Km 53 + 800 Quốc lộ 19 thuộc thôn T, xã T, huyện T, do thiếu chú ý quan sát, không nhường đường cho người đi bộ qua đường nên bị cáo đã để xe mô tô tông vào bà Lưu Thị D đang đi bộ qua đường gây tai nạn giao thông, làm bà D chết do sốc đa chấn thương điều trị không phục hồi, lỗi hoàn toàn thuộc về bị cáo. Do đó, Bản án hình sự sơ thẩm số 50/2018/HS-ST ngày 28 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện T đã xét xử bị cáo Nguyễn Tấn Tvề tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 2 Điều 260 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Tấn Thanh, Hội đồng xét xử thấy rằng: Hành vi của bị cáo Nguyễn Tấn T là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến tính mạng của người khác và trật tự an toàn giao thông đường bộ, bị cáo đã phạm vào điểm a khoản 2 Điều 260 BLHS có khung hình phạt từ 3 năm đến 10 năm tù. Cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ, toàn diện các tình tiết và xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn T 18 tháng tù, đã dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là phù hợp. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào khác nên Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[3] Theo điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 thì bị cáo NguyễnTấn T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về án phí, quyền kháng cáo của những người tham gia tố tụng không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
1. Áp dụng: điểm a khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật Hình sự; xử phạt: Bị cáo Nguyễn Tấn T 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt thi hành án.
2. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Tấn T phải chịu 200.000 đồng(Hai trăm nghìn đồng).
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!