Bản án số 405/2024/HC-PT ngày 23/10/2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 405/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 405/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 405/2024/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 405/2024/HC-PT ngày 23/10/2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
Số hiệu: | 405/2024/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 23/10/2024 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Chấp nhận kháng cáo của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 405/2024/HC-PT
Ngày: 23-10-2024
V/v: “Khiếu kiện quyết định hành
chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
- Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Cường
- Các Thẩm phán: Ông Đặng Kim Nhân và Ông Trần Quốc Cường
- Thư ký phiên tòa: Bà Đoàn Thị Thu Hiền, Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại Đà Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên tòa:
Ông Quách Hoà Bình – Kiểm sát viên.
Ngày 23 tháng 10 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, xét
xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 228/2024/TLPT-HC ngày 09
tháng 8 năm 2024 về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản
lý đất đai”. Do Bản án hành chính sơ thẩm số 26/2024/HC-ST ngày 26 tháng 6
năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 1969/2024/QĐ-PT ngày 02
tháng 10 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Bà Lê Thị A, sinh năm 1946. Vắng mặt.
Địa chỉ: Thôn S, xã N, TP Q, tỉnh Quảng Ngãi.
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện: Ông Đinh Hữu Q, sinh năm
1992 (theo Hợp đồng ủy quyền ngày 15/4/2024), có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Địa chỉ: Số A L, phường N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.
2. Người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Quảng Ngãi.
Người đại diện theo pháp luật: Chủ tịch UBND huyện T, có Văn bản số
3082/UBND ngày 16/10/2024, đề nghị xét xử vắng mặt.
Địa chỉ: Thị trấn L, huyện T, tỉnh Quảng Ngãi.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
2
3.1. Ủy ban nhân dân thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.
Người đại diện theo pháp luật: Chủ tịch UBND thành phố Q, có Văn bản đề nghị
xét xử vắng mặt.
Địa chỉ: Số D H, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Văn T - Phó Trưởng phòng Tài nguyên
và Môi trường thành phố Q (theo Quyết định ủy quyền số 7330/QĐ-UBND ngày
20/12/2023 của UBND thành phố Q). Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Địa chỉ: Số D N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.
3.2. Ủy ban nhân dân xã N, thành phố Q.
Người đại diện theo pháp luật: Chủ tịch UBND xã N. Có đơn đề nghị xét xử vắng
mặt.
Địa chỉ: Thôn B, xã N, TP Q, tỉnh Quảng Ngãi.
3.3. Ông Lý Thanh T1, sinh năm 1975.
3.4. Bà Lý Thị H, sinh năm 1977.
3.5. Bà Lý Thị Thanh T2, sinh năm 1982.
3.6. Bà Lý Thị T3, sinh năm 1986. 3.7.
3.7. Bà Lý Thị Thanh H1, sinh năm 1988.
3.8. Ông Phan D, sinh năm 1940; có mặt.
3.9. Bà Phan Thị H2, sinh năm 1959.
3.10. Bà Phan Thị T4, sinh năm 1965.
3.11. Ông Phan Văn T5, sinh năm 1974.
3.12. Bà Lê Thị Bích T6, sinh năm 1977.
3.13. Chị Phan Thị Ánh T7, sinh năm 1999.
3.14. Anh Phan Văn D1, sinh ngày 24/8/2005.
Cùng địa chỉ: Thôn S, xã N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.
Ông Phan Văn T5 và bà Phan Thị T4 uỷ quyền cho ông Thới Mạnh C; Địa chỉ:
xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi tham gia tố tụng.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện, đơn khởi kiện sửa đổi bổ sung của bà Lê Thị A, trong
quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, ông Đinh Hữu Q là người đại diện
theo ủy quyền của người khởi kiện trình bày:
3
Nguyên thửa đất bà Lê Thị A sử dụng là được thừa hưởng từ ông bà trước năm
1975, đã được UBND huyện T cấp Giấy chứng nhận lần đầu cho ông Lý Thanh
S (chồng bà Lê Thị A) vào ngày 24/12/1998 tại thửa đất số 413, diện tích 1.268m²,
thuộc tờ bản đồ số 02 (đo vẽ năm 1993), với chiều dài cạnh phía Đông giáp đường
bê tông nông thôn là 37m. Năm 2011, thực hiện theo dự án đo đạc, lập bản đồ địa
chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai
(gọi tắt là dự án V), UBND huyện T cấp đổi thành thửa đất số 629, tờ bản đồ số
06, diện tích 1.132m², cạnh phía Đông giáp đường bê tông là 25m (giảm 12m =
37m-25m) mang tên ông Lý Thanh S và bà Lê Thị A. Khi thực hiện chính sách
đất đai cho phép nâng hạn mức sử dụng đất ở tại địa phương, ông Lý Thanh S và
bà Lê Thị A được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Q cấp đổi tại thửa đất 629,
tờ bản đồ số 06 (trong đó 400m² đất ONT và 732m² đất BHK) với số vào sổ
CS11604, số phát hành CN022492, cấp ngày 07/3/2018. Toàn bộ các quá trình
nêu trên đều thực hiện theo diện đại trà, không qua đo đạc thực tế. Năm 2019, ông
Lý Thanh S chết, giao lại toàn bộ thửa đất cho bà A và các con quản lý sử dụng.
Năm 2022, khi có nhu cầu thực hiện thủ tục phân chia di sản thừa kế do ông Lý
Thanh S chết, gia đình bà Lê Thị A đo đạc lại toàn bộ diện tích đất thực tế đang
sử dụng thì ông Phan Văn T5 (cháu nội ông Phan T8) ra tranh chấp và ông cho
rằng một phần diện tích đất giáp mặt tiền đường bê tông 11,97m trước nhà ông
T8 (nay là thửa 1392) là của gia đình ông, đã được cơ quan nhà nước cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ngay sau khi phát hiện sự việc, bà Lê Thị A đã gửi đơn đến UBND xã N để hòa
giải tranh chấp đất đai với các đồng thừa kế của bà Mai Thị Đ. Tại buổi hoà giải,
bà A được biết ngoài phần đất giáp mặt đường bê tông còn có một phần đất gia
đình bà đang sử dụng trồng chuối giáp với đất ông Lý T9 có tường rào ranh giới
rõ ràng cũng đã được UBND huyện T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
bà Mai Thị Đ từ năm 2011. Vì vậy, bà A đã gửi đơn đến cơ quan có thẩm quyền
là UBND thành phố Q để xem xét, giải quyết. Tuy nhiên, UBND thành phố Q từ
chối, không thực hiện thủ tục thu hồi giấy chứng nhận của bà Mai Thị Đ tại vị trí
đất nêu trên. Xét thấy việc UBND huyện T (nay là thành phố Q) tự ý cấp đất của
gia đình bà cho người khác là không đúng, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
của gia đình bà bởi các các lý do sau:
Hồ sơ cấp đổi, cấp lại cho bà Mai Thị Đ theo dự án V: Theo lời trình bày của ông
Phan Văn T5 (cũng như của các ông bà Phan D, Phan Thị H2, Phan Thị T4) là
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều thừa nhận ông Phan T8, bà Mai Thị Đ
là vợ chồng, có tất cả 5 người con là Phan D, Phan Thị H2, Phan Thị T4 và 02
người đã chết. Thửa đất số 1270 được UBND huyện T cấp lần đầu cho ông Phan
T8, tuy nhiên khi cấp đổi theo dự án V, bà Mai Thị Đ có đơn xin kê khai thừa kế
4
nhưng bà Đ không kê khai đầy đủ các đồng thừa kế của ông Phan T8 theo quy
định của pháp luật, không có các tài liệu, giấy tờ, văn bản thể hiện các đồng thừa
kế đồng ý hoặc giao cho bà Đ toàn quyền sử dụng thửa đất nêu trên. Vì vậy,
UBND huyện T tự ý cấp đổi, cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất từ thửa 1270 của ông Phan T8 thành thửa
đất số 1392, tờ bản đồ số 06 cho riêng cá nhân bà Mai Thịt Đ1 là không đúng.
Phần diện tích đất tăng thêm 42,3m² tại thửa 1392, tờ bản đồ số 06 cấp cho bà Mai
Thị Đ (246,3m² - 204m² = 42,3m
2
) theo dự án V: Đối chiếu theo hiện trạng sử
dụng đất, theo tờ trích đo bản đồ địa chính số 02, đo vẽ năm 1993; tờ trích đo địa
chính số 06, đo vẽ năm 2011 do UBND xã N cung cấp; theo Báo cáo số 267/BC-
TNMT ngày 30/5/2023 của Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố Q; ý kiến
của UBND xã N ngày 02/4/2024 đều thể hiện phần diện tích tăng thêm là của ông
Lý Thanh S và đã được UBND huyện T cấp đất lần đầu năm 1998 tại thửa 413,
tờ bản đồ số 02 cho ông S; vị trí phần đất tăng này có giới cận phía Đông giáp
đường bê tông, phía Tây giáp đất ông Phan T8, phía Bắc giáp đất ông Lý Thanh
S và phía Nam giáp đất ông Lý T9 (thửa 644).
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là ông Phan Văn T5, ông Phan D, bà Phan
Thị H2, bà Phan Thị T4 đều thừa nhận biết việc UBND huyện T cấp cho bà Mai
Thị Đ phần đất tăng thêm (ngày cấp 23/12/2011) và cũng thừa nhận phần diện
tích đất này ông S, bà A quản lý sử dụng nên mới lập giấy thỏa thuận ngày
12/4/2012 với giá 15.000.000đ (mười lăm triệu đồng) để hợp thức hoá phần đất
tăng thêm này.
Ngoài ra, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa 1392 hiện nay thì hình
thể thửa đất ở cạnh phía Nam có thể hiện giáp thửa đất số 664, tờ bản đồ số 06,
xã N của gia đình ông Lý T9. Tuy nhiên, hiện trạng thực tế trên đất thì phần đất
này gia đình bà A đang trồng chuối và làm mương thoát nước từ phía sau vườn ra
đường cống dân sinh phía trước, có tường rào, ranh giới ổn định. Tại bản trình
bày ý kiến ngày 27/3/2024 của ông T5, ông D, bà H2, bà T4 tự thừa nhận rằng:
“Ngày 12/4/2012 tôi (ông Phan Văn T5) có mua của ông Lý Thanh S, bà Lê Thị
A một phần diện tích đất: Đông giáp đường liên thôn, Tây giáp nhà tôi, Nam giáp
đất còn lại của ông Lý Thanh S chiều ngang 2,1m...” và “Hiện trạng thửa đất số
1392 hiện nay: phía Đông giáp đường bê tông có tường rào, cổng ngõ do nhà tôi
xây dựng, phía Bắc giáp đất bà Lê Thị A có 2 trụ bê tông và cây mít, cây bòng
nước làm ranh giới, phía Nam và phía Bắc đều giáp đất bà Lê Thị A”.
Như vậy, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phía bà Đ đều thừa nhận đất bà
Đ sử dụng từ trước đến nay không tiếp giáp đất của ông Lý T9. Phần đất này gia
đình bà A đang quản lý, sử dụng. Ông S, bà A chưa thực hiện các thủ tục tặng
cho, mua bán hoặc ủy quyền cho bất cứ tổ chức hoặc cá nhân nào để thực hiện
5
các thủ tục biến động phần đất này; tuy nhiên UBND huyện T căn cứ theo đơn
xin thừa kế và sử dụng số liệu đo đạc theo dự án V để cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho cá nhân bà Mai Thị Đ tại thửa đất số 1392 là không đúng quy
định (không đúng diện tích, không đúng vị trí cấp và không đủ điều kiện để cấp).
Nay bà Lê Thị A yêu cầu Tòa án giải quyết: Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số BH 519453, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất CH02517
do UBND huyện T cấp cho bà Mai Thị Đ ngày 23/12/2011 đối với thửa đất số
1392, tờ bản đồ số 06 xã N, diện tích 246,3m
2
, mục đích sử dụng: Đất ở tại nông
thôn 204m
2
, đất trồng cây hàng năm khác 42,3m
2
.
2. Tại Văn bản trình bày ý kiến số 57/UBND ngày 08/01/2024, người bị kiện
UBND huyện T trình bày:
Ngày 12/12/2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 123/NQ-CP về việc điều
chỉnh địa giới hành chính huyện S, huyện T để mở rộng địa giới hành chính thành
phố Q và thành lập phường T thuộc thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; theo đó 03 xã
N, N, N thuộc thành phố Q quản lý. Thực hiện Nghị quyết trên, UBND huyện T
đã bàn giao hồ sơ địa chính của 03 xã N, N, N cho UBND thành phố Q. Do đó,
UBND huyện T không có hồ sơ và không có thông tin để cung cấp cho Tòa án.
* Tại Văn bản ý kiến số 164/UBND-NC ngày 12/01/2024, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan UBND thành phố Q trình bày:
Qua rà soát hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện T bàn
giao thể hiện: Ngày 24/12/1998, ông Phan T8 được UBND huyện T cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa đất số 1270, tờ bản đồ số 02, diện tích
204m², xã N, huyện T, tỉnh Quảng Ngãi, số phát hành B 833530.
Ngày 05/10/2010, bà Mai Thị Đ (vợ ông Phan T8) có đơn đề nghị cấp lại, cấp đổi
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất được UBND xã N xác nhận ngày 01/4/2011 và được Văn phòng Đăng ký
quyền sử dụng đất thẩm định ngày 16/10/2011. Ngày 23/12/2011, bà Mai Thị Đ
được UBND huyện T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
ở và tài sản khác gắn liền với đất tại thửa đất số 1392, diện tích 246,3m² (trong đó
204m² đất ở tại nông thôn, 42,3m² đất trồng cây hàng năm khác), tờ bản đồ số 6,
xã N, huyện T (nay là thành phố Q) số phát hành BH 519453, số vào sổ CH 02517.
Qua kiểm tra hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phát sinh đơn
tranh chấp, do đó việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên là đảm
bảo theo quy định.
* Tại Văn bản trình bày ý kiến ngày 02/4/2024, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan UBND xã N trình bày:
6
Ngày 24/12/1998, UBND huyện T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần
đầu cho ông Phan T8 số phát hành B833530, thửa đất số 1270, tờ bản đồ số 02,
diện tích 204m
2
, loại đất ONT, bản đồ đo vẽ năm 1993 và cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất lần đầu cho ông Lý Thanh S và bà Lê Thị A, số phát hành
B833526, thửa đất số 413, tờ bản đồ số 02, diện tích 1.268m² ( trong đó 200m²
đất ONT và 1.068m² đất BHK), bản đồ đo vẽ năm 1993 nhưng theo bản đồ đo vẽ
năm 2011 (VLap), tờ bản đồ số 06, thửa đất của ông Phan T8, bà Mai Thị Đ được
đo vẽ biến động thành thửa đất số 1392, diện tích 246,3m² và thửa đất của ông Lý
Thanh S, bà Lê Thị A được đo vẽ biến động thành thửa đất số 629, diện tích
1.132m
2
.
Qua kiểm tra và chồng ghép bản đồ đo vẽ năm 1993 và bản đồ đo vẽ năm 2011,
ranh giới sử dụng đất được đo vẽ thì hai bản đồ có sự chênh lệch. Cụ thể ranh giới
bản đồ năm 2011 của thửa đất số 1392 tăng so với ranh giới đo vẽ năm 1993, phần
diện tích tăng có một phần thuộc thửa đất số 413, tờ bản đồ số 02 (đo vẽ năm
1993) nay là thửa 629 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông
Lý Thanh S và bà Lê Thị A. Thửa đất số 1392 đã được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho bà Mai Thị Đ, hiện trạng bà Phan Thị T4 là con gái của bà Mai
Thị Đ đang sử dụng.
Việc hòa giải cơ sở của UBND xã N đối với tranh chấp đất đai giữa bà Lê Thị A
với bà Mai Thị Đ: UBND xã N lập biên bản hòa giải ngày 21/12/2022, có ghi ý
kiến của ông Phạm Vũ L - Trưởng Ban công tác mặt trận thôn S, ông L có nói lúc
đó ông L là Trưởng thôn thấy 2 bên gia đình ông Phan T8 không có đường đi gây
ra xích mích ở làng xóm. Sau đó thỏa thuận 2 bên gia đình bà A để phần đất cho
gia đình ông Phan T8 đi, có giấy thỏa thuận 2 bên chứng kiến với số tiền
15.000.000đ.
Thửa đất số 1270, tờ bản đồ số 2, diện tích 204m² được UBND huyện T cấp ngày
24/12/1998 cho ông Phan T8 và bà Mai Thị Đ. Đến năm 2011, bà Mai Thị Đ cấp
đổi, cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc thửa đất số 1392, tờ bản đồ
số 6, diện tích 246,3m
2
và bà Mai Thị Đ quản lý, sử dụng, bà Lê Thị A không có
đơn tranh chấp.
Mặt khác, năm 2018 ông Lý Thanh S nộp hồ sơ đề nghị chuyển mục đích sử dụng
đất trồng cây hàng năm khác sang đất ở tại nông thôn, ông S vẫn kê khai tổng diện
tích sử dụng 1.132m² và được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Q cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số phát hành CN 022492, số vào sổ CS 11604, ngày
07/3/2018, thửa đất 629, tờ bản đồ số 6, diện tích 1.132m².
Như vậy, UBND huyện T cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Mai
Thị Đ, số phát hành BH519453, số vào sổ CH02517, cấp ngày 23/12/2011, thửa
7
đất số 1392, tờ bản đồ số 6, diện tích 246,3m² (trong đó 204m
2
đất ONT và 42,3m²
đất BHK) và cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Lý Thanh S, bà
Lê Thị A, số phát hành BH 503207, số vào sổ CH 01872, cấp ngày 23/12/2011,
thuộc thửa đất số 629, tờ bản đồ số 6, diện tích 1.132m
2
(trong đó 200m² đất ONT
và 932m² đất BHK) là theo ý chí kê khai đăng ký của ông Lý Thanh S và của bà
Mai Thị Đ, phù hợp với diện tích, tờ bản đồ đo vẽ năm 2011 đã được cấp có thẩm
quyền phê duyệt và đúng với thực tế quản lý sử dụng đất của các hộ.
Từ các căn cứ trên, UBND xã N nhận thấy bà Lê Thị A yêu cầu Tòa án giải quyết
hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BH 519453, số vào sổ cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất CH02517 do UBND huyện T cấp cho bà Mai Thị Đ ngày
23/12/2011 đối với thửa đất số 1392, tờ bản đồ số 06 xã N, diện tích 246,3m
2
,
mục đích sử dụng: Đất ở tại nông thôn 204m
2
, đất trồng cây hàng năm khác 42,3m
2
là không có cơ sở.
* Tại các Văn bản trình bày ý kiến ngày 09/01/2024, ngày 10/01/2024, ngày
11/01/2024, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan các ông bà Lý Thanh
T1, Lý Thị Thanh H1, Lý Thị Thanh T2, Lý Thị T3, Lý Thị H trình bày:
Các ông bà đều thống nhất với yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị A về việc yêu cầu
Tòa án hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BH 519453, số vào sổ cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất CH02517 do UBND huyện T cấp cho bà Mai Thị
Đ ngày 23/12/2011 đối với thửa đất số 1392, tờ bản đồ số 06 xã N, diện tích
246,3m
2
, mục đích sử dụng: Đất ở tại nông thôn 204m
2
, đất trồng cây hàng năm
khác 42,3m
2
.
* Tại Văn bản trình bày ý kiến ngày 27/3/2024, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan ông Phan Văn T5 trình bày:
Tôi tên Phan Văn T5, có vợ tên Lê Thị Bích T6, sinh năm 1977, con Phan Thị
Ánh T7, sinh năm 1999 và Phan Văn D1, sinh ngày 24/8/2005 (Âm lịch). Hiện
nay gia đình chúng tôi đã xây dựng nhà riêng và đang sinh sống trên thửa đất số
1392, tờ bản đồ số 06, xã N.
Ông Phan T8 và bà Mai Thị Đ là vợ chồng (đều đã chết), sinh được 5 người con,
hiện nay còn sống 3 người gồm: cha ruột tôi là ông Phan D, 2 cô ruột là bà Phan
Thị H2 và Phan Thị T4, hiện nay cha và 2 cô đều lớn tuổi, đang sinh sống tại thôn
S, xã N, thành phố Q. Gia đình tôi và gia đình bà Lê Thị A là hàng xóm, từ trước
đến nay không có mâu thuẫn gì.
Về nguồn gốc thửa đất số 1392 tôi không nắm rõ nhưng tôi là cháu đích tôn nên
được ông bà nội đồng ý cho về xây dựng nhà riêng ở trên đất này từ năm 2004,
trước đây tôi sống cùng cha mẹ ở nơi khác. Trên thửa đất số 1392 hiện nay có 2
8
ngôi nhà: Nhà của gia đình tôi và nhà của ông bà nội tôi (đã xây dựng từ lâu) hiện
nay cô Phan Thị T4 đang ở để thờ cúng ông bà nội.
Việc UBND huyện T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông nội Phan
T8 vào năm 1998 tôi không biết nên không có ý kiến gì. Tôi chỉ biết giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số BH 519453, số vào sổ cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất CH02517 do UBND huyện T cấp cho bà Mai Thị Đ ngày 23/12/2011
đối với thửa đất số 1392, tờ bản đồ số 06 xã N, diện tích 246,3m
2
, mục đích sử
dụng: Đất ở tại nông thôn 204m
2
, đất trồng cây hàng năm khác 42,3m².
Về diện tích đất chênh lệch 42,3m² qua 2 lần cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất là do cơ quan chức năng đo đạc thực hiện trên cơ sở hiện trạng sử dụng đất
của gia đình chúng tôi. Từ trước đến nay, diện tích đất 42,3m² gia đình chúng tôi
quản lý, sử dụng, việc bà Lê Thị A cho rằng diện tích này bà A sử dụng là không
đúng thực tế.
Ngày 21/4/2012, tôi có mua thêm của ông Lý Thanh S và bà Lê Thị A một diện
tích đất: Đông giáp đường liên thôn, Tây giáp nhà tôi, Nam giáp phần đất còn lại
của ông Lý Thanh S chiều ngang 2,1m; Bắc giáp ngõ nhà tôi (Phan Văn T5) với
số tiền 15.000.000 đồng, có ông thôn trưởng Phạm Văn L1 chứng kiến. Hiện nay
phần diện tích đất này gia đình chúng tôi đang quản lý, sử dụng.
Hiện trạng thửa đất số 1392 hiện nay: Phía Đông giáp đường bê tông có tường rào
cổng ngõ do nhà tôi xây dựng, phía Bắc giáp đất bà Lê Thị A có 2 trụ bê tông và
cây mít, cây bòng nước làm ranh giới; phía Nam và phía Bắc đều giáp đất của bà
Lê Thị A.
Về yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị A tôi đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định
của pháp luật.
* Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phan D, bà Phan Thị H2,
bà Phan Thị T4, bà Lê Thị Bích T6, chị Phan Thị Ánh T7, anh Phan Văn D1 đều
thống nhất với trình bày của ông Phan Văn T5 và không bổ sung gì thêm.
- Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 65/2024/HC-ST ngày 06/5/2024 của Tòa
án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã quyết định:
Căn cứ khoản 2 Điều 3, khoản 1 Điều 30, khoản 4 Điều 32, khoản 1 Điều 115,
khoản 1, điểm a khoản 3 Điều 116, khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 193, Điều 204,
Điều 206, khoản 1 Điều 348, Điều 358 Luật tố tụng hành chính; điểm d khoản 2
Điều 106 Luật Đất đai năm 2013; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
9
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị A: Hủy Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số BH 519453, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
CH02517 do Ủy ban nhân dân huyện T cấp cho bà Mai Thị Đ ngày 23/12/2011
đối với thửa đất số 1392, tờ bản đồ số 06 xã N, diện tích 246,3m
2
, mục đích sử
dụng: Đất ở tại nông thôn 204m
2
, đất trồng cây hàng năm khác 42,3m
2
.
2. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: Chấp nhận sự tự nguyện của bà Lê Thị
A về việc chịu toàn bộ số tiền 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) chi phí xem xét
thẩm định tại chỗ.
Ngoài ra, Bản án còn tuyên về phần chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng cáo
theo quy định của pháp luật.
Ngày 10 tháng 7 năm 2024 và ngày 11 tháng 7 năm 2024, Toà án nhân dân tỉnh
Quảng Ngãi nhận đơn kháng cáo ông Phan D, bà Phan Thị T4 và đơn kháng cáo
của ông Phan Văn T5 là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, kháng cáo toàn
bộ Bản án sơ thẩm, đề nghị Toà án cấp phúc thẩm sửa Bản án sơ thẩm theo hướng
bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện bà Lê Thị A.
Ngày 25/7/2024, Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi nhận đơn đề nghị miễn nộp
tiền tạm ứng án phí của ông Phan D, sinh năm 1940.
Tại phiên toà phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng
cho rằng Thẩm phán chủ toạ và Hội đồng xét xử phúc thẩm đã chấp hành đúng
quy định của Luật tố tụng hành chính trong giai đoạn xét xử phúc thẩm; về nội
dung, Toà án cáp sơ thẩm đã gải quyết vụ án có căn cứ và đúng pháp luật; kháng
cáo của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có căn cứ; về ý kiến của
người kháng cáo cho rằng Toà án cấp sơ thẩm bỏ sót người tham gia tố tụng tuy
có vi phạm nhưng không làm thay đổi bản chất nội dung vụ án. Đề nghị Hội đồng
xét xử phúc thẩm căn cứ vào khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính: bác kháng
cáo, giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh
tụng tại phiên tòa và xem xét quan điểm của Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử phúc
thẩm nhận định như sau:
[1] Tại phiên toà phúc thẩm hôm nay, người khởi kiện không có đơn rút đơn khởi
kiện. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có kháng cáo ông Phan D; ông Thới
Mạnh C là người đại diện theo uỷ quyền của bà Phan Thị T4 và ông Phan T5 bổ
sung nội dung kháng cáo, đề nghị Toà án cấp phúc thẩm xem xét huỷ Bản án sơ
thẩm vì cho rằng Toà án cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và giải
quyết vụ án chưa đủ căn cứ.
10
[2] Xét nội dung kháng cáo về đề nghị huỷ bản án sơ thẩm. Hội đồng xét xử phúc
thẩm thấy rằng: Người khởi kiện bà Lê Thị A khởi kiện yêu cầu Toà án xem xét
huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà UBND huyện T, tỉnh Quảng Ngãi
cấp cho bà Mai Thị Đ ngày 23/12/2011 đối với thửa đất số 1392, tờ bản đồ số 06
xã N. Toà án cấp sơ thẩm xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị A.
Tuy nhiên, tại phiên toà phúc thẩm, người cơ quyền lợi nghĩa vụ liên quan có
kháng cáo xuất trình các tài liệu có nội dung: bà Mai Thị Đ chết ngày 6/4/2016 và
có 5 người con: Phan Dung, Phan K, Phan Thị H3, Phan Thị H2, Phan Thị T10.
Trong đó ông Phan Khai s 1942, chết 2009, có 3 người con: Phan Khai T11, Phan
Đức T12, Phan Đức T13.
Ông Thới Mạnh C khai bà Phan Thị H3 chết năm 2022 và có 5 người con, cụ thể:
Bà Phan Thị H3 có các người con là Tiêu Thị Đ2 (sinh năm 1971, trú tại tổ A,
phường N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi), Tiêu Thị L2 (sinh năm 1973, trú tại
Thôn S, xã N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi), Tiêu Viết T14 (sinh năm 1982, trú
tại quận B, thành phố Hồ Chí Minh). Tiêu Thị Thu L3 (sinh năm 1986 trú tại Thôn
S, xã N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi) và Tiêu Viết S1 (sinh năm 1994, trú tại
Thôn S, xã N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi).
Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng, những người con của ông Phan K và của
bà Phan Thi H4 là những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng trong vụ án
nhưng Toà án cấp sơ thẩm không đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách người
kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, làm ảnh hưởng dến quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự.
[3] Mặt khác, việc bà Lê Thị A yêu cầu huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
được UBND huyện T cấp cho bà Mai Thị Đ có liên quan đến việc giải quyết tranh
chấp đất đai. Mặc dù tại phiên toà sơ thẩm, Toà án cấp sơ thẩm đã giải thích hướng
dẫn cho người khởi kiện về việc rút đơn khởi kiện vụ án hành chính để khởi kiện
vụ án dân sự nhưng người khởi kiện vần giữ nguyên yêu cầu nên Toà án cấp sơ
thẩm tiến hành xét xử vụ án hành chính. Tuy nhiên, để giải quyết vụ án đúng pháp
luật và triệt để tránh tranh chấp chấp kéo dài, vụ việc này cần được giải quyết
bằng vụ án dân sự trước. Do đó, khi giải quyết lại vụ án, Toà án cần tiếp tục giải
thích, hướng dẫn cho đương sự rõ.
Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét phúc thẩm thấy rằng, Toà án cấp
sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, làm ảnh hưởng đến quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự nên Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng
cáo của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, huỷ Bản án sơ thẩm, giao hồ sơ
11
vụ án về cho Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo đúng quy định của pháp
luật.
Về án phí hành chính phúc thẩm:
Do kháng cáo được chấp nhận và vụ án bị huỷ nên đương sự kháng cáo không
phải chịu án phí phúc thẩm.
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo kháng nghị có hiệu
lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 241 Luật tố tụng hành chính:
Chấp nhận kháng cáo của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Phan D, Bà
Phan Thị T4 và ông Phan Văn T5, huỷ Bản án sơ thẩm số 26/2024/HC-ST ngày
26/6/2024 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.
Chuyển giao hồ sơ vụ án về cho Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi để giải quyết
lại theo thủ tục sơ thẩm theo đúng quy định của pháp luật.
2. Về án phí hành chính phúc thẩm:
- Ông Phan D, bà Phan Thị T4, ông Phan Văn T5 không phải chịu án phí phúc
thẩm.
- Bà Phan Thị T4, ông Phan Văn T5, mỗi người được trả lại 300.000 đồng
án phí hành chính phúc thẩm, theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0004221 ngày
25/7/2024 do bà Phan Thị T4 nộp và biên lai thu tạm ứng số 0004222 ngày
25/7/2024 (đều do Lê Thị Bích T6 nộp thay bà T4 và ông T5) của Cục thi hành
án dân sự tỉnh Quảng Ngãi.
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo kháng nghị có
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND tối cao;
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- TAND tỉnh Quảng Ngãi;
- VKSND tỉnh Quảng Ngãi;
- Cục THADS tỉnh Quảng Ngãi;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu HSVA, P.HCTP, LT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Cường
12
Tải về
Bản án số 405/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 405/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng