Bản án số 1199/2024/HC-PT ngày 18/11/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 1199/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 1199/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 1199/2024/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 1199/2024/HC-PT ngày 18/11/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 1199/2024/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 18/11/2024 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Bác kháng cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 1199/2024/HC-PT
Ngày 18 tháng 11 năm 2024
“V/v Khiếu kiện quyết định hành chính
trong lĩnh vực quản lý đất đai”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Phạm Văn Công
Các thẩm phán: Ông Vương Minh Tâm
Bà Trần Thị Hoà Hiệp
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Hồng Nhung - Thư ký Tòa án nhân
dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Lê Tấn Cường - Kiểm sát viên cao cấp.
Ngày 18 tháng 11 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số
793/2024/TLPT-HC ngày 07 tháng 10 năm 2024 về “Khiếu kiện quyết định
hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 02/2024/HC-ST ngày 22/5/2024 của
Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 3164/2024/QĐPT-HC
ngày 01 tháng 11 năm 2024 giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Ông Lương Văn M, sinh năm 1968 – Vắng mặt;
Địa chỉ: Ấp Nhà Mát, xã Trường Long Hòa, thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà
Vinh;
Người đại diện hợp pháp của người khởi kiện: Anh Lê Tranh Đ, sinh năm
1990; Địa chỉ: Khóm Bến Chuối, Phường 1, thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh
(Văn bản ủy quyền ngày 07/8/2024 tại Ủy ban nhân dân Phường I, thị xã Duyên
Hải) – Có mặt;
2
2. Người bị kiện:
2.1. Ủy ban nhân dân thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh;
2.2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh;
Cùng địa chỉ: Số 14, Đường 3/2, Khóm 1, Phường 1, thị xã Duyên Hải,
tỉnh Trà Vinh;
Người đại diện hợp pháp của Ủy ban nhân dân thị xã Duyên Hải, Chủ
tịch Ủy ban nhân dân thị xã Duyên Hải: Bà Cao Thị Hồng G, Phó Chủ tịch Ủy
ban nhân dân thị xã Duyên Hải (Văn bản ủy quyền số 12/GUQ-UBND ngày
14/11/2024) – Có mặt;
3. Người kháng cáo: Ông Lương Văn M;
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong các đơn khởi kiện ngày 16/6/2023, 20/10/2023, 29/11/2023 và lời
khai tiếp theo, người khởi kiện ông Lương Văn M và người đại diện hợp pháp
của ông Mỹ trình bày:
Thửa đất số 458, diện tích 2.122,4 m
2
, tờ bản đồ số 02, ấp Nhà Mát, xã
Trường Long Hòa, thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh trước đây là đất hoang, động
cát, gia đình ông đã khai hoang vào năm 1983, đến năm 1991 gia đình ông trồng
khoai trên đất này. Năm 1996, ông đã kê khai vào Sổ mục kê đất, sử dụng ổn
định không tranh chấp. Năm 1998 ông giao đất cho em của ông là bà Nguyễn
Thị H tiếp tục canh tác và quản lý đến nay. Đầu năm 2022, Ủy ban nhân dân xã
Trường Long Hòa thông báo cho gia đình ông biết đã thu hồi Thửa đất 458
nhưng không rõ lý do vì sao thu hồi. Vào ngày 19/9/2022 ông có đơn yêu cầu
bồi thường, hỗ trợ thì Ủy ban nhân dân thị xã Duyên Hải ban hành Công văn số
3069/UBND-NC ngày 28/10/2022 (sau đây viết tắt là Công văn số 3069), ngày
23/11/2022 ông có đơn khiếu nại thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã Duyên Hải
ban hành Quyết định số 712/QĐ-UBND ngày 18/5/2023 (sau đây viết tắt là
Quyết định số 712) không chấp nhận yêu cầu của ông, làm ảnh hưởng nghiêm
trọng đến quyền lợi của ông, ông khiếu nại từ ngày 23/11/2022 đến ngày
18/5/2023 mới có quyết định giải quyết là vi phạm thời hạn giải quyết khiếu nại.
Ông Lương Văn M khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết hủy Quyết định
số 712 và hủy Công văn số 3069 nêu trên.
Người đại diện hợp pháp của người bị kiện Ủy ban nhân dân thị xã Duyên
Hải, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã Duyên Hải trình bày:
3
Nguồn gốc Thửa đất số 458, diện tích 2.122,4 m
2
, tờ bản đồ số 02, ấp Nhà
Mát, xã Trường Long Hòa, thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh là đất do Nhà nước
quản lý. Trước năm 1975, cố Lương Văn Đ
1
(là ông nội của ông Lương Văn M)
khai phá, sử dụng khoảng 02 công, ông M canh tác được một thời gian thì Ban
Kiến thiết tỉnh xuống ban đất ra bằng phẳng để cất nhà, nhưng sau đó không
thực hiện nên để đất trống, cùng thời điểm này, cha của ông M là cụ Lương Văn
Q có phần đất giáp ranh Thửa đất 458, sau này cho lại con là Lương Văn X canh
tác, sử dụng đến khi Nhà nước thu hồi xây dựng Trường trung học cơ sở Trường
Long Hoà. Trước đây, gia đình nào có đất canh tác giáp động cát thì bao chiếm
để trồng khoai lang vào mùa mưa, ông M thấy Thửa đất 458 còn trống, không ai
canh tác, có phần trũng nước khoảng 01 công (phần đất trũng do ông X canh tác,
khi ông X chết nên đất bỏ trống) nên ông M bao chiếm sử dụng khoảng 03 năm
thì không sử dụng nữa mà ra thuê đất gần bãi biển canh tác đến nay.
Năm 1992, Nhà nước có chủ trương trồng cây dương lên đất động cát, tại
vị trí Thửa 458 đã được Kiểm lâm trồng cây dương, không trồng trên phần đất
trũng, ông M không ngăn cản việc trồng cây. Năm 1996, có Đoàn đo đạc địa
chính thì ông M kê khai Thửa đất số 458, diện tích 2.122,4 m
2
.
Năm 1999, cụ Nguyễn Thành B và cụ Lê Thị L (là cha mẹ nuôi của ông
M) chiếm một phần Thửa 458 cất nhà tre lá để ở. Năm 2005, Nhà nước giao một
phần đất động cát cho Hợp tác xã Phương Đông xây dựng trụ sở làm việc, ngoài
diện tích căn nhà tre lá của cụ B, cụ L thì diện tích còn lại không ai canh tác.
Hợp tác xã hoạt động được một thời gian thì cụ L hỏi xin đất để sửa chữa, cất lại
nhà nhưng Ủy ban nhân dân xã Trường Long Hoà không đồng ý nên cụ L có
cam kết tiếp tục mượn đất Nhà nước để ở, khi nào Nhà nước cần thì sẽ trả lại mà
không yêu cầu bồi hoàn.
Ủy ban nhân dân huyện Duyên Hải có Quyết định số 1292/QĐ-UBND
ngày 13/3/2015 giao đất cho hộ Trần Văn T (dân tộc thiểu số) Thửa đất số 1767,
diện tích 178,6 m
2
có nguồn gốc chiết một phần Thửa 458, nhưng hộ ông T
không sử dụng, khi có chủ trương xây dựng công viên xã thì Ủy ban nhân dân
xã Trường Long Hoà vận động ông T đồng ý giao lại phần đất này và hộ ông T
đã được bố trí đất ở nơi khác.
Tại Biên bản tiếp xúc giữa Ủy ban nhân dân xã Trường Long Hoà với ông
M vào ngày 22/4/2022 thì ông M đã trình bày và khẳng định Thửa đất số 458 do
Nhà nước quản lý, trước đây ông chỉ sử dụng tạm trồng khoai khoảng 02 năm.
4
Như vậy, khoảng từ năm 1992 đến trước khi Nhà nước thực hiện công
trình xây dựng Công viên xã Trường Long Hoà vào tháng 4/2022 thì ông M
không canh tác, sử dụng đất, cũng không ngăn cản Nhà nước trồng cây dương
trên đất, không khiếu nại gì liên quan đến Thửa đất số 458. Do đó, theo quy định
tại khoản 1 Điều 75, khoản 2 Điều 101 Luật Đất đai năm 2013 và khoản 1 Điều
21 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 thì ông M không đủ điều kiện
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, không đủ điều kiện được bồi
thường, hỗ trợ về đất khi Nhà nước thu hồi đất, nên đề nghị không chấp nhận
khởi kiện của ông M.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 02/2024/HC-ST ngày 22/5/2024 của
Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh đã quyết định:
Căn cứ vào Điều 28, khoản 1 Điều 30, khoản 4 Điều 32, điểm a khoản 2
Điều 193, khoản 1 Điều 206, khoản 1 Điều 348, Điều 358 của Luật tố tụng hành
chính năm 2015; Khoản 1 Điều 32 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
Bác yêu cầu khởi kiện của ông Lương Văn M về yêu cầu hủy Công văn số
3069/UBND-NC ngày 28/10/2022 của Ủy ban nhân dân huyện Duyên Hải về
việc trả lời đơn của ông Lương Văn M, Quyết định số 712/QĐ-UBND ngày
18/5/2023 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã Duyên Hải về việc giải quyết
khiếu nại của ông Lương Văn M (lần đầu);
Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí hành chính sơ thẩm và
quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 04/6/2024, người khởi kiện ông Lương Văn M có đơn kháng cáo
yêu cầu sửa Bản án sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:
Anh Lê Tranh Đ giữ nguyên kháng cáo của ông Lương Văn M, vì nguồn
gốc đất do ông M khai hoang, trồng khoai từ năm 1992 đến năm 1994 thì giao
lại cho em là bà Nguyễn Thị H quản lý sử dụng cho đến nay, có nhiều người dân
lân cận làm chứng; ông M đã kê khai vào Sổ mục kê đất năm 1996; Việc Ủy ban
nhân dân thị xã Duyên Hải cho rằng có nhầm lẫn bản đồ địa chính nên mới để
cho ông M kê khai đất là không có cơ sở. Ủy ban nhân dân có lập biên bản làm
việc hứa sẽ bồi hoàn, hỗ trợ cho bà H, chứng tỏ Ủy ban nhân dân đã thừa nhận
5
đất của bà H, cũng chính là đất của ông M. Việc ông M thừa nhận đất của Nhà
nước tại Biên bản tiếp xúc ngày 22/4/2022 là không có giá trị vì đất là của chung
vợ, chồng, con của ông M nhưng Ủy ban chỉ tiếp xúc chỉ một mình ông M mà
không hỏi ý kiến của vợ con ông M là không đúng. Theo quy định tại khoản 2
Điều 77 Luật đất đai năm 2013 thì ông M có đủ điều kiện để được bồi thường,
hỗ trợ về đất. Quyết định số 712 có vi phạm về thời hạn giải quyết khiếu nại. Do
đó, yêu cầu sửa Bản án sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông
M.
Bà Cao Thị Hồng G không đồng ý kháng cáo của ông M và đề nghị xem
xét Quyết định số 712 có vi phạm thời hạn nhưng không làm thay đổi nội dung
sự việc. Sau khi có đơn yêu cầu của ông M thì Ủy ban nhân dân thị xã Duyên
Hải có thành lập Đoàn kiểm tra xác minh, kết quả là Thửa đất số 458 là của Nhà
nước. Từ năm 1992 đến nay, gia đình ông M không quản lý, sử dụng phần đất
này. Cũng tại vị trí Thửa đất số 458 này thì bà Nguyễn Thị H trình bày là đất của
bà khai phá, không phải là đất của ông M và bà H đang khởi kiện vụ án hành
chính tại Tòa án nhân dân thị xã Duyên Hải đang thụ lý, chưa giải quyết.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh có ý
kiến Hội đồng xét xử và người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định của
Luật tố tụng hành chính; Đơn kháng cáo hợp lệ. Về nội dung đề nghị bác kháng
cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả
tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Đơn kháng cáo của ông Lương Văn M đảm bảo hình thức, thời hạn,
đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Ông Lương Văn M khởi kiện đối với quyết định hành chính trong thời
hạn chưa quá 01 năm kể từ ngày có quyết định bị khởi kiện. Do đó Tòa án cấp
sơ thẩm đã xác định về thời hiệu khởi kiện, đối tượng khởi kiện, thẩm quyền
giải quyết vụ án là đúng quy định tại khoản 1 Điều 30, khoản 4 Điều 32, điểm a
khoản 2 Điều 116 và Điều 193 Luật tố tụng hành chính năm 2015.
[3] Về hình thức, thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời hạn của văn bản hành
chính bị khởi kiện: Nội dung đơn đề ngày 19/9/2022 (bút lục 86, 87) ông Lương
Văn M yêu cầu được bồi thường, hỗ trợ, không phải là đơn khiếu nại nên Ủy
ban nhân dân thị xã Duyên Hải trả lời bằng hình thức công văn là không trái quy
6
định của pháp luật. Quyết định số 712 được ban hành đúng theo quy định tại
Điều 18, mục 2 Chương 3 Luật Khiếu nại năm 2011.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã Duyên Hải có vi phạm thời hạn giải
quyết khiếu nại nhưng vi phạm này không làm thay đổi bản chất của vụ việc,
nên không đến mức phải hủy quyết định hành chính vì lý do này.
[4] Tư liệu địa chính qua các thời kỳ và các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ
vụ án thể hiện Thửa đất số 458, diện tích 2.122,4 m
2
, tờ bản đồ số 02, ấp Nhà
Mát, xã Trường Long Hòa, thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh là đất động cát do
Ủy ban nhân dân xã Trường Long Hoà quản lý; vào khoảng năm 1991-1992 ông
M tự ý trồng khoai được khoảng 02 năm thì không tiếp tục sử dụng đất cho đến
nay. Tại Biên bản tiếp xúc ngày 22/4/2022, ông M cũng thừa nhận là đất của
Nhà nước và Đoàn đo đạc cho ông kê khai vào sổ mục kê năm 1996. Sổ mục kê
năm 1996 không phải là một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy
định tại điểm g khoản 1 Điều 100 Luật đất đai năm 2013. Do đó, không có cơ sở
để xác định ông M là chủ sử dụng hợp pháp đối với Thửa đất số 458 nêu trên,
nên ông M không đủ điều kiện để được bồi thường về đất theo quy định tại Điều
75 Luật đất đai năm 2013; đồng thời, trên đất cũng không có tài sản gì của ông
M. Vì vậy Ủy ban nhân dân thị xã Duyên Hải ban hành Công văn số 3069 không
chấp nhận yêu cầu của ông M và Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã Duyên Hải
ban hành Quyết định số 712 bác khiếu nại của ông M là đúng quy định của pháp
luật.
[5] Ông Lương Văn M không cung cấp được chứng cứ chứng minh cho
yêu cầu kháng cáo của ông là có căn cứ và hợp pháp, nên không có căn cứ để
chấp nhận, giữ nguyên Bản án sơ thẩm theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát
nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh là phù hợp.
[6] Do không được chấp nhận kháng cáo nên ông Lương Văn M phải chịu
án phí hành chính phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
[7] Quyết định của Bản án sơ thẩm về án phí hành chính sơ thẩm không
có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng
cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 1 Điều 241 của Luật tố tụng hành chính; Điều 34 Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
7
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ
phí Tòa án;
2. Không chấp nhận kháng cáo của ông Lương Văn M; Giữ nguyên Bản
án hành chính sơ thẩm số 02/2024/HC-ST ngày 22/5/2024 của Tòa án nhân dân
tỉnh Trà Vinh.
Không chấp nhận khởi kiện của ông Lương Văn M về việc yêu cầu hủy
Công văn số 3069/UBND-NC ngày 28/10/2022 của Ủy ban nhân dân huyện
Duyên Hải về việc trả lời đơn của ông Lương Văn M và Quyết định số 712/QĐ-
UBND ngày 18/5/2023 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã Duyên Hải về việc
giải quyết khiếu nại của ông Lương Văn M (lần đầu);
3. Ông Lương Văn M phải nộp án phí hành chính phúc thẩm là 300.000
đồng (Ba trăm ngàn đồng) và được khấu trừ tạm ứng án phí đã nộp 300.000
đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo Biên lai thu số 0003993 ngày 07/6/2024 của
Cục Thi hành án dân sự tỉnh Trà Vinh;
4. Quyết định của Bản án sơ thẩm về án phí hành chính sơ thẩm không có
kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng
cáo, kháng nghị.
5. Bản án này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSND cấp cao tại TP.HCM;
- Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh;
- VKSND tỉnh Trà Vinh;
- Cục THADS tỉnh Trà Vinh;
- Các đương sự;
- Lưu: HS, VP, NTHN.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phạm Văn Công
8
Tải về
Bản án số 1199/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 1199/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 14/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm