Bản án số 38/2025/DS-PT ngày 20/01/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp đất đai

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 38/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 38/2025/DS-PT ngày 20/01/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp đất đai
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đất đai
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại Đà Nẵng
Số hiệu: 38/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 20/01/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị H
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 38/2025/DS-PT
Ngày: 21-01-2025
V/v: “Đòi lại đất và yêu cầu huỷ
Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
ông Lê Tự
ông Phạm Tồn
ông Trần Đức Kiên
- Thư ký phiên tòa: bà Đặng Ngọc Gia Linh, Thư ký Tòa án.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên tòa:
ông Đinh Văn Chánh, Kiểm sát viên.
Ngày 21 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng
xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số 179/2024/TLPT-DS ngày 01
tháng 10 năm 2024 về việc “Đòi lại đất và yêu cầu huỷ Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất”.
Do Bản án dân sự thẩm số 53/2024/DS-ST ngày 01 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình bị kháng cáo.
Giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:Nguyễn Thị H, sinh năm 1981
Địa chỉ: thôn T, xã N, huyện L, tỉnh Quảng Bình;
Người đại diện theo ủy quyền của bà H: ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1990
Địa chỉ: thôn M, xã H, huyện L, tỉnh Quảng Bình;
- Bị đơn: + Bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1964
Địa chỉ: thôn T, xã N, huyện L, tỉnh Quảng Bình;
Người đại diện theo ủy quyền của bà H: ông Trần Tiến B, sinh năm 1965
Địa chỉ: thôn T, xã N, huyện L, tỉnh Quảng Bình;
+ Ông Hồ Hữu C1, sinh 1975; bà Nguyễn Thị T1, sinh năm 1976
Địa chỉ: thôn T, xã N, huyện L, tỉnh Quảng Bình;
2
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Ủy ban nhân dân huyện L, tỉnh Quảng Bình;
Người đại diện theo ủy quyền: ông Trần Duy B1 - Phó Trưởng phòng Tài
nguyên và Môi trường huyện L;
+ Ủy ban nhân dân xã N, huyện L, tỉnh Quảng Bình
Người đại diện theo ủy quyền: ông Võ Quang T2 Công chức địa chính
UBND xã N, huyện L, tỉnh Quảng Bình;
+ Ông Nguyễn Văn V, sinh năm 1976
Địa chỉ: thôn T, xã N, huyện L, tỉnh Quảng Bình.
Người đại diện theo ủy quyền của ông V: ông Nguyễn Văn T, sinh năm
1990
Địa chỉ: thôn M, xã H, huyện L, tỉnh Quảng Bình.
- Người kháng cáo: nguyên đơn bà Nguyễn Thị H.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, Bản tự khai, Biên bản hòa giải và tại phiên tòa
Nguyễn Thị H người đại diện theo uỷ quyền của H (viết tắt nguyên đơn)
trình bày:
Năm 2013, vợ chồng nguyên đơn được Uỷ ban nhân dân (viết tắt UBND)
huyện L cấp Giấy chứng nhận quyền s dụng đất (viết tắt GCNQSDĐ) số BP
313338 ngày 03/10/2013, có diện tích 829m
2
tại thửa đất số 125, tờ bản đồ số 7
N, huyện L, tỉnh Quảng Bình. Nguồn gốc thửa đất này do ông Nguyễn Văn T3
khai hoang từ năm 1973 (ông T3 đã chết bố của ông Nguyễn Văn V chồng
nguyên đơn), tặng cho vchồng nguyên đơn từ năm 1996; năm 2003 nguyên đơn
sử dụng đất trồng cây bạch đàn, năm 2003 vợ chồng nguyên đơn đi làm thuê tại
tỉnh Rịa Vũng Tàu, năm 2006 nguyên đơn có thuê người đổ thêm cát để xây
dựng nhà ở. Năm 2012 vợ chồng nguyên đơn về sinh sống tại quê nhà thì phát hiện
ông C1, T1 đã xây dựng nhà ở trên một phần diện tích đất của nguyên đơn. Qua
tìm hiểu được biết năm 2009 bà Nguyễn Thị C đã được UBND huyện L cấp
GCNQSDĐ trên một phần thửa đất của vợ chồng nguyên đơn, do đó nguyên đơn
khởi kiện yêu cầu hủy GCNQSDĐ số BB 048459 ngày 08/6/2010 của UBND
huyện L cấp cho Nguyễn Thị C tại thửa đất số 216, Tờ bản đồ số 7 thôn T, diện
tích 396m
2
và buộc ông Hồ Hữu C1, bà Nguyễn Thị T1 .
Tại Bản tự khai, Biên bản hòa giải tại phiên tòa Nguyễn Thị C
người đại diện theo uỷ quyền của bà C (viết tắt là bà Nguyễn Thị C) trình bày:
Năm 2009 bà Nguyễn Thị C đấu trúng 02 thửa đất, gồm: Thửa đất số 216, tờ
bản đồ số 7 thôn T, N, huyện L, diện tích 396m
2
đã được UBND huyện L
cấp GCNQSDĐ số BB 048459 ngày 08/6/2010 và thửa đất số 216, tờ bản đồ số 7
thôn T, có diện tích 300m
2
đã được UBND huyện L cấp GCNQSDĐ số BB
048460 ngày 08/6/2010 (bà C đấu giá trúng hai thửa đất được cấp hai Giấy
3
GCNQSDĐ cùng thửa đất số 216, tờ bản đồ số 7 N Bắc nhưng hai thửa đất
hai thôn diện tích đất khác nhau). Sau khi đấu giá trúng hai thửa đất
Nguyễn Thị C đã sử dụng thửa đất số 216, tờ bản đồ số 7 thôn T, diện tích
300m
2
để làm nhà ở, riêng thửa đất số 216, tờ bản đồ số 7 thôn T, diện tích 396m
2
đất sạch (không cây trồng) bà Nguyễn Thị C chưa sử dụng thì nguyên đơn
tranh chấp. Việc bà Nguyễn Thị C đấu trúng 02 thửa đất vào năm 2009 và đã được
UBND huyện L cấp GCNQSDĐ theo đúng quy định, hiện nay trên bản đ địa
chính năm 2018 không thể hiện thửa đất của bà Nguyễn Thị C do lỗi của
quan Nhà nước, do đó Nguyễn Thị C không chấp nhận việc khởi kiện của
nguyên đơn.
Tại Bản tự khai, Biên bản hòa giải tại phiên tòa ông Hồ Hữu C1,
Nguyễn Thị T1 (viết tắt là ông C1, bà T1) trình bày:
Năm 2010, ông C1, T1 nhu cầu xây dựng nhà nên đã liên hệ với
UBND xã N được công chức địa chính, Chủ tịch UBND xã N cho biết thửa đất
số 125, tờ bản đồ số 7 thôn T, diện tích 396m
2
đất đã đưa ra đấu giá năm 2009
nhưng không người tham gia đấu thửa đất này, khu vực này nguyên khe
nước chảy, sâu nhưng do ông C1, T1 nhu cầu làm nhà nên ông C1, T1 đã
đăng ký mua và tiến hành xây dựng nhà ở từ đầu năm 2011, sinh sống ổn định cho
đến nay không tranh chấp; nguyên đơn sống cùng thôn biết ông C1, T1 làm
nhà nhưng cũng không có ý kiến gì. Quá trình sử dụng đất nguyên đơn đã làm việc
với UBND xã N để nộp tiền mua thửa đất theo quy định, nhưng đến nay chưa được
thực hiện, do đó ông C1, bà T1 không chấp nhận việc khởi kiện của nguyên đơn.
Tại Bản tự khai, Biên bản hòa giải tại phiên tòa ông Nguyễn Văn V
người đại diện theo ủy quyền của ông V trình bày: ông chồng của nguyên đơn
trong vụ án này và ông đồng nhất với lời trình bày của nguyên đơn.
Tại Công văn số 1071/UBND – TNMT ngày 07/5/2024 của UBND huyện L
là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vụ án trình bày:
Theo hồ lưu trữ tại Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện L thì
Nguyễn Thị C được UBND huyện L cấp GCNQS số BB 048460 ngày
08/6/2010, tại thửa đất số 216, Tờ bản đồ số 7 xã N Bắc; nguồn gốc thửa đất thông
qua kết quả đấu giá quyền sử dụng đất.
Tại Công văn số 221/CV - UBND ngày 30/5/2024 của UBND xã N, huyện L
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vụ án trình bày:
Thửa đất s216, tờ bản đồ số 7, thôn T, diện tích 396 m
2
của Nguyễn Thị C đã
được UBND huyện L cấp GCNQSDĐ số BB 048459 ngày 08/6/2010 không thể
hiện trên bản đồ địa chính được phê duyệt năm 2014 và năm 2018. Trên địa bàn
N Bắc được đo đạc bản đồ địa chính qua 2 thời kỳ: Năm 2007 đo đạc lập bản đồ
địa chính sở Tài nguyên & i trường tỉnh Q nhưng được phê duyệt ngày 13
tháng 3 năm 2014 (lần 1); năm 2017 đo đạc bản đồ địa chính được Sở T phê duyệt
4
ngày 13 thàng 12 năm 2018 (lần 2). Trong quá trình đo đạc đơn vị đo vẻ, cán bộ
Địa chính qua các thời kỳ không theo dõi cập nhật hồ Địa chính của chủ sử
dụng đất nên thửa đất số 216, tờ bản đồ số 7, diện tích 396 m
2
cấp ngày 08/6/2010
mang tên Nguyễn Thị C không thể hiện trên bản đồ Địa chính phê duyệt năm 2014
2018; sổ Mục đất đai (Thửa đất số 216, tờ bản đồ số 7, diện tích 396 m
2
được đo vẽ phân bằng thủ công không tọa độ địa chính). Theo thông tin
khai của chủ sử dụng đất Nguyễn Thị C thì thửa đất số 125, tờ bản đồ số 7,
diện tích 829 m
2
được UBND huyện L cấp GCNQSDĐ số số BP 313338 cấp ngày
03/10/2013 cho ông V, H (thửa đất này thể hiện trên nền bản đồ được đo v
năm 2007 ST duyệt năm 2014) đã chồng lấn lên thửa đất của bà C đấu trúng giá
được UBND huyện L cấp GCNQSDĐ số BB 048459 ngày 08/6/2010.
Qua kiểm tra hồ sơ lưu trữ tại UBND xã N qua các thời kỳ thì không
tìm thấy số liệu và giấy tờ liên quan đến việc kiểm tra và giao đất thực địa cho ông
V, H tại thửa đất s125, Tờ bản đồ số 7 thôn T, xã N, diện tích 829 m
2
. Khai
thác hồ lưu trữ tại N Bắc qua các thời klưu trữ: Bản vẽ quy hoạch chi
tiết phân đất đất thuộc khu vực thôn T & thôn T (bản po to do UBND
huyện L duyệt năm2008); Biên bản giao đất ngày 28/4/2010 của Nguyễn Thị C
(bản pho to chữ không đầy đủ); Danh sách các hộ cấp Giấy chứng nhận năm
2010 của UBND N Bắc ngày 22/3/2010 (bản pho to); Không hồ đấu giá
của Trần Thị H1; Không có hồ sơ cấp giấy lần đầu của ông V, bà H (chỉ bản
pho to khai thác tại Chi nhánh VPĐKQSD đất huyện L).
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 53/2024/DS-ST ngày 01 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình quyết định:
Căn c Điều 34, Điều 157, Điều 165, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015; Điều 96, điểm đ khoản 1 Điều 99 và Điều 203 Luật Đất đai năm
2013; khoản 3 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;
1. Không chấp nhận đơn khởi kiện của Nguyễn Thị H về việc yêu cầu
Nguyễn Thị C trả lại 300m
2
đất ông Hồ Hữu C1, Nguyễn Thị T1 trả lại
529m
2
đất tại thửa đất số 125, tờ bản đồ s7 N, huyện L, tỉnh Quảng Bình
hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BB 048459 ngày 08/6/2010 của Ủy
ban nhân dân huyện L cấp cho Nguyễn Thị C tại thửa đất số 216, Tờ bản đồ số
7 thôn T, diện tích 396m
2
và buộc ông Hồ Hữu C1, bà Nguyễn Thị T1 tháo dỡ nhà
ở đã xây dựng trái phép trên thửa đất.
2. Huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BP 313338 ngày 03/10/2013
của Ủy ban nhân dân huyện L cấp cho ông Nguyễn Văn V, Nguyễn Thị H tại
thửa đất số 125, tờ bản đồ số 7 xã N, huyện L, tỉnh Quảng Bình.
3. Kiến nghị Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Q, Ủy ban nhân dân huyện
L, Ủy ban nhân dân N Bắc điều chỉnh tờ bản đồ số 7 N Bắc theo đúng thực
5
tế sử dụng đất của bà Nguyễn Thị C và các các hộ sử dụng đất liền kề.
4. Kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện L Ủy ban nhân dân N, huyện L
sửa đổi hồ sơ bán đấu giá năm 2009 đối với thửa đất số 216, tờ bản đồ số 7 thôn T,
N, huyện L; diện tích 396m
2
đã được UBND huyện L cấp GCNQSDĐ số BB
048459 ngày 08/6/2010 cho bà Nguyễn Thị C theo đúng địa chỉ thửa đất.
Ngoài ra, bản án thẩm còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng quyền
kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Kháng cáo:
Ngày 14/8/2024, nguyên đơn Nguyễn Thị H kháng cáo đối với Bản án
dân sự sơ thẩm số 53/2024/DS-ST ngày 01 tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân dân
tỉnh Quảng Bình, yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm chấp nhận toàn bộ nội dung khởi
kiện của nguyên đơn; hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BB 048459 do
UBND huyện L cấp ngày 08/6/2010 cho Nguyễn Thị C trả lại đất cho
Nguyễn Thị H; buộc ông Hồ Hữu C1 bà Nguyễn Thị T1 tháo dỡ căn nhà xây
trái phép và trả lại 529m² đất tại thửa đất số 125, tờ bản đồ số 7, địa chỉ: thôn T,
N, huyện L, tỉnh Quảng Bình đã lấn chiếm của nguyên đơn.
Ti phiên tòa phúc thm:
Ngưi kháng cáo gi nguyên ni dung kháng cáo.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nng:
Toà án cấp thẩm đã xét xử vụ án căn cứ đúng pháp luật; kháng cáo của
nguyên đơn là không sở, không chứng cứ mới làm thay đổi bản chất nội
dung vụ án nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ vào khoản 1 Điều 308
Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN
[1] Năm 2009 Nguyễn Thị C đấu trúng 02 thửa đất, gồm: Thửa đất số
216, tờ bản đồ số 7 thôn T, N, huyện L, diện tích 396m
2
đã được UBND
huyện L cấp GCNQSDĐ số BB 048459 ngày 08/6/2010 (hồ sơ ghi thửa đất thôn
T); thửa đất số 216, tờ bản đồ số 7 thôn T, N, diện tích 300m
2
đã được
UBND huyện L cấp GCNQSDĐ số BB 048460 ngày 08/6/2010. Như vậy,
Nguyễn Thị C đấu giá trúng hai thửa đất và đã được cấp hai giấy GCNQSDĐ cùng
thửa đất số 216, tờ bản đồ số 7 N Bắc, nhưng hai thửa đất tại hai thôn (Thôn T
thôn T) diện tích tại hai thửa đất này cũng khác nhau (bút lúc số 100, 101,
102, 173, 174 và 175).
[2] Năm 2013 nguyên đơn được UBND huyện L cấp GCNQSDĐ số BP
313338 ngày 03/10/2013, diện tích 829m
2
tại thửa đất số 125, tờ bản đồ số 7 thôn
T, N, huyện L, tỉnh Quảng Bình. Theo nguyên đơn thì thửa đất này nguồn
gốc của cụ ông Nguyễn Văn T3 là bố của chồng của nguyên đơn khai hoang từ
năm 1973, đến năm 1996 tặng cho vợ chồng nguyên đơn (bút lục số 157 và 158).
[3] Quá trình thu thập chứng cứ, thấy: Thửa đất số 216, tờ bản đsố 7 thôn
6
T, xã N, huyện L, diện tích 396m
2
đã được UBND huyện L cấp GCNQSDĐ số BB
048459 ngày 08/6/2010 cho Nguyễn Thị C không thể hiện trên sổ mục đất
đai và Bản đồ địa chính N Bắc được phê duyệt năm 2014 năm 2018; nhưng
tại hồ sơ cấp GCNQSDĐ, danh sách đấu trúng thửa đất và đề nghị cấp GCNQSDĐ
lưu trữ tại UBND N và Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện L thể hiện
Nguyễn Thị C đấu giá trúng thửa đất này, tuy nhiên tại quyết định giao đất
GCNQSDĐ lưu tại hồ sơ cấp GCNQSDĐ ghi địa chỉ thửa đất thôn T (bút lúc số
76, 79, 90, 91, 139, 174 và 175).
[4] Tại hồ đấu giá quyền sử dụng đất N Bắc năm 2009, hồ cấp
GCNQSDĐ cho Trần Thị H1 tại thửa đất số 197, tờ bản đồ số 7 thôn T (bà H1
đấu giá trúng thửa đất năm 2008) hồ cấp GCNQSDĐ cho Nguyễn Thị C
tại thửa đất số 216, tờ bản đồ số 7 thôn T, N, huyện L, diện tích 396m
2
thể hiện
thửa đất của bà Nguyễn Thị C đang bị nguyên đơn tranh chấp nằm liền kề với thửa
đất của bà H1, nhưng thửa đất của H1 được thể hiện trên bản đồ địa chính, còn
thửa đất của Nguyễn Thị C không được thể hiện trên bản đđịa chính, đây
lỗi của cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai, không thuộc lỗi của bà Nguyễn Thị C
(bút lục số 166, 167, 173, 174 và 175).
[5] Tại Công văn số 267/CV UBND ngày 09/7/2024 của UBND N xác
định thửa đất số 125, tờ bản đồ số 7 thôn T, N, diện tích 829m
2
được UBND
huyện L cấp GCNQSDĐ số số BP 313338 ngày 03/10/2013 cho nguyên đơn (thửa
đất này thể hiện trên nền bản đồ được đo vẽ năm 2007 Sở T duyệt năm 2014) đã
chồng lấn lên thửa đất của Nguyễn Thị C đấu trúng giá năm 2009 đã được
UBND huyện L cấp GCNQSDĐ số BB 048459 ngày 08/6/2010 (bút lục số 189).
[6] Kết qủa thẩm định tại chthể hiện: thửa đất của nguyên đơn đã được
UBND huyện L cấp GCNQSDĐ số BP 313338 ngày 03/10/2013 chồng lấn lên
toàn bộ thửa đất số 216, tờ bản đồ số 7 thôn T, N, huyện L, diện tích 396m
2
đã
được UBND huyện L cấp GCNQSDĐ số BB 048459 ngày 08/6/2010 cho
Nguyễn Thị C chồng lên 327,5m
2
đất ông C1, T1 đã làm nhà tnăm 2011
(trước khi cấp GCNQSDĐ cho nguyên đơn 02 năm) (bút lục số 40, 120, 129, 130,
131 ).
[7] Về hồ cấp GCNQSDĐ số BP 313338 ngày 03/10/2013 cho nguyên
đơn thấy: tại biên bản ghi lời khai ngày 22/5/2024, nguyên đơn thừa nhận không
trực tiếp kê khai để được đăng cấp quyền sdụng đất nhờ cụ ông Nguyễn
Văn T3 là bố của Nguyễn Văn V khai (cụ T3 nay đã chết), do đó chữ ký trên hồ
sơ xin cấp GCNQSDĐ trên thửa đất này không phải của vợ chồng nguyên đơn (bút
lục số 51).
[8] Mặt khác, tại thời điểm lập hồ cấp GCNQSDĐ cho nguyên đơn vào
tháng 5 năm 2013 và UBND huyện L cấp GCNQSDĐ cho nguyên đơn vào tháng
10 năm 2013 đã tồn tại nhà của ông C1, T1 xây dựng từ đầu năm 2011. Việc
7
ông C1, bà T1 làm nhà tại thửa đất này xác nhận của những người trực tiếp xây
dựng nhà cho ông C1, T1, các gia đình sống liền kề thửa đất Kết luận số
1434/KL–UBND ngày 28/5/2019 của UBND huyện L về việc thanh tra thực hiện
các quy định về đất đai xã N Bắc xác nhân việc ông C1, T1 làm nhà ở trên thửa
đất số 125, tờ bản đồ số 7 thôn T, xã N Bắc từ đầu năm 2011, trước khi làm thủ tục
cấp GCNQSDĐ cho nguyên đơn hơn 02 năm (bút lục số 157, 158, 160, 164, 165,
190 và 195).
[9] Như vậy, UBND huyện L cấp GCNQSDĐ s BP 313338 ngày
03/10/2013 cho nguyên đơn đã chồng lên diện tích đất Nguyễn Thị C mua bán
đấu giá trúng năm 2009, đã được UBND huyện L cấp GCNQSsố BB 048459
ngày 08/6/2010 chồng lên 327,5m
2
đất ông C1, T1 đã làm nhà từ năm
2011 (nhà ông C1, T1 xây dựng trái phép nhưng chưa được xử lý, trước khi
cấp GCNQSDĐ cho nguyên đơn hơn 02 năm).
[10] Do đó, Toà án cấp thẩm không chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên
đơn yêu cầu Nguyễn Thị C, ông C1, T1 trả lại đất là căn cứ việc
UBND huyện L cấp GCNQSDĐ số BP 313338 ngày 03/10/2013 cho nguyên đơn
là trái quy định.
[11] vậy, không căn cứ chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, giữ
nguyên bản án thẩm. Do kháng cáo không được chấp nhận, nguyên đơn phải
chịu án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;
1. Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị H;
2. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 53/2024/DS-ST ngày 01 tháng 8 năm
2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình.
3. Án phí dân sự phúc thẩm:
Nguyễn Thị H phải chịu 300.000đ, đã nộp tại Biên lai số 0005038 ngày
20/8/2024 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSNDCC tại Đà Nẵng;
- TAND tỉnh Quảng Bình;
- Cục THADS tỉnh Quảng Bình;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu HSVA, PHCTP, LT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đã ký
Lê Tự
Tải về
Bản án số 38/2025/DS-PT Bản án số 38/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 38/2025/DS-PT Bản án số 38/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất