Bản án số 37/2024/DS-ST ngày 19/07/2024 của TAND huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận về tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 37/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 37/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 37/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 37/2024/DS-ST ngày 19/07/2024 của TAND huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận về tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Tánh Linh (TAND tỉnh Bình Thuận) |
Số hiệu: | 37/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 19/07/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Nguyễn Thị Lưu B yêu cầu tuyên bố HĐCNQSDĐ được công chứng vô hiệu; hủy cập nhật biến động trên giấy CNQSDĐ |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN TÁNH LINH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNH BÌNH THUẬN
Bản án số: 37/2024/DSST.
Ngày: 19/7/2024.
V/v: “Tranh chấp về yêu cầu tuyên bố hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất được công chứng vô hiệu
và yêu cầu hủy cập nhật biến động trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÁNH LINH
TỈNH BÌNH THUẬN
- Thành phần hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Hạ Hải Hồ.
Các hội thẩm nhân dân : 1. Ông Phan Duy Bản.
2. Ông Đặng Trường Bảo.
- Thư ký phiên tòa: Ông Đoàn Bá Thành – Thư ký Tòa án nhân dân huyện Tánh
Linh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tánh Linh tham gia phiên tòa: Bà
Đinh Thị Vân Anh - Kiểm sát viên.
Ngày 19 tháng 7 năm 2024 tại Tòa án nhân dân huyện Tánh Linh, xét xử sơ thẩm
công khai vụ án thụ lý số: 190/2021/TLST-DS, ngày 31 tháng 12 năm 2021; về việc
“Tranh chấp về yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được
công chứng vô hiệu và yêu cầu hủy cập nhật biến động trên giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất”; Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2024/QĐST-DS, ngày 03 tháng 6
năm 2024 và Quyết định hoãn phiên Tòa số: 35/2024/QĐST-DS, ngày 21 tháng 6 năm
2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà B , sinh năm 1975; nơi cư trú: Thôn 6, xã Măng Tố, huyện
Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận. Có mặt.
2. Đại diện theo ủy quyền của Nguyên đơn: Chị H , sinh năm 1990; nơi cư trú:
Thôn 8, xã Nam Chính, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận. Có mặt.
3. Bị đơn:
- Ông Ng, sinh năm 1954 và bà L, sinh năm 1967; cùng nơi cư trú: Thôn 7, xã
Măng Tố, huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận. Vắng mặt.
2
- Anh Hi, sinh năm 1990; nơi cư trú: Thôn 7, xã Măng Tố, huyện Tánh Linh, tỉnh
Bình Thuận. Có mặt.
4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Chị Trần Hải Trà M, sinh năm 1988; nơi cư trú: Khu phố 2, thị trấn Bình Phong
Thạnh, huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An. Vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt);
- Chị Trần Thị Xuân Ng, sinh năm 1980; chị Trần Thị Xuân H, sinh năm 1981;
chị Trần Thị Xuân Ch, sinh năm 1983 và anh Trần Duy M, sinh năm 1994; cùng nơi cư
trú: Thôn 7, xã Măng Tố, huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận. Vắng mặt.
- Văn phòng Công chứng Trần Ngạn; địa chỉ: Khu phố Lạc Hóa 1, thị trấn Lạc
Tánh, huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận. Do ông Trần Ngạn – Công chứng viên, trưởng
Văn phòng đại diện theo pháp luật. Vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt);
- Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Bình Thuận. Do ông Phan Công Th – Giám đốc
đại diện theo pháp luật. Vắng mặt.
Đại diện theo ủy quyền của ông Phan Công Th: Ông Phạm Anh T – Giám đốc chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đai Tánh Linh. Vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
[1]. Nguyên đơn – bà B và người đại diện theo ủy quyền – chị H trình bày:
Nguyên đơn khởi kiện, yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất giữa gia đình ông Ng, bà L với anh Hi, lập ngày 14/02/2020 và được Văn
phòng công chứng Trần Ngạn công chứng cùng ngày là giao dịch dân sự vô hiệu; yêu
cầu hủy cập nhật biến động sang tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh
Hiếu do chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai Tánh Linh thực hiện ngày 18/02/2020;
yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa anh Hi với chị Trần
Hải Trà My, lập ngày 20/02/2020, được Văn phòng công chứng Trần Ngạn công chứng
cùng ngày là giao dịch dân sự vô hiệu và yêu cầu hủy cập nhật biến động sang tên trên
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho chị My do chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai
Tánh Linh thực hiện ngày 20/02/2020.
Căn cứ để bên nguyên đơn đưa ra yêu cầu là khoảng năm 2019, do quen biết với
nhau nên giữa bà B với vợ chồng ông Ng chơi hụi, vay mượn tiền với nhau. Sau đó vợ
chồng ông Ngọ vỡ nợ, không có khả năng trả nên khoảng tháng 02/2020 bà Bình khởi
kiện vợ chồng ông Ngọ tại Tòa án nhân dân huyện Tánh Linh. Quá trình giải quyết vụ
án, vợ chồng ông Ngọ có thỏa thuận với bà Bình tại Tòa án là trả trước cho bà Bình một
phần nợ với số tiền từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng nhưng bà Bình không đồng
ý; sau đó Tòa án có mời thêm một lần nữa và ông Ngọ thỏa thuận trả cho bà Bình một
phần tiền nợ đến 20.000.000 đồng nhưng bà Bình không nhận, vì số tiền thiếu bà Bình
quá lớn mà ông Ngọ chỉ thỏa thuận trả số tiền nhỏ. Sau khi hòa giải không thành, Tòa án
đưa vụ án ra xét xử công khai và buộc vợ chồng ông Ngọ phải trả cho bà Bình tổng số
tiền nợ gốc và lãi là 694.137.000 đồng theo Bản án dân sự sơ thẩm số 18/2020/DSST,
3
ngày 30/7/2020. Sau khi Bản án của Tòa án có hiệu lực thi hành, bà Bình làm đơn yêu
cầu thi hành án nhưng Chi cục thi hành án dân sự huyện xác định vợ chồng ông Ngọ đã
chuyển nhượng tài sản nhà đất vào tháng 02/2020, hiện không còn tài sản để thi hành
nên bà Bình mới khởi kiện yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu và hủy cập nhật biến
động quyền sử dụng đất, khôi phục lại tình trạng pháp lý ban đầu của quyền sử dụng đất
cho gia đình ông Ngọ để thực hiện thi hành nghĩa vụ trả tiền cho bà Bình.
[2]. Quá trình xác minh thu thập chứng cứ để giải quyết vụ án thể hiện: Bị đơn -
vợ chồng ông Ng, bà L có đăng ký địa chỉ nơi cư trú tại thôn 7, xã Măng Tố, huyện
Tánh Linh. Mặc dù đã được thông báo công khai về việc Tòa án thụ lý vụ án theo đơn
khởi kiện của bà B trên các phương tiện thông tin đại chúng là Đài Tiếng nói Việt Nam
và Báo Công lý nhưng vợ chồng ông Ngọ, bà Lũy vẫn không đến Tòa án để trình bày ý
kiến, tham gia tố tụng giải quyết vụ án theo quy định.
[3]. Bị đơn – anh Hi trình bày:
Anh Hi trước đây là hàng xóm của vợ chồng ông Ng. Anh Hiếu không đồng ý
với yêu cầu khởi kiện của bà B . Bởi vì khoảng đầu năm 2020, anh Hiếu nghe thông tin
vợ chồng ông Ngọ, bà Lũy chuyển nhượng nhà đất để lấy tiền trả nợ nên thương lượng
để mua. Diện tích đất vợ chồng ông Ngọ chuyển nhượng cho anh Hiếu thuộc thửa số
271, tờ bản đồ số 28, giấy chứng nhận số AD 142524, cấp ngày 22/7/2005 mang tên ông
Ng, có diện tích khoảng 720m
2
, hai mặt tiền đường thôn xóm tọa lạc tại thôn 7, xã Măng
Tố, trên đất có 01 ngôi nhà xây và các công trình phụ khác. Sau khi thống nhất với nhau
thì ngày 14/02/2020 hai bên đến Văn phòng công chứng Trần Ngạn ở thị trấn Lạc Tánh,
huyện Tánh Linh ký thủ tục chuyển nhượng và giao tiền. Sau khi ký thủ tục chuyển
nhượng thì hoàn tất các thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất, nộp hồ sơ tại bộ phận một
cửa huyện Tánh Linh để được điều chỉnh trang 4 trong sổ đỏ của ông Ngọ.
Một thời gian sau khi hoàn tất thủ tục đăng ký biến động và nhận nhà đất thì anh
Hi vì công việc phải làm xa, chuyển về thành phố Đà Lạt làm ăn sinh sống nên không sử
dụng nhà đất nữa mà chuyển nhượng lại cho người chị ruột là Trần Hải Trà My. Ngày
20/02/2020 anh Hiếu và chị My làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản
trên đất tại Văn phòng công chứng Trần Ngạn, cũng đã hoàn tất thủ tục đăng ký biến
động sang tên cho chị My. Hiện nay anh Hiếu đã nhận tiền chuyển nhượng và giao tài
sản nhà đất cho bên nhận chuyển nhượng, không còn liên quan gì đến tài sản nhà đất của
ông Ngọ, bà Lũy. Nên việc bà Bình yêu cầu hủy các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất giữa gia đình ông Ngọ với anh Hiếu và anh Hiếu với chị My là không có căn
cứ để chấp nhận.
[4]. Những người có quyền và nghĩa vụ liên quan:
[4.1]. Chị Trần Thị Xuân Ngọc, chị Trần Thị Xuân Hà, chị Trần Thị Xuân Châu
và anh Trần Duy Mến: Quá trình xác minh thu thập chứng cứ để giải quyết vụ án thể
hiện các đương sự có đăng ký địa chỉ nơi cư trú tại thôn 7, xã Măng Tố, huyện Tánh
Linh. Mặc dù đã được thông báo công khai về việc Tòa án thụ lý vụ án theo đơn khởi
4
kiện của bà B trên các phương tiện thông tin đại chúng là Đài Tiếng nói Việt Nam và
Báo Công lý nhưng các đương sự không đến Tòa án để trình bày ý kiến, tham gia tố
tụng giải quyết vụ án theo quy định.
[4.2] Chị Trần Hải Trà My trình bày:
Chị Trần Hải Trà My là chị ruột của anh Hi. Ngày 20/02/2020 chị My nhận
chuyển nhượng của anh Hiếu quyền sử dụng thửa đất số 271, tờ bản đồ số 28 tại thôn 7,
xã Măng Tố và làm thủ tục chứng thực hợp đồng chuyển nhượng tại Văn phòng công
chứng Trần Ngạn; hiện tại chị My đã được cập nhật biến động sang tên quyền sử dụng
đất, nhà đất chị My đang quản lý sử dụng ổn định, không xảy ra tranh chấp với ai. Do
vậy chị My không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà B , chị My không có yêu cầu
độc lập trong vụ án và xin được xét xử vắng mặt theo quy định của pháp luật.
[4.3]. Đại diện theo pháp luật của Văn phòng Công chứng Trần Ngạn trình bày:
Ngày 14/02/2020 Văn phòng Công chứng Trần Ngạn có tiếp nhận hồ sơ yêu cầu
công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa gia đình ông Ng, bà L và
anh Hi đối với quyền sử dụng đất tại thửa số 271, tờ bản đồ số 28, giấy chứng nhận số
AD 142524, cấp ngày 22/7/2005 mang tên ông Ng. Đến ngày 20/02/2020 Văn phòng
Công chứng Trần Ngạn tiếp nhận hồ sơ yêu cầu công chứng hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa anh Hi với chị Trần Hải Trà My, đối với quyền sử dụng đất tại
thửa số 271, tờ bản đồ số 28, giấy chứng nhận số AD 142524, cấp ngày 22/7/2005 mang
tên ông Ng (cập nhật biến động sang tên anh Hiếu). Sau khi tiếp nhận các hồ sơ trên,
kiểm tra yêu cầu công chứng và các thông tin có liên quan đến quyền sử dụng đất thì
thấy rằng tại thời điểm yêu cầu công chứng, hồ sơ chuyển nhượng đầy đủ thông tin, phù
hợp với quy định của pháp luật; không có văn bản ngăn chặn có hiệu lực pháp luật của
cơ quan chức năng, diện tích đất chuyển nhượng không xảy ra tranh chấp với cá nhân, tổ
chức nào nên Công chứng viên đã tiến hành công chức hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Văn phòng Công chứng Trần Ngạn xác định
việc công chứng hợp đổng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa gia đình ông Ngọ, bà
Lũy với anh Hiếu vào ngày 14/02/2020 và giữa anh Hiếu và chị My vào ngày
20/02/2020 là đúng với các quy định của pháp luật hiện hành. Do đó Văn phòng công
chứng Trần Ngạn không có ý kiến gì về yêu cầu khởi kiện của bà B trong vụ án, đề nghị
Tòa án xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật và xin được xét xử vắng mặt.
[4.4]. Đại diện theo ủy quyền của Giám đốc Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Bình
Thuận trình bày:
Qua hồ sơ lưu trữ thì Văn phòng đăng ký đất đai Tánh Linh xác định việc đăng ký
biến động, chỉnh lý trang 4 nội dung ông Ng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho anh
Hi vào ngày 14/02/2020 và anh Hi chuyển nhượng cho chị Trần Hải Trà My vào ngày
20/02/2020 là hoàn toàn đúng trình tự quy định của pháp luật, không có căn cứ để hủy
cập nhật biến động theo yêu cầu của nguyên đơn trong vụ án.
[5] Những chứng cứ đã thu thập được trong hồ sơ vụ án:
5
- Nguyên đơn cung cấp các tài liệu sau: Bản sao thẻ căn cước công dân và sổ hộ
khẩu; bản phô tô quyết định giải quyết khiếu nại số 01/2020/QĐGQKN, ngày 11/6/2020
của Chánh án Tòa án nhân dân huyện Tánh Linh; bản sao Bản án số 18/2020/DS-ST,
ngày 30/7/2020 của TAND huyện Tánh Linh; bản tự khai và giấy ủy quyền.
- Bị đơn (ông Ng, bà L) không cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án.
- Bị đơn (anh Hi) cung cấp: bản sao chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu và bản tự
khai.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (chị Ngọc, chị Hà, chị Châu và anh Mến)
không cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (VPCC Trần Ngạn) cung cấp: Bản sao
hồ sơ đề nghị công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Ngọ, bà
Lũy với anh Hiếu và giữa anh Hiếu với chị My; Đơn xin xét xử vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Bình
Thuận) cung cấp: Bản sao hồ sơ cập nhật biến động quyền sử dụng đất cho anh Hiếu và
chị My cùng Đơn xin xét xử vắng mặt.
- Các tài liệu, chứng cứ do Tòa án thu thập: Biên bản lấy lời khai của bà B , anh
Hi, ông Trần Ngạn, anh Phạm Anh Tiến; hồ sơ thực hiện ủy thác thu thập chứng cứ của
TAND huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An.
[6] Những vấn đề các đương sự thống nhất: Không có.
[7] Những vấn đề các đương sự không thống nhất: Các đương sự không thống nhất
được việc giải quyết toàn bộ các vấn đề trong vụ án.
[8] Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tánh Linh phát
biểu ý kiến:
- Việc tuân theo pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử: Quá kiểm sát việc giải
quyết vụ án từ khi thụ lý đến trước khi xét xử thấy rằng Thẩm phán đã chấp hành đúng
các quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Trong quá trình giải quyết vụ
án, Thẩm phán thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, xác định đúng quan hệ pháp luật tranh
chấp và đúng tư cách pháp lý của người tham gia tố tụng theo quy định của Bộ luật tố
tụng dân sự. Tiến hành lấy lời khai, thu thập chứng cứ, thông báo về phiên họp kiểm tra
việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải cho các đương sự về việc giải
quyết vụ án. Gửi quyết định đưa vụ án ra xét xử, hồ sơ và các văn bản tố tụng cho Viện
kiểm sát nghiên cứu, cấp tống đạt các văn bản tố tụng cho những người tham gia tố tụng
đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
- Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký tại phiên tòa: Tại phiên
tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng
dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.
6
- Việc chấp hành pháp luật của các đương sự trong vụ án: Nguyên đơn, bị đơn
(anh Hi) và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã thực hiện đầy đủ quyền và
nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Bị đơn (ông Ng,
bà L) và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (chị Trần Thị Xuân Ngọc, chị
Trần Thị Xuân Hà, chị Trần Thị Xuân Châu và anh Trần Duy Mến) không thực hiện
quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70 và 71 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn và buộc nguyên đơn phải chịu án phị dân sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nghe các đương sự trình
bày; nghe tranh luận và nghe đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tánh Linh phát
biểu ý kiến, quan điểm giải quyết vụ án. Sau khi thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử
nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên Tòa, bị đơn - vợ chồng ông Ng, bà L và những
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - chị Trần Thị Xuân Ngọc, chị Trần Thị Xuân
Hà, chị Trần Thị Xuân Châu, anh Trần Duy Mến, chị Trần Hải Trà My, ông Trần Ngạn
và ông Phạm Anh Tiến đều vắng mặt. Tuy nhiên, vợ chồng ông Ngọ, bà Lũy, chị Ngọc,
chị Hà, chị Châu, anh Mến đã được Tòa án thông báo triệu tập hợp lệ; ông Ngạn và ông
Tiến có đơn xin xét xử vắng mặt gửi đến Tòa án. Do đó, căn cứ vào Điều 227 và 228 Bộ
luật Tố tụng Dân sự; Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông Ngọ, bà Lũy, chị
Ngọc, chị Hà, chị Châu, anh Mến, ông Ngạn và ông Tiến là phù hợp.
[2] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:
[2.1] Về quan hệ tranh chấp: Nguyên đơn khởi kiện bị đơn, yêu cầu tuyên bố hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập giữa các bị đơn, được Văn phòng
Công chứng Trần Ngạn công chứng là giao dịch dân sự vô hiệu và yêu cầu hủy cập biến
động trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất xuất phát từ các giao dịch dân sự trên. Do
đó Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở để xác định quan hệ tranh chấp cần giải quyết trong
vụ án này là “Tranh chấp yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
được công chứng vô hiệu và yêu cầu hủy cập nhật biến động trên giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất” là phù hợp với quy định tại khoản 11 Điều 26 Bộ luật Tố tụng Dân
sự.
[2.2] Về thẩm quyền giải quyết: Tranh chấp dân sự quy định tại Điều 26 của Bộ
luật Tố tụng dân sự, vụ án không có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải
ủy thác tư pháp. Hợp đồng được xác lập và thực hiện tại huyện Tánh Linh, tỉnh Bình
Thuận. Do đó, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tánh
Linh, tỉnh Bình Thuận theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và điểm c, khoản 1 Điều 39
của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Xét về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
7
[3.1] Lời trình bày của các đương sự có mặt tại phiên Tòa phù hợp với các tài liệu,
chứng cứ do Văn phòng Công chứng Trần Ngạn và Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Bình
Thuận cung cấp, theo đó có đủ căn cứ để xác định: Ngày 22/7/2005, ông Ng được Nhà
nước công nhận quyền sử dụng diện tích 720m
2
đất ở nông thôn và cây hàng năm, thuộc
thửa đất số 271, tờ bản đồ số 28, giấy chứng nhận số AD 142524 mang tên Ng. Ngày
14/02/2020 vợ chồng ông Ng, bà L và các con trong gia đình là chị Trần Thị Xuân
Ngọc, chị Trần Thị Xuân Hà, chị Trần Thị Xuân Châu, anh Trần Duy Mến lập hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất cùng tài sản trên đất cho anh Hi. Thủ tục
chuyển nhượng được lập và công chứng tại Văn Phòng Công chứng Trần Ngạn và sau
đó, anh Hiếu được cập nhật biến động quyền sử dụng đất trong giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Tánh Linh thực hiện ngày
18/02/2020. Đến ngày 20/02/2020, anh Hiếu chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất lại
cho chị Trần Hải Trà My, thủ tục chuyển nhượng cũng được thực hiện công chứng tại
Văn phòng Công chứng Trần Ngạn, được cập nhật biến động quyền sử dụng đất sang
tên chị My do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Tánh Linh thực hiện. Sau
đó, chị My làm thủ tục và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CU 257382,
ngày 31/7/2020 mang tên chị Trần Hải Trà My. Tại các thời điểm thực hiện chuyển
nhượng quyền sử dụng đất; ông Ngọ, bà Lũy, chị Ngọc, chị Hà, chị Châu, anh Mến, anh
Hiếu và chị My đều có năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự đầy đủ; các đương
sự thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoàn toàn tự nguyện, không bị lừa dối,
đe dọa hay cưỡng ép.
[3.2] Tại phiên Tòa, bà B cho rằng mục đích vợ chồng ông Ng, bà Trần Thị Lũy
chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho anh Hi là để tẩu tán tài sản, không thực hiện
nghĩa vụ trả nợ cho bà Bình, là vi phạm điều cấm của luật. Tuy nhiên, bà Bình cũng thừa
nhận khi bà Bình khởi kiện vợ chồng ông Ngọ tại Tòa án nhân dân huyện Tánh Linh;
quá trình giải quyết vụ án, vợ chồng ông Ngọ thỏa thuận thực hiện nghĩa vụ trả tiền ngay
tại Tòa án cho bà Bình với phương thức trả trước một phần nợ từ 5.000.000 đồng đến
7.000.000 đồng nhưng bà Bình không đồng ý; sau đó Tòa án có mời thêm một lần nữa
và ông Ngọ thỏa thuận trả cho bà Bình một phần tiền nợ đến 20.000.000 đồng nhưng bà
Bình cũng không nhận. Kết quả xác minh một số người chủ nợ có khởi kiện vợ chồng
ông Ngọ cùng thời điểm khởi kiện của bà Bình cho thấy khi bị khởi kiện vào năm 2020,
vợ chồng ông Ngọ thương lượng được với một số chủ nợ, trả tiền cho chủ nợ tại Tòa án
và người khởi kiện rút đơn, Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án, tiền trả nợ chính là tiền
chuyển nhượng nhà đất cho anh Hi mà có. Như vậy, có thể nhận thấy vợ chồng ông
Ngọ, bà Lũy chuyển nhượng nhà cửa, đất đai là để thực hiện nghĩa vụ trả nợ chứ không
nhằm mục đích tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ trả nợ như bà Bình trình bày.
[3.3] Lời trình bày của bà B cũng như các tài liệu bà Bình cung cấp trong quá trình
giải quyết vụ án cho thấy: Ngày 19/5/2020, bà Bình cùng với một số người khác cùng
làm đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, cấm vợ chồng ông Ng
thực hiện chuyển dịch quyền sử dụng đất và tài sản trên đất. Tuy nhiên, tại Thông báo số
141/TB-TA, ngày 22/5/2020 Tòa án không chấp nhận yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn
8
cấp tạm thời của bà Bình. Sau đó, bà Bình cùng với những người yêu cầu áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời khiếu nại đến Chánh án Tòa án nhân dân huyện Tánh Linh đối
với Thông báo số 141/TB-TA, ngày 22/5/2020. Kết quả Chánh án Tòa án nhân dân
huyện Tánh Linh không chấp nhận khiếu nại của bà Bình và những người cùng khiếu
nại khác. Như vậy, thời điểm vợ chồng ông Ngọ bà Lũy chuyển nhượng quyền sử dụng
đất cho anh Hiếu là ngày 14/02/2020 nhưng đến ngày 19/5/2020 bà Bình mới làm đơn
yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; việc chuyển nhượng đã diễn ra
trước, tại thời điểm chuyển nhượng và đăng ký biến động quyền sử dụng đất từ vợ
chồng ông Ngọ sang anh Hiếu và từ anh Hiếu sang chị My không có văn bản ngăn chặn
có hiệu lực pháp luật của cơ quan chức năng, diện tích đất chuyển nhượng không xảy ra
tranh chấp với cá nhân, tổ chức nào. Hiện tại, quyền sử dụng đất đã được cấp giấy chứng
nhận do chị Trần Hải Trà My đứng tên.
[3.4] Như vậy việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông Ng, bà
L cho anh Hi vào ngày 14/02/2020 và giữa anh Hi với chị Trần Hải Trà My vào ngày
20/02/2020 tuân thủ đầy đủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự theo Điều 117
Bộ luật Dân sự năm 2015 nên không có căn cứ để tuyên bố các giao dịch dân sự này là
vô hiệu theo Điều 122 Bộ luật Dân sự năm 2015. Do các giao dịch dân sự trên có hiệu
lực nên việc cập nhật biến động quyền sử dụng đất từ tên ông Ngọ sang tên anh Hiếu và
từ tên anh Hiếu sang tên chị My trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có hiệu lực,
phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 188 Luật đất đai năm 2013.
[3.5] Từ những phân tích trên Hội đồng xét xử nhận thấy yêu cầu khởi kiện của bà
B đối với vợ chồng ông Ng, bà L, anh Hi và chị Trần Hải Trà My là không có căn cứ
để chấp nhận.
[4] Về các vấn đề khác trong vụ án: Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn không
có yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn; những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đều không có yêu cầu độc lập gì với nguyên đơn và bị đơn nên Hội đồng xét xử không
xem xét.
[5] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn không được chấp nhận nên
cần buộc bà B phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là phù hợp với quy định tại các Điều
146, 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự và khoản 2 Điều 26 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
[6] Về ý kiến đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tánh Linh, tỉnh Bình
Thuận: Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân đề nghị Hội đồng xét xử không
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và buộc nguyên đơn phải chịu án phí dân
sự sơ thẩm. Xét thấy ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tánh
Linh là có căn cứ và phù hợp nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ vào:
9
- Khoản 11 Điều 26, khoản 1 Điều 35, điểm c, khoản 1 Điều 39; các Điều 146,
147, 157, 165, 203, 227 và 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự;
- Các Điều 117 và 122 Bộ luật dân sự 2015;
- Khoản 3 Điều 188 Luật đất đai năm 2013;
- Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án
phí, lệ phí Tòa án;
2. Tuyên xử: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu
Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa gia đình ông Ng, bà
L với anh Hi, lập ngày 14/02/2020 và được Văn phòng công chứng Trần Ngạn công
chứng cùng ngày là giao dịch dân sự vô hiệu; yêu cầu hủy cập nhật biến động sang tên
trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh Hiếu do chi nhánh Văn phòng đăng ký
đất đai Tánh Linh thực hiện ngày 18/02/2020; yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa anh Hi với chị Trần Hải Trà M, lập ngày 20/02/2020,
được Văn phòng công chứng Trần Ngạn công chứng cùng ngày là giao dịch dân sự vô
hiệu và yêu cầu hủy cập nhật biến động sang tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho chị M do chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai Tánh Linh thực hiện ngày
20/02/2020.
3. Về án phí: Buộc bà B phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng
được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí bà Bình đã nộp theo biên lai thu số
0007645, ngày 31/12/2021 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Tánh Linh. Bà Bình
đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo:
- Nguyên đơn và bị đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án này
trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 19/7/2024.
- Bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa
được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án
hoặc bản án được niêm yết (Đã giải thích quyền kháng cáo).
5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân
sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án Dân sự có quyền thỏa thuận
thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi
hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành
án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận: TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- VKSND huyện Tánh Linh; Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa
- Các đương sự…………;
- Chi cục Thi hành án DS h.Tánh Linh;
- Lưu hồ sơ, Văn phòng.
Hạ Hải Hồ
10
Tải về
Bản án số 37/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 37/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 15/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 24/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 19/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 13/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 10/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 07/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 05/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 27/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 23/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 14/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 07/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 31/07/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 29/07/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 19/07/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 28/06/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 11/06/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm