Bản án số 349/2024/DS-PT ngày 27/05/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 349/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 349/2024/DS-PT ngày 27/05/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại TP.HCM
Số hiệu: 349/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/05/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 349/2024/DS-PT
Ngày: 27 - 5 - 2024
V/v Tranh chấp tài sản chung quyền
sử dụng đất
NHÂN DANHNƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có :
Thm phán Ch ta phiên tòa:
Ông Nguyễn Đắc Minh
Các Thm phán:
Ông Lê Hoàng Tấn
Bà Trần Thị Thúy Hồng
- Thư ký phiên tòa: Tiếu Phương Quyền - Thư Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm t nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Bà Phạm Thị Út - Kiểm sát viên.
Ngày 27 tháng 5 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số
99/2022/TLPT-DS ngày 23 tháng 3 năm 2022 về 
    Do Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2021/DS-ST ngày
20/12/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu bị kháng nghị và kháng
cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử thẩm số 06/2024/QĐ-PT ngày
06/3/2024, giữa các đương sự:
- : Ông Quang T, sinh năm 1967. Địa chỉ: A M dr, R,TX G,
USA (vắng mặt).
Người đại diện hợp pháp của ông T là: Ông Lê Văn T1, sinh năm 1968;
Địa chỉ: 3 P, Phường A, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh, đại diện ủy
quyền theo giấy ủy quyền ngày 08/4/2019 đã hợp pháp hóa Lãnh sự ngày
30/4/2019 (có mặt).
2
-  Diệp Thị Minh N, sinh năm 1954; Địa chỉ: 7 Đ, Phường A,
quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Bà Cao Thị L, sinh năm 1979 (có
mặt).
Địa chỉ: G đường A, phường H, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
(Giấy ủy quyền ngày 30/6/2022 tại Văn phòng C, Thành phố H Chí
Minh).
-  Ông Phan Minh N1, sinh năm
1953. Địa chỉ: D Đ, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
Người đại diện hợp pháp của ông Nghĩa l: Anh Phan Minh P, sinh năm
1991 (vắng mặt) (Theo giấy ủy quyền ngày 11/12/2021).
Địa chỉ: D Đ, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Địa chỉ liên lạc: I H, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Ông Quang T2 (vắng mặt).
Địa chỉ: thôn B, xã C, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
- Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Rịa - Vũng Tàu.
- : Bị đơn bà Diệp Thị Minh N.
NỘI DUNG VỤ ÁN:

Quang T  T ông 
trình bày:
Khoảng tháng 3/1994, qua sự giới thiệu của ông Quang T2, ông T mua
của ông Nhựt một khu đất diện tích khoảng 2.630m
2
tại thôn B, C,
huyện T, với giá 20 chvàng. Khi mua ông T người trực tiếp giao vàng
nhận đất sự chứng kiến của ông Quang T2. Việc giao dịch bằng giấy tay
thời điểm này đất chưa Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khi ông T
mua xong thì bà N (chị cùng mẹ khác cha) xin góp 50% chung, chị em nên
ông T đồng ý cho N góp chung. Năm 1997, ông T đi định cư nước ngoài nên
đưa toàn bộ giấy tờ đất của ông cho N giữ và nhờ N đứng tên hộ phần
đất mà hai người mua chung để bà N làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất theo quy định. Ngày 18/02/1997, ông T2 làm thủ tục kê khai và làm
thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đ N đứng tên hộ. Ngày
16/02/2000, Ủy ban nhân dân (UBND) huyện T (nay là thị xã P) cấp Giấy chứng
3
nhận quyền sử dụng đất đối với 2.630m
2
thuộc thửa 53, tờ bản đồ số 7 C,
huyện T (nay là thị P) cho N. Năm 2007, trong một lần về quê thăm gia
đình, do chính sách của Nhà nước lúc bây giờ không cho phép người Việt Nam
định nước ngoài đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng
để tạo niềm tin, ông T đề nghị bà N viết giấy c nhận mua đất chung. Khi đó,
chị T3 (chị em trong nhà) người trực tiếp viết giấy, ông T N c
nhận. Do chị T3 viết nên ghi nhầm địa chỉ đất Rịa, thực chất T.
ngoài miếng đất này ra thì ông T N không mua chung miếng nào khác. Từ
khi mua đất cho đến nay ông T, N không sử dụng mà nhờ ông Quang T2
trông coi. Nay ông T yêu cầu N ng nhận mảnh đất này là tài sản chung
công nhận cho ông ½ quyền sử dụng đất như cam kết ban đầu.
 
 là anh Phan Minh P trình bày:
Năm 1994, ông Quang T2 giới thiệu cho N mua của ông Nhựt
một khu đất diện tích 2.630m
2
thuộc thửa 53, tờ bản đồ số 7 xã C, huyện T (nay
là thị xã P) với giá 20 chỉ vàng. Do thời điểm này con N còn nhỏ và ở xa nên
N không tới lui để làm thủ tục được nên nhờ ông T ngTâm em cùng mẹ
khác cha với N) ông T2 (ông T2 anh cùng cha khác mvới ông T) làm
thủ tục mua bán và làm thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất. Năm 1997, bà N nhờ
ông T2 làm thủ tục khai. Ngày 16/02/2000, UBND huyện T (nay thị P)
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho N. Năm 2014, ông T2 báo cho
N biết UBND lấy đất của mrộng đường nên một mình bà liên hệ với
U thuê người làm hàng o cọc bê tông. Nay ông T cho rằng mua chung đất
với không đúng. N2 khẳng định không việc ông T đưa 10 chỉ vàng
mua chung đất với bà. Việc ông T tự ý viết giấy mua chung đất ngày 13/11/2007
(sau 14 năm mua đất) và giả mạo chữ ký của bà nhằm chiếm đoạt tài sản của bà.
cho rằng giấy viết tay ngày 13/11/2007 ông T cung cấp cho Tòa án giả
mạo, nội dung mơ hồ, không ràng, trong giấy ghi đất ở Rịa, trong khi đất
bà mua của ông Ả T, nên bà không yêu cầu giám định chữ ký.
              
Phan Minh N1 Phan Minh P trình bày:
Ông Nghĩa là chồng của bà N2. Quyền sử dụng đất thuộc thửa 53 tờ bản đồ
số 7 xã B, huyện T (nay là thị xã P), tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu là tài sản chung của
gia đình. Ông N1 đồng ý với ý kiến trình bày của N2, không yêu cầu
khác trong vụ án này.
Lê Quang T2 trình bày:
4
Năm 1994, ông T2 là người giới thiệu ông T mua đất hiện đang tranh chấp
từ ông Ảnh, ông T trực tiếp giao dịch, làm giấy tờ và thanh toán 20 chỉ vàng cho
ông Ả. Sau đó ông T cho bà N2 cùng mua chung và giao giấy tờ mua bán cho bà
N2 giữ, N2 ông T nhờ ông T2 trông coi, ông T2 đóng thuế quyền sử dụng
đất nhưng ghi tên trên biên lai ông T. Do ông T đi định nước ngoài nên
nhờ bà N2 đứng tên trên giấy quyền sử dụng đất, năm 1997 ông T2 làm thủ tục
khai ghi tên N2. Năm 2000, UBND huyện T (nay thị P) cấp giấy
chứng nhận QSD đất cho bà N2. Năm 2014, Nhà nước mđường, do N2
đứng tên Giấy tờ đất nên ông T2 gọi N2 xuống để giải quyết N2 thuê
người rào lại đất.
Tại Bản án dân sự thẩm số 06/2021/DS-ST ngày 20/12/2021 của Tòa
án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã quyết định:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Quang T. Toàn bộ
quyền sử dụng diện tích 2.630m
2
đất thuộc thửa 53 (mới 67) tờ bản đồ số 7 xã C,
thị P, tỉnh Rịa - Vũng Tàu hiện nay đứng n Diệp Thị Minh N có
nguồn gốc do ông T, bà N mua chung (mỗi người ½ trong tổng 20 chỉ vàng vốn
ban đầu) là tài sản chung của ông Lê Quang T với bà Diệp Thị Minh N.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí và quyền
kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 30/12/2021, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Rịa - Vũng
Tàu ban hành Quyết định số 80/QĐ-VKS-DS vviệc kháng nghị theo hướng
hủy toàn bộ bản án sơ thẩm nêu trên.
Ngày 24/12/2021, bị đơn Diệp Thị Minh N đơn kháng cáo toàn bộ
bản án thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm bác yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn, công nhận quyền sử dụng diện tích 2.630m
2
đất thuộc thửa 53 (mới
67) tờ bản đồ s7 C, thị P, tỉnh Rịa - Vũng Tàu của Diệp Thị
Minh N.
Tại phiên tòa phúc thẩm,
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh rút
toàn b Quyết định kháng nghị số số 80/QĐ-VKS-DS ngày 30/12/2021 của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Nguyên đơn ông Quang T, người đại diện theo ủy quyền ông
Văn T1 đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm bác kháng cáo của bị đơn giữ
nguyên bản án sơ thẩm.
Bị đơn bà Diệp Thị Minh N, có người đại diện theo ủy quyền là bà Cao Thị
L đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị đơn, sửa bản
5
án thẩm, với các do: Phía bị đơn không thừa nhận quyền sử dụng đất của
diện tích 2.630m
2
đất thuộc thửa 53 (mới 67) tờ bản đồ số 7 C, thị P, tỉnh
Rịa - Vũng Tàu tài sản chung của N ông T. Nguyệt mua đất của
ông N3 Ảnh và nhờ ông T2 làm thủ tục mua bán và làm hồchủ quyền. Ngoài
ra, phía bị đơn không đồng ý kết luận giám định tại cấp phúc thẩm không
chính xác, không khách quan. N2 vẫn xác định không tên trên “Giấy
xác nhận ngày 13/11/2017”.


Về tố tụng: Thẩm phán Hội đồng xét xthực hiện đúng quy định của
pháp luật tố tụng. Các đương sự thực hiện quyền, nghĩa vtheo đúng quy định
pháp luật.
Về nội dung: Tòa án cấp thẩm xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn ông Quang T, xác định toàn bộ quyền sử dụng diện tích 2.630m
2
đất thuộc thửa 53 (mới 67) tờ bản đồ số 7 xã C, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
hiện nay đứng tên bà Diệp Thị Minh N có nguồn gốc do ông T, bà N mua chung
(mỗi người ½ trong tổng 20 chỉ vàng vốn ban đầu) tài sản chung của ông
Quang T với bà Diệp Thị Minh N, là có căn cứ.
Do đó, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao ti Thành phố Hồ CMinh t
Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 80/QĐ-VKS-DS ngày 30/12/2021 của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Rịa - Vũng Tàu; đề nghị Hội đồng
xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với nội dung kháng nghị không chấp
nhận kháng cáo của bị đơn bà Diệp Thị Minh N.
Tuy nhiên, phần tuyên án khả năng không thể thi hành trên thực tế
ông T người nước ngoài nên việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
ông T không phù hợp qui định pháp luật, đề nghHội đồng xét xử chỉnh sửa
quyết định của bản án sơ thẩm để đảm bảo việc thi hành án.
Ngoài ra, trong thời gian ông T nước ngoài, N đứng tên giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, bà N có công trong việc đi khiếu nại đối với phần đất bị
quan Nhà nước thu hồi làm đường. Sau khi khiếu nại, N thuê người làm
hàng rào, cũng cần xem xét công sức của N gìn giữ phần đất này trong thời
gian ông T không địa phương. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án
sơ thẩm theo hướng phân tích trên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
6


 sau:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Đơn kháng cáo của bị đơn Diệp Thị Minh N trong hạn luật định,
hợp lệ nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[1.2] Về sự vắng mặt của các đương s: Ngày 26/8/2022, người quyền
lợi nghĩa vụ liên quan ông Phan Minh N1 đơn đề nghị xét xử vắng mặt,
căn cứ khoản 2 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân snăm 2015, Tòa án tiến hành
phiên tòa phúc thẩm xét xử vắng mặt người tham gia tố tụng trên.
[1.3] Tại phiên toà phúc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ C Minh rút Quyết định kháng nghị phúc thẩm s 80/QĐ-VKS-DS
ngày 30/12/2021 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Rịa - Vũng
Tàu. Xét thấy, việc rút kháng nghị đúng qui định pháp luật nên Hội đồng xét
xử chấp nhận đình chxét xphúc thẩm đối với phần của vụ án mà Viện
kiểm sát đã rút kháng nghị theo qui định tại khoản 3 Điều 284, điểm b khoản 1
Điều 289 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Xét kháng cáo của bị đơn:
[2.1] Về nguồn gốc phần đất tranh chấp: các bên tranh chấp phần đất
diện tích đất 2.630m
2
thuộc thửa 53, tờ bản đsố 7 xã C, huyện T (nay thị
P) của ông Nhựt (ông mất năm 2019). Năm 1994, ông chuyển
nhượng cho ông Lê Quang T (bút lục số 100 lời khai của ông Ả) với giá 20 chỉ
vàng. Sau đó, ông T cho bà Diệp Thị Minh N chung vốn ½ (10 chỉ vàng).
Năm 1997, ông T đi định nước ngoài nên đưa toàn bgiấy tđất của
ông cho bà N giữ và nhờ bà N đứng tên hộ phần đất mà hai người mua chung
để N làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất theo quy định.
Ngày 18/02/1997, ông T2 làm thủ tục khai và làm thủ tục xin cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất để bà N đứng tên hộ. Ngày 16/02/2000, UBND huyện T
(nay thị P) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với 2.630m
2
thuộc
thửa 53, tờ bản đồ số 7 xã C, huyện T (nay là thị xã P) cho bà N.
Sau khi nhận chuyển nhượng, ông T, N nhờ ông Lê Quang T2 trông coi.
Do ông T xuất cảnh đi định cư Mỹ nên ông T2 kê khai ghi tên bà N, nhưng đóng
thuế hàng năm ghi tên ông T. Ngày 18/02/1997, ông T2 kê khai đăng ghi tên
N đến ngày 16/02/2000, bà N được UBND huyện T (nay là thị xã P) cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất trên.
7
Năm 2007, ông T về Việt Nam thăm gia đình yêu cầu N xác nhận
việc mua chung đất. Ngày 13/11/2007, N đã xác nhận có đứng tên mua
chung một miếng đất ở Bà Rịa (Bút lục số 102) với ông T. N2 cho rằng việc
ông T tý viết giấy mua chung đất ngày 13/11/2007 (sau 14 năm mua đất)
giả mạo chữ ký của bà nhằm chiếm đoạt tài sản của bà. Bà cho rằng giấy viết tay
ngày 13/11/2007 ông T cung cấp cho Tòa án là giả mạo, nội dung mơ hồ, không
ràng, trong giấy ghi đất ở Bà Rịa, trong khi đất bà mua của ông Ả T, nên bà
không yêu cầu giám định chữ ký.
Về lời khai này của N2, Tòa án cấp sơ thẩm không cho giám định Giấy
xác nhận nhận ngày 13/11/2007 với lý do bà N2 không đồng ý giám định nên đã
căn cứ vào Kết luận giám định số 2430/C09B ngày 16/5/2019 (Bút lục số 111)
để xem đây là chứng cứ xác định sự thỏa thuận mua chung phần đất tranh
chấp.
Quá trình thụ lý phúc thẩm, N2 đơn đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm ra
quyết định trưng cầu giám định chữ ký của bà tại Giấy xác nhận nói trên. Tòa án
đã trưng cầu giám định (lần 1) Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ
Chí Minh đã Kết luận số 5518/KL-KTHS ngày 21/9/20123 cũng cho kết quả
chữ trên Giấy xác nhận ngày 13/11/2007 của N2. Không đồng ý với
kết quả lần 1, N2 tiếp tục khiếu nại và đề nghị trưng cầu giám định lần 2, tại
Kết luận giám định số 7740/KL-KTHS ngày 22/4/2024 cũng cho ra kết quả
tương tự. Từ nội dung các kết luận giám định nói trên Hội đồng xét xử có đủ căn
cứ xác định giữa ông T N2 có thỏa thuận lập Giấy xác nhận vào ngày
13/11/2007 với nội dung N2 đã xác nhận đứng tên mua chung một
miếng đất ở Bà Rịa (Bút lục số 102) với ông T.
[2.2] Mặc Giấy xác nhận không ghi cụ thể miếng đất diện tích bao
nhiêu, tứ cận, thửa nào địa chỉ Rịa. Nhưng đối chiếu với các chứng cứ
khác trong hồ vụ án, lời khai của người bán đất ông T2, người làm
chứng ông Lê Quang T2 khẳng định: Năm 1994, ông T2 người giới thiệu ông
T mua đất hiện đang tranh chấp từ ông Ảnh, ông T trực tiếp giao dịch, làm giấy
tờ thanh toán 20 chỉ vàng cho ông Ả. Sau đó ông T cho N2 cùng mua
chung và giao giấy tờ mua bán cho bà N2 giữ. Hội đồng xét xử thấy rằng Tòa án
cấp thẩm xác định đất N2 xác nhận ngày 13/11/2007 mua chung với
ông T, chính đất 2.630m
2
thuộc thửa 53, tờ bản đồ số 7, thôn B, C,
huyện T (nay thị P) mua của ông Ảnh năm 1994 hiện nay đứng tên N2
như ông T trình bày là có cơ sở. Thực tế, ngoài lô đất này ông T và bà N2 không
mua chung lô đất nào khác. Yêu cầu công nhận quyền sử dụng chung thuộc thửa
53, tờ bản đồ số 7, thôn B, xã C, huyện T (nay là thị xã P) hiện đứng tên bà Diệp
Thị Minh N của ông T là có căn cứ.
8
[2.3] Theo đơn khởi kiện và lời khai có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày của
người đại diện theo ủy quyền của ông T tại các phiên tòa nội dung: Ông T
yêu cầu N công nhận mảnh đất này là tài sản chung và công nhận cho ông ½
quyền sử dụng đất như cam kết ban đầu”.
Tòa án cấp thẩm nhận định các bên tranh chấp về quyền sở hữu tài sản
là quyền sử dụng đất mà không xem xét giá trị, chỉ xem xét quyền sở hữu tài sản
của ai (không yêu cầu chia tài sản) và tuyên xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn ông Quang T. Toàn bộ quyền sử dụng diện tích 2.630m
2
đất
thuộc thửa 53 (mới 67) tờ bản đsố 7 C, thị P, tỉnh Rịa - Vũng Tàu
hiện nay đứng tên bà Diệp Thị Minh N có nguồn gốc do ông T, bà N mua chung
(mỗi người ½ trong tổng 20 chỉ vàng vốn ban đầu) tài sản chung của ông
Quang T với Diệp Thị Minh N chưa phù hợp với pháp luật về đất đai ý
chí các bên.
Cụ thể ông Quang T đang định tại Mỹ công dân quốc tịch Mỹ
(Hộ chiếu số USA 523363446), Bản tkhai ngày 8/4/2019 (Bút lục số 11-12)
ông T thừa nhận mình người có quốc tịch nước ngoài, không quyền đứng
tên chuyển nhượng quyền sử dụng đất, n nhờ N đứng tên hộ phần diện
tích đất 2 người mua chung. Nên không thể tuyên ông T quyền sỡ hữu ½
quyền sử dụng đất mà phải xác định ông T được hưởng giá trị quyền sử dụng đất
mới đúng pháp luật.
Mặt khác, ông T định tại Mỹ từ năm 1997, nhờ giao N đứng tên
hộ, quản sử dụng phần đất đã mua chung. Các tài liệu, chứng cứ trong hồ
thể hiện bà N công giữ gìn (Bút lục số 91-99), quản và tôn tạo nâng giá
trị đất tranh chấp như xây hàng rào bảo vệ, thuê người giữ đất…Vì vậy, khi giải
quyết tranh chấp thì cần phải căn cứ vào Án lệ s02/2016/AL được Hội đồng
Thẩm phán Toà án nhân n Tối cao thông qua ngày 06/4/2016 (Án lệ số
02/2016/AL) để giải quyết vụ án. Tòa án cấp thẩm không tính công sức của
bị đơn đã bỏ ra thực hiện giao dịch và đứng tên hộ trong hợp đồng chuyển
nhượng đất cho nguyên đơn không đúng tinh thần Án lệ số 02/2016/AL,
không đảm bảo quyền lợi chính đáng của bị đơn được pháp luật bảo vệ.
Căn cứ Biên bản định giá tài sản ngày 25/11/2020 (Bút lục số 78 - 81) giá
trị tài sản tranh chấp 3.924.000.000đ (ba tỷ chín trăm hai mươi bốn triệu
đồng), làm tròn số 4.000.000.000đ (bốn tỷ đồng). Giá trị 20 chỉ vàng
150.000.000đ (một trăm năm mươi triệu đồng); nên giá trị chênh lệch tăng lên là
3.850.000.000 đ (ba tỷ tám trăm năm mươi triệu đồng). Do N đứng tên
công sức gìn giữ nên N được hưởng 50% giá trị tăng thêm là 1.925.000.000đ
(một tỷ chín trăm hai mươi lăm triệu đồng). Phần tài sản chung của Nông
T còn lại 1.925.000.000đ + 150.000.000đ = 2.075.000.000đ (hai tỷ không
9
trăm bảy mươi m triệu đồng); mỗi người được hưởng 50% = 1.037.500.000đ
(một tỷ không trăm ba mươi bảy triệu m trăm nghìn đồng). Như vậy N
được hưởng giá trị: 1.037.500.000đ + 1.925.000.000đ = 2.962.500.00(hai tỷ
chín trăm sáu mươi hai triệu năm trăm nghìn đồng); ông T được hưởng
1.037.500.000đ (một tỷ không trăm ba mươi bảy triệu năm trăm nghìn đồng).
Do các đương sự chỉ yêu cầu xác định giá trị tài sản chung nên được tính
như sau: ông T được hưởng 1.037.500.000đ (một tỷ không trăm ba mươi bảy
triệu năm trăm nghìn đồng), tương đương 25,9%, làm tròn số 26%, còn lại
N được hưởng 74%. Các đương sự có quyền yêu cầu chia giá trị và được tính tại
thời điểm thi hành án theo tỷ lệ ông T được hưởng 26%, N được hưởng 74%.
Do đó, N trách nhiệm thanh toán 26% giá trị quyền sử dụng đất theo kết
quả định giá tại thời điểm cơ quan Thi hành án cho ông T.
[2.4] vậy, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với Quyết
định kháng nghị số 80/QĐ-VKS-DS ngày 30/12/2021 của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Rịa - Vũng u; chấp nhận một phần kháng cáo của
bị đơn Diệp Thị Minh N; sửa một phần bản án dân sự thẩm như đã phân
tích nêu trên.
[3] Về án phí, chi phí tố tụng:
[3.1] Về án phí dân sự và chi phí tố tụng sơ thẩm:
- Nguyệt phải chịu án phí dân sthẩm không giá ngạch; ông T
được hoàn trả tiền tạm ứng án phí đã nộp.
- Về chi phí đo vẽ, thẩm định tại chỗ, định giá, sao lục hồ sơ: 8.191.500
đồng. Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn bà Diệp Thị Minh
N phải chịu chi phí này. Nguyên đơn ông Lê Quang T đã tạm ứng chi phí, do đó
bà N có nghĩa vụ hoàn lại số tiền trên cho ông T.
[3.2] Về án phí dân sự phúc thẩm:
Do một phần yêu cầu kháng cáo được chấp nhận nên bà N không phải chịu
án phí dân sự phúc thẩm.

QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 284, điểm b khoản 1 Điều 289, khoản 2 Điều 308 Bộ
luật Tố tụng dân sự, Án lệ số 02/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân Tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 được công bố
theo Quyết định 220/QĐ-CA06/4/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao;
10
Luật Đất đai năm 2013; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án;
- Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với Quyết định kháng nghị số 80/QĐ-
VKS-DS ngày 30/12/2021 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa
- Vũng Tàu.
- Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Diệp Thị Minh N.
- Sửa một phần Bản án dân sự thẩm số 06/2021/DS-ST ngày
20/12/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Tuyên xử:
1/. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Quang T. Toàn bộ
quyền sử dụng diện tích 2.630m
2
đất thuộc thửa 53 (mới 67) tờ bản đồ số 7 xã C,
thị P, tỉnh Rịa - Vũng Tàu hiện nay đứng n Diệp Thị Minh N có
nguồn gốc do ông T, N mua chung tài sản chung của ông Quang T với
Diệp Thị Minh N. Theo đó, tỷ lệ được xác định như sau:
Ông Lê Quang T được 26% giá trị quyền sử dụng đất, Diệp Thị Minh N
được 74% giá trị quyền sử dụng đất. Diệp Thị Minh N trách nhiệm hoàn
trả 26% giá trquyền sử dụng đất cho ông Quang T theo kết quđịnh giá tại
thời điểm thi hành án.
2/. Các bên thi hành án tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền. Kể từ
ngày người được thi hành án đơn yêu cầu đối với khoản tiền được thi hành,
nếu người phải thi hành chậm trả thì còn phải chịu thêm khoản lãi theo mức lãi
suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015, tương
ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành.
3/. Về án phí dân sự và chi phí tố tụng sơ thẩm:
- Diệp Thị Minh N phải chịu án phí dân sự thẩm không có giá ngạch
300.000đ ().
- Hoàn lại 12.000.000đ () tạm ứng án phí cho ông
Quang T theo Biên lai thu tạm ứng án phí số 0007249 ngày 21/6/2019 của Cục
Thi hành án dân sự tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
- Về chi phí đo vẽ, thẩm định tại chỗ, định giá, sao lục hồ sơ: 8.191.500
(tám triệu một trăm chín mươi mốt ngàn năm trăm đồng). Nguyên đơn ông
Quang T đã tạm ng n Diệp Thị Minh N có nghĩa vhoàn trả cho ông
Quang T số tiền 8.191.500 (tám triệu một trăm chín ơi mốt ngàn năm trăm
đồng).
4/. Về án phí dân sự phúc thẩm:
11
Diệp Thị Minh N không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
5/. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi
hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 Điều 9 của
Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật từ ngày tuyên án./.
CÁC THẨM PHÁN
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Hoàng Tấn
Trần Thị Thúy Hồng
Tải về
Bản án số 349/2024/DS-PT Bản án số 349/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 349/2024/DS-PT Bản án số 349/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất