Bản án số 345/2025/DS-PT ngày 05/06/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 345/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 345/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 345/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 345/2025/DS-PT ngày 05/06/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Tiền Giang |
Số hiệu: | 345/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 05/06/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ranh giới quyền sử dụng đất, đòi quyền sử dụng đất và yêu cầu tháo dỡ tài sản gắn liền với đất |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH TIỀN GIANG
Bản án số: 345/2025/DS-PT
Ngày: 05 - 6 -2025
V/v tranh chấp: “Ranh giới
quyền sử dụng đất, đòi quyền
sử dụng đất và yêu cầu tháo dỡ
tài sản gắn liền với đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN D
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Thanh Triều
Các Thẩm phán: Bà Nguyễn Thị Diệp Thuý
Bà Nguyễn Thanh Nhàn
- Thư ký phiên tòa: Ông Đoàn Quốc Nam - Thư ký Tòa án, Tòa án nhân
dân tỉnh Tiền Giang.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân
tỉnh Tiền Giang tham gia phiên tòa:
Ông Dương Thanh Quang - Kiểm sát viên.
Ngày 05 tháng 6 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 640/2024/TLPT-DS ngày 18 tháng 12
năm 2024 về tranh chấp “Ranh giới quyền sử dụng đất, đòi quyền sử dụng đất
và yêu cầu tháo dỡ tài sản gắn liền với đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 382/2024/DS-ST ngày 12 tháng 9 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 753/2024/QĐ-PT ngày
26 tháng 12 năm 2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:
- Phạm Thị B, sinh năm 1948;
- Nguyễn Minh P, sinh năm 1974 (có mặt);
- Nguyễn Thị L, sinh năm 1977 (có đơn xin vắng);
- Nguyễn Minh T, sinh năm 1982;
2
- Nguyễn Minh K, sinh năm 1985 (có đơn xin vắng)
Cùng địa chỉ: Số 171 Ô 2 khu 2, thị trấn C, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
- Nguyễn Thị Ngọc P, sinh năm 1979 (có đơn xin vắng)
- Nguyễn Minh V, sinh năm 1988 (có đơn xin vắng)
Cùng địa chỉ: Số 31/9F H, phường H, quận T, thành phố Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Thị H, sinh năm 1971;
Địa chỉ: ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
Đại diện theo uỷ quyền của các nguyên đơn: Phạm Thị B, Nguyễn Thị H,
Nguyễn Minh T là ông Nguyễn Minh P, sinh năm 1974 (có mặt);
Địa chỉ: Số 171 Ô 2 khu 2, thị trấn C, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
Người bảo vệ quyền và lợi ích cho anh P: Luật sư Võ Trọng K - Văn
phòng Luật sư Võ Trong K - thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hồ Chí Minh (có
mặt)
2. Bị đơn: Trần Thế D, sinh năm 1985 (Vắng mặt);
Địa chỉ: Số 279 Ô 2 khu 2, thị trấn C, huyện C, Tiền Giang.
Người bảo vệ quyền và lợi ích cho Trần Thế D: Luật sư Nguyễn Thành T –
Công ty luật TNHH -MTV Nam Sơn, thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hồ Chí
Minh; (vắng mặt)
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Nguyễn Thị G, sinh năm 1958; (vắng mặt)
- Trần Thế K, sinh năm 2011; (vắng mặt)
Cùng địa chỉ: Số 279 Ô 2 khu 2, thị trấn C, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
Đại diện theo pháp luật của cháu Trần Thế K: Trần Thế D, sinh năm 1985;
- Trần Thế P, sinh năm 1982; (có mặt)
Địa chỉ: Khu phố L phường T, thị xã T, tỉnh Tây Ninh.
Đại diện theo uỷ quyền: Anh Phạm Hồng A, sinh năm 1998. (vắng mặt)
Địa chỉ: Lầu 1, 141- 143 Nguyễn Thị N thuộc KĐT V, Phường H, Thành
phố T, Thành phố Hồ Chí Minh
3
Người bảo vệ quyền và lợi ích cho bà Trần Thế P: Luật sư Nguyễn Thành
T – Công ty luật TNHH MTV N- thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)
- Người kháng cáo các nguyên đơn: Phạm Thị B, Nguyễn Thị H, Nguyễn
Minh T, Nguyễn Minh P, Nguyễn Minh K, Nguyễn Thị Ngọc P, Nguyễn Minh
V, Nguyễn Thị H;
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo án sơ thẩm;
* Theo đơn khởi kiện và các tài liệu có tại hồ sơ vụ án, các nguyên đơn
trình bày thống nhất như sau:
Thửa đất số 25, tờ bản đồ số 22, diện tích 598,9m
2
loại đất quả + đất ở, tọa
lạc tại số 171, ô 2 khu 2 thị trấn C, huyện C, tỉnh Tiền Giang đã được UBND
huyện C, tỉnh Tiền Giang cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00750
QSDĐ/299/QĐ.UB ngày 03/10/2002 do cha, chồng chúng tôi là ông Nguyễn
Văn Năm, sinh năm 1941 (chết năm 2017) đại diện hộ gia đình đứng tên quyền
sử dụng. Chúng tôi là thành viên trong hộ gia đình và cũng là những người trực
tiếp quản lý, canh tác và sử dụng thửa đất này trước năm 1975 cho đến nay.
Ông Trần Thế D là người ở địa P khác đến mua thửa đất giáp ranh với thửa
đất nêu trên của gia đình chúng tôi. Khi ông D mua thửa đất nêu trên để cất nhà
ở thì chúng tôi có chỉ ranh cho ông D biết cọc ranh giới bằng Btông giữa hai Bn
thửa đất đã được địa chính thị trấn, huyện đo đạc và cắm trụ xác định rõ ràng
nhằm để sau này tranh chấp xảy ra. Từ khi được địa chính cắm trụ cột Btông để
xác định ranh giới rõ rằng chúng tôi có tiến hành xây tường rào lưới B40 cho
kiên cố, do ranh giới đất giữa hai Bn nằm giáp với con mương sâu, chúng tôi sợ
sạt lở nên khi xây tường rào thì hướng Bắc từ hàng rào đến trụ ranh giới đất hai
Bn chúng tôi có chừa ra diện tích đất chiều ngang khoảng 0,2m x chiều dài
khoảng 44m, tổng diện tích 8,8m
2
, việc chúng tôi xây dựng tường rào lưới B40
có chừa ra diện tích đất như nêu trên, phía Bn ông D biết rõ. Phần diện tích đất
chừa ra nằm ngoài tường rào lưới B40 như nêu trên nằm trong tổng diện tích đất
598,9m
2
của gia đình chúng tôi.
4
Sau khi mua đất, ông D tiến hành xây dựng nhà ở, do ông D cất nhà sát
ranh đất giữa hai Bn thửa đất nên trong quá trình tiến hành xây dựng chúng tôi
có thường xuyên nhắc nhở ông D là phải ép cọc đúng vị trí ranh đất chứ không
được lấn qua đất của chúng tôi chừa ra như nêu trên, ông D trả lời là biết rất rõ
vị trí ranh giới đất của ông tại vị trí nào rồi, kêu chúng tôi cứ yên tâm. Theo bản
vẽ xây dựng nhà của anh D thì xây tường rào cao 2m, khi ép cọc Btông từ
hướng Bắc đến hướng Nam ông D làm đúng vị trí ranh giới đất, nhưng 02 cọc ở
cuối hướng Nam, ông D chỉ đạo cho thợ làm ép cọc lấn qua kéo dài hết phần đất
tường rào của chúng tôi, toàn bộ các cây đà chỉ nằm trên đầu đà không nằm trên
cọc móng Btông và bức tường của ông D cũng không phải là tường rào cao 2m
như ông D nói, mà bức tường cao đến 5-7m, vì vậy gây rất nguy hiểm cho gia
đình chúng tôi. Sau khi biết sự việc nêu trên, chúng tôi có yêu cầu ông D ngưng
việc xây dựng nhà lấn chiếm qua phần đất nêu trên của chúng tôi nhưng ông D
cố tình không thực hiện mà vẫn tiếp tục xây dựng. Ngày 28/10/2022 UBND thị
trấn C có tiến hành hòa giải nhưng không thành. Ông D vẫn tiếp tục xây dựng
không ngừng, lúc ông D mua đất, ông P có đại diện hộ gia đình ký giáp ranh khi
cơ quan đo đạc tiến hành đo đất để chủ đất cũ là ông Xuân bán cho ông D.
Nhưng ông P ký là xác định ranh giới bằng 02 cột ranh có sẵn.
Nay chúng tôi yêu cầu Toà án xem xét giải quyết:
- Yêu cầu ông Trần Thế D phải đập bức tường cao 5-7 m để trả lại cho
chúng tôi phần đất mà ông D đã lấn chiếm có diện tích khoảng 8,8m
2
nằm trong
thửa đất số 25, tờ bản đồ số 22, diện tích 598,9m2 đất quả + đất ở, tọa lạc tại số
171, Ô 2, khu 2, thị trấn C, huyện C, tỉnh Tiền Giang đã được Ủy ban nhân dân
huyện C, tỉnh Tiền Giang cấp giấy chứng nhận quyền sử 00750
QSDĐ/299/QĐ.UB ngày 03/10/2002 do ông Nguyễn Văn Năm, sinh năm 1941
đại diện hộ gia đình đứng tên quyền sử dụng.
Nay qua đo đạc thực tế chúng tôi yêu cầu anh D phải trả lại diện tích đất
14,1 m
2
theo kết quả đo đạc mà chúng tôi chỉ ranh.
* Bị đơn ông Trần Thế D trình bày:
5
Tháng 10/2022 tôi có mua của ông Trần Văn Xuân thửa đất số 467, tờ bản
đồ số 22, diện tích 385,2m
2
; Địa chỉ: Khu 2, thị trấn C và đã được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số CS28140 ngày 14/10/2022. Thời điểm tôi
nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, ranh đất của ông Nguyễn Văn Năm (đã
mất) và ông Xuân đã xây dựng hàng rào kiên cố và kéo lưới B40. Để hoàn tất
thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất của tôi đã nhận
chuyển nhượng, do đó tôi có đến chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện C
lập hợp đồng đo đạc thửa đất theo quy định pháp luật. Sau khi tôi lập hợp đồng
đo đạc tại chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện C, chi nhánh có phân
công cán bộ đo đạc đến thửa đất của tôi để đo đạc. Đồng thời, ông Nguyễn
Minh P là con của ông Năm (do anh P đang quản lý và sử dụng đất trên), ông P
và tôi đã thống nhất ranh đất giữa tôi và ông Năm là hàng rào lưới B40 mà ông
Năm đã xây dựng kiên cố. Suốt quá trình đo đạc đều có sự chứng kiến của ông
Nguyễn Minh P và ông P đã thống nhất với ranh đất cũng như bản vẽ đo đạc
của chi nhánh cung cấp, ông P đã thống nhất ký tên giáp ranh cho tôi.
Sau khi tôi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất tôi có tiến hành xây
dựng căn nhà cấp 4 để sinh sống. Lúc tôi xây nhà giữa tôi và anh P không hề
xảy ra tranh chấp hay mâu thuẫn gì đối với phần ranh đất giữa tôi và anh P. Tôi
xây cất nhà sau khi đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất xong, tôi
xây đúng diện tích đất được cấp. Hiện tại theo đo đạc thực tế đất tôi vẫn thiếu
5m
2
so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp.
Nay tôi không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Vì tôi đang
gặp khó khăn cần tiền nên tôi đã bán phần đất này cho chị ruột là Trần Thế P
xong và chị P đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nay muốn hai
Bn êm đẹp tôi đồng ý hỗ trợ gia đình ông P số tiền 21.000.000 đồng xem như
hai Bn không có tranh chấp gì nữa, còn ông P không đồng ý thì tuỳ Toà giải
quyết theo quy định pháp luật, tôi không hỗ trợ nếu hai Bn đưa vụ án ra xét xử.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị G xin vắng mặt đề
nghị Toà án giải quyết theo quy định pháp luật.

6
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Trần Thế P trình bày: Tôi có
mua phần đất nêu trên của ông D bán cho tôi, tôi có biết đất đang tranh chấp,
nếu Toà án xác định đất ông D có lấn đất ông P thì tôi đồng ý sẵn sàng chấp
nhận theo phán quyết của Toà án giao trả lại đất lấn chiếm.
Tại bản án Dân sự sơ thẩm số 382/2024/DS-ST ngày 12 tháng 9 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang căn cứ Điều 175 Bộ luật Dân sự
2015; Căn cứ Điều 166, 170, 202, 203 Luật Đất đai 2013; Căn cứ Điều 26,
điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147 và khoản 1 Điều
228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ Nghị quyết
số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 qui định về mức thu, miễn,
giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:
1. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn về việc yêu cầu
ông Trần Thế D và bà Trần Thế P xác định lại ranh giới quyền sử dụng đất, đòi
quyền sử dụng đất và buộc ông D, bà P phải tháo dỡ tài sản gắn liền với đất trên
diện tích đất tranh chấp 14,1m
2
thuộc thửa đất số 467, tờ bản đồ số 22, tổng diện
tích 385,2m
2
, đất toạ lạc tại khu 2, thị trấn C theo giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số CN 28421 cấp ngày 30/6/2023 do bà Trần Thế P đứng tên quyền sử
dụng.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng cáo
của đương sự.
Ngày 18/9/2024, các nguyên đơn có đơn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm
382/2024/DS-ST ngày 12 tháng 9 năm 2024 của Toà án nhân dân huyện C, tỉnh
Tiền Giang. Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét chấp nhận yêu cầu của các
nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và
yêu cầu kháng cáo, yêu cầu Toà án xét xử buộc bị đơn đập bỏ bức tường và trả
lại phần đất lấn chiếm.
Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích cho nguyên đơn trình bài: Nguyên đơn
kháng cáo là có căn cứ lý do phần đất ông Nữa đã được đứng tên QSDĐ, giáp

7
ranh với đất ông Nữa là đất ông Xuân, sau đó ông Xuân chuyển nhượng lại cho
ông D, các Bn đã xác định ranh đất, tuy nhiên sau đó ông D đã xây nhà lấn ranh
đất của bà B, qua thẩm định thể hiện rõ bức tường nhà ông D đã xây dựng trên
dàm đà hàng rào bà B, do đó có đủ cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện và yêu
cầu kháng cáo của các nguyên đơn. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu
khởi kiện và yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn sử án sơ thẩm.
Bị đơn Trần Thế D vắng mặt.
Người liên quan Trần Thế P không đồng ý theo yêu cầu nguyên đơn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang phát biểu ý kiến: Về tố
tụng việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm
phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân
sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là
đúng theo pháp luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Qua yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn là có cơ sở, qua xem
xét biên bản thẩm định, cho thấy bị đơn đã lấn ranh chiếm phần đất của nguyên
đơn và xây dựng bức tường trên phần đất lấn chiếm do đó đề nghị Hội đồng xét
xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Qua nghiên cứu toàn bộ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, nội
dung yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, lời trình bày của các đương sự, luật sư
và kết quả tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm, ý kiến phát biểu của đại diện
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang.
[1] Về thời hạn kháng cáo của các nguyên đơn kháng cáo còn trong thời
hạn luật định, đúng theo quy định tại các Điều 271, 272, 273 và 280 của Bộ luật
Tố tụng dân sự nên được xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ
pháp luật tranh chấp là “Ranh giới quyền sử dụng đất, đòi quyền sử dụng đất
và yêu cầu tháo dỡ tài sản gắn liền với đất” là đúng quy định pháp luật theo
8
quy định tại Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật
tố tụng dân sự.
Phạm Thị B, Nguyễn Minh P, Nguyễn Thị H có đại diện theo uỷ quyền
anh Nguyễn Minh P, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Thế P tất cả
đều có mặt, Nguyễn Thị L, Nguyễn Minh K, Nguyễn Thị Ngọc P, Nguyễn Minh
V tất cả đều có đơn xin vắng mặt, bị đơn Nguyễn Thế D Toà án tống đạt các
văn bản tố tụng nhưng vắng mặt, căn cứ Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự Hội
đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án.
[3] Về nội dung kháng cáo của các nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu
kháng cáo. Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện
và yêu cầu kháng cáo của các nguyên đơn.
[4] Về nội dung: Qua nghiên cứu các chứng cứ có trong hồ sơ cho thấy: Về
nguồn gốc đất tranh chấp ông P và các nguyên đơn khai thống nhất thửa đất số
25, tờ bản đồ số 22, diện tích 598,9m
2
đất quả + đất ở, tọa lạc tại số 171, Ô 2,
khu 2, thị trấn C đã được Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang cấp giấy
chứng nhận quyền sử 00750 QSDĐ/299/QĐ.UB ngày 03/10/2002 do ông
Nguyễn Văn Năm đại diện hộ gia đình đứng tên quyền sử dụng có nguồn gốc
của hộ gia đình ông Nguyễn Văn Năm. Đối với thửa đất số 467, tờ bản đồ số 22,
diện tích 385,2m
2
địa chỉ: Khu 2, thị trấn C và đã được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số CS28140 ngày 14/10/2022 cho ông Trần Thế D và hiện
nay do bà Trần Thế P đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có nguồn
gốc do ông D mua của ông Trần Văn Xuân. Hai thửa đất nêu trên giáp ranh với
nhau.
Giáp ranh với thửa đất này là hàng rào trụ B tông và có phần đã kiềng chạy
dọc theo ranh đất, giai đoạn sơ thẩm ông D cũng thừa nhận vấn đền này, qua
thẩm định thực tế phần đầu hàng rào còn thể hiện hai trụ B tông tròn và hàng
lưới B40 và là điểm xác định ranh đất hai Bn giữa gia đình bà B và ông D, đến
trụ B tông ranh thứ hai thì không còn hàng rào lưới B40 mà chỉ còn những trụ B
9
tông tròn nằm dọc theo ranh, và phần tường nhà ông D đã xây dựng nằm trên
những trụ B tông này.
Ông Nguyễn Minh P và các nguyên đơn yêu cầu Toà án xét xử buộc ông
Trần Thế D và bà Trần Thế P phải trả lại diện tích đất lấn chiếm theo chỉ ranh
của ông là 14,1m
2
và buộc ông D, bà P phải tháo dỡ tài sản (một phần căn nhà)
gắn liền với phần đất ranh tranh chấp để trả đủ cho ông và các nguyên đơn diện
tích đất 14,1m
2
theo Phiếu xác nhận kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất ngày
15/7/2024 do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện C đo đạc mà ông đã
chỉ ranh, là có cơ sở.
Việc cấp sơ thẩm nhận định các thửa đất số 25, tờ bản đồ số 22, diện tích
598,9m
2
theo giấy chứng nhận quyền sử 00750 QSDĐ/299/QĐ.UB ngày
03/10/2002 do ông Nguyễn Văn Năm, đại diện hộ gia đình đứng tên quyền sử
dụng được cấp đổi từ thửa đất số 371, diện tích 493m
2
theo giấy chứng nhận
quyền sử đụng đất số 00508QSDD/1895 cấp ngày 31/02/1997 do hộ ông
Nguyễn Văn Năm đứng tên. Như vậy, năm 1997 thửa đất của hộ ông Năm có
diện tích 493m
2
đến 2002 được cấp lại diện tích 598,9m
2
. Tăng 105m
2
. Theo
phiếu xác nhận kết quả đo đạc và mảnh trích đo địa chính đo đạt thực tế thửa
đất do hai Bn đương sự chỉ ranh, thì diện tích thửa đất số 25 của hộ ông Năm có
diện tích 587,8m
2
, giảm 11,1 m
2
so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, việc
giảm diện tích này là do mở rộng đường B tông.
Còn đối với thửa 467 của trước đây của ông D, nhưng hiện nay do bà P
đứng tên, diện tích đo đạc thực tế 380,3m
2
giảm 4,9m
2
cũng do mở rộng đường
B tông. Nếu cộng 14,1m
2
đất tranh chấp theo chỉ ranh của ông P thì diện tích đất
thửa số 25 của các nguyên đơn tăng lên 613m
2
, còn diện tích thửa đất anh D
giảm thêm 14,1m
2
.
Việc cấp sơ thẩm nhận định diện tích đất hai thửa có tăng giảm sau khi đo
đạc là chưa chính xác với thực tế hiện trạng phần tranh chấp, vì hiện trạng ranh
là hàng rào giáp ranh hai Bn vẫn còn hiện hữu, phần đà hàng rào của bà B vẫn
còn nằm cặp theo ranh đất, hiện nay bức tường nhà anh D đã xây dựng nằm trọn
10
trên phần đà hàng hàng rào và các đầu trụ B tông tên phần đà, cho thấy khi xây
dựng anh D đã lấn sang phần đất bà B là có cơ sở. Đồng thời tại biên bản hoà
giải ngày 28/7/2024 Anh D cũng trình bài đồng ý hỗ trợ cho gia đình anh P số
tiền 21.000.000đồng xem như hai Bn không có tranh chấp gì nữa.
Quá trình Toà án thụ lý giải quyết, đất có tranh chấp nhưng bà P và ông D
có hành vi thực hiện việc mua bán (theo hợp đồng thì tặng cho) là trái quy định
tại Điều 188 Luật đất đai năm 2014. Tuy nhiên, đây là tranh chấp ranh giới
quyền sử dụng đất giữa hai Bn và diện tích đất tranh chấp chỉ có 14,1m
2
trong
tổng diện tích đất 385,2m
2
và bà P cũng có ý kiến nếu ông D có lấn ranh đất ông
P theo phán quyết của cơ quan có thẩm quyền và Toà án thì bà P cũng đồng ý
giao trả phần đất lấn ranh, nên cũng không ảnh hưởng đến quyền lợi của ông P
và các nguyên đơn nếu có chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn.
Hiện căn nhà gắn liền với phần đất có tranh chấp ông D và bà P khai thống nhất
vẫn do ông D và bà G (mẹ ông D) cùng con ông D đang ở, bà P chỉ đứng tên
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chứ chưa bàn giao quản lý, sử dụng nhà và
đất trên thửa đất 467.
Phía gia đình bà B có đại diện uỷ quyền anh P yêu cầu tháo dở trả lại
hiện trạng, qua xem xét thẩm định thì bức tường nhà anh D gắn liền với ngôi
nhà anh D nếu phá dở bức tường thì sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ phần kết cấu
ngôi nhà sẽ gây lún nứt đổ sập rất nguy hiểm. Do đó, cần buộc anh D và chị
P liên đới bồi thường lại giá trị bằng tiền cho gia đình bà B giá trị của phần
diện tích bị lấn chiếm là 14,1m
2
theo giá trị đất thực tế tại địa P là phù hợp với
pháp luật.
Căn cứ biên bản định giá ngày 26/7/2024 giá đất thực tế tại địa P là
3.000.000đồng/m
2
cho nên 14.1m
2
x 3.000.000đồng = 42.300.000đồng .
Phía nguyên đơn cho rằng bức tường xây trên đà hàng rào hiện nay đã có
hiện tượng sụp lún gây nứt tường nhà nguyên đơn, Hội đồng xét xử thấy rằng
hậu quả anh D xây nhà trên đà hàng rào gây ảnh hưởng nhưng hiện nay vẫn ổn
11
định, nếu trường hợp sau này có hậu quả thiệt hại xảy ra các nguyên đơn có
quyền khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Đối với giàn đà này phía nguyên đơn bà B đã thuê nhân công làm dàn đà,
để xây dựng làm hàng rào nhưng hiện nay anh D đã xây dựng nằm trọn trên dàn
đã này, bà B đã không còn sử dụng được, nếu đập phá bức tường sẽ gây thiệt
hại cho đôi Bn rất lớn, do đó cần giao dàn đà này cho anh D, bà P sử dụng, anh
D, bà P có nghĩa vụ hoàn trả trị giá dàn đà bằng tiền cho bà B và các đồng
nguyên đơn. Phía nguyên đơn cho rằng dàn đà này chi phí bỏ ra là
45.000.000đồng, yêu cầu bị đơn hoàn trả lại giá trị tiền trên, phía bị đơn chỉ
đồng ý hổ trợ 15.000.000đồng. Hội đồng xét xử có tạm dừng phiên toà để yêu
cầu nguyên đơn thuê cơ quan định giá, nhưng các cơ quan chuyên môn cho rằng
do giàn đà nằm sâu dưới đất nên không thể định giá được. Do đó, Hội đồng xét
xử xét thấy đôi Bn không thoả thuận được giá trị bồi thường, Hội đồng xét xử
lấy mức T bình, quyết định lấy giá nguyên đơn đưa ra 45.000.000đồng và giá bị
đơn là 15.000.000đồng cộng lại chia bình quân (45.000.000đồng +
15.000.000đồng) : 2 = 30.000.000đồng. Buộc bị đơn trả lại giá trị giàn đà cho
nguyên đơn là 30.000.000đồng.
Tại phiên toà, phía nguyên đơn yêu cầu buộc bị đơn trả lại chi phí tố tụng
bao gồm: Chi phí đo đạc 2.692.619 đồng, chi phí xác minh 1.000.000đồng, chi
phí thu thập chứng cứ, thẩm định tại chổ là 4.000.000đồng, tạm ứng chi phí
thẩm định là 5.000.000đồng, chi phí nhân công vật liệu xây dựng để đập bỏ 05
cây đà ngang đào và lấp lại tường rào là 7.797.000đồng. Hội đồng xét xử xét
thấy chi phí chi phí nhân công vật liệu xây dựng để đập bỏ 05 cây đà ngang đào
và lấp lại tường rào là là 7.797.000đồng yêu cầu này là không có cơ sở hội đồng
xét xử chỉ chấp nhận. Chi phí đo đạc, chi phí xác minh, chi phí thu thập chứng
cứ, chi phí thẩm định tổng số tiền là 12.692.000đồng Hội đồng xét xử chấp
nhận.
Về chi phí tố tụng: anh D, chị P phải chịu chi phí tố tụng giai đoạn sơ thẩm
và phúc thẩm là 12.692.000đồng.

12
Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích cho nguyên đơn là có cơ sở Hội đồng xét
xử chấp nhận.
Từ những phân tích trên, xét kháng cáo của các nguyên đơn là có căn cứ
nên chấp nhận.
Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang là phù hợp
với nhận định Hội đồng xét xử.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Căn cứ Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35,
điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147 và khoản 1 Điều 228, Điều 271, Điều 273
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Điều 175 Bộ luật Dân sự 2015; Căn cứ Điều
166, 170, 202, 203 Luật Đất đai 2013; Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/NQ-
UBTVQH14 ngày 30/12/2016 qui định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản
lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của các nguyên đơn.
Sửa bản án sơ thẩm số 382/2024/DS-ST ngày 12 tháng 9 năm 2024 của
Toà án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang.
Xử:
- Buộc anh Trần Thế D và bà bà Trần Thế P có nghĩa vụ liên đới hoàn trả
cho các nguyên đơn Phạm Thị B, Nguyễn Minh P, Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị
L, Nguyễn Minh K, Nguyễn Thị Ngọc P, Nguyễn Minh V, Nguyễn Minh K số
tiền 42.300.000đồng (bốn mươi hai triệu, ba trăm ngàn đồng) giá trị phần đất
lấn chiếm 14,1m
2
.
- Buộc anh Trần Thế D và bà bà Trần Thế P có nghĩa vụ liên đới hoàn trả
cho các nguyên đơn Phạm Thị B, Nguyễn Minh P, Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị
L, Nguyễn Minh K, Nguyễn Thị Ngọc P, Nguyễn Minh V, Nguyễn Minh K số
tiền 30.000.000đồng (ba mươi triều đồng) giá trị giàn đà dài 43m.
Anh Trần Thế D và bà bà Trần Thế P được quản lý sử dụng giàn đà có
chiều dài là 43m.
13
- Chi phí tố tụng: Anh Trần Thế D và bà bà Trần Thế P phải hoàn trả cho
các đồng nguyên đơn Phạm Thị B, Nguyễn Minh P, Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị
L, Nguyễn Minh K, Nguyễn Thị Ngọc P, Nguyễn Minh V, Nguyễn Minh K chi
phí tố tụng giai đoạn sơ thẩm và phúc thẩm là 12.692.000đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với
các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án
xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng Bn phải thi hành án còn phải chịu khoản
tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2
Điều 468 Bộ luật dân sự.
- Về án phí: Hoàn án phí dân sự sơ thẩm cho Nguyễn Minh P, Nguyễn
Minh T, Nguyễn Thị L, Nguyễn Minh K, Nguyễn Thị Ngọc Phượng, Nguyễn
Minh P số tiền tạm ứng án phí là 2.900.000đồng theo các biên lai thu số
0025519 ngày 26/12/2022 , biên lai thu số 0007876, 0007877, 0007878,
0007879, 0007880, 0007881, 0007882, 0007883 ngày 18/9/2024 của Chi cục
thi hành án dân sự huyện C tỉnh Tiền Giang.
- Anh Trần Thế D và bà Trần Thế P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm
3.615.000đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại điều 2
Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi
hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án,
tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các
điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện
theo qui định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA
PHIÊN TÒA
Nguyễn Thanh Triều
14
Nguyễn Thanh Nhàn Nguyễn Thị Diệp Thúy
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Tiền Giang;
- TAND huyện C;
- Chi cục THADS huyện C;
- Đăng cổng thông tin điện tử;
- Các đương sự;
- Lưu: VT, hồ sơ vụ án;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thanh Triều
15
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 20/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 13/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 12/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 05/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 01/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 31/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 29/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 25/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm