Bản án số 31/2023/HS-ST ngày 24-05-2023 của TAND huyện Tân Kỳ (TAND tỉnh Nghệ An) về tội trộm cắp tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
31_2023_HS-ST_TAN KY_NGHE AN
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
31_2023_HS-ST_TAN KY_NGHE AN
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 31/2023/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 31/2023/HS-ST ngày 24-05-2023 của TAND huyện Tân Kỳ (TAND tỉnh Nghệ An) về tội trộm cắp tài sản |
---|---|
Tội danh: | 173.Tội trộm cắp tài sản (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Tân Kỳ (TAND tỉnh Nghệ An) |
Số hiệu: | 31/2023/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 24/05/2023 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Nguyễn Thái M phạm tội trộm cắp tài sản |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN KỲ TỈNH NGHỆ AN ---------- Bản án số: 31/2023/HS-ST Ngày: 24-5-2023. |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc --------
|
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN KỲ, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 31/2023/HS-ST NGÀY 24/05/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 24 tháng 5 năm 2023, tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 31/2023/HSST, ngày 12/5/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2023/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An, đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Thái M; tên gọi khác: Không; sinh ngày: 28/9/1991 tại huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Xóm Q, xã K, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 09/12; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông: Nguyễn Thái H, sinh năm: 1964 và bà: Nguyễn Thị H, sinh năm: 1971; vợ, con: Chưa; tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Ngày 17/10/2011, bị UBND tỉnh Nghệ An quyết định đưa vào Cơ sở giáo dục tỉnh Nghệ An thời hạn 09 tháng, về hành vi “Trộm cắp tài sản”.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/4/2023. Hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An.
- Bị hại: Chị Trần Thị N, sinh năm: 1981. Trú tại: Thôn T, xã C, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh; có mặt.
Người có quyền lợi & nghĩa vụ liên quan: Cháu Ngô Hồng Nhật Q, sinh ngày 18/5/2009; người giám hộ cho cháu Ngô Hồng Nhật Q: bà Nguyễn Thị N, sinh năm: 1979; đều trú tại: Xóm T, xã N, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trước đó, Nguyễn Thái M có đến quán Game ở thị trấn Tân Kỳ, huyện Tân Kỳ thì gặp và quen biết với 02 (hai) người bạn cùng tham gia đánh Game (M không biết lai lịch, địa chỉ cụ thể của hai người này), quá trình chơi Game Nguyễn Thái M đã mượn số tiền: 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) nhưng không có tiền để trả nợ nên đã hẹn với hai người này đến ngày 08 hoặc ngày 09/4/2023 có đám cưới ở xóm Q, xã K, huyện Tân Kỳ thì lên chơi, Nguyễn Thái M sẽ lấy trộm điện thoại rồi đưa cho để xoá nợ. Đến 19 giờ 00 phút ngày 08/4/2023, khi Nguyễn Thái M đang phục vụ đám cưới họ nhà gái ở xóm Q, xã K, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An thì gặp 02 (hai) người bạn nêu trên nên hai người này hỏi “có tiền trả nợ chưa” thì Nguyễn Thái M trả lời: “Lên cầu Khe Su đợi, tau lên đám cưới nhà trai lấy trộm được cái máy điện thoại nào thì tau trả”. Đến khoảng 20 giờ 00 phút cùng ngày, Nguyễn Thái M đi bộ lên đám cưới họ trai là nhà anh Nguyễn Văn Truyền ở xóm T, xã N, huyện Tân Kỳ tìm điện thoại để lấy trộm. Tại đây, Nguyễn Thái M phát hiện chị Trần Thị N, đi từ ngoài nhà vào phòng anh Truyền có mang theo 01 (một) chiếc túi xách và 01 (một) chiếc điện thoại, một lúc sau chị N đi ra nên Nguyễn Thái M đã nảy sinh ý định lấy trộm chiếc điện thoại trên. Vì lo sợ tự bản thân vào lấy trộm điện thoại sẽ bị mọi người phát hiện nên Nguyễn Thái M đi ra cổng nhà anh Truyền thì gặp cháu Ngô Hồng Nhật Q, sinh ngày 18/5/2009, trú tại: Xóm T, xã N, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An nên Nguyễn Thái M gọi Q lại và nói: “Mi vô trong phòng chú Truyền lấy cho tau cái điện thoại của chị đó, tau đã mượn rồi” thì Q nói: “Anh mượn rồi thì vô mà lấy”, lúc đó M nói: “Mi vào trong lấy cho anh” thì Q đi vào nhà, còn Nguyễn Thái M đứng chờ ở ngoài cổng. Ngô Hồng Nhật Q đi vào phòng thì thấy có nhiều người đang ở trong phòng nên quay ra chờ một lát sau thấy những người này ra hết thì Q đi vào phòng thấy chiếc điện thoại Iphone loại XsMax có ốp lưng bằng nhựa, phía sau ốp lưng có để một chiếc lá khô đang để ở giường nên đã lấy trộm chiếc điện thoại này bỏ vào túi quần rồi đi ra cổng để đưa cho Nguyễn Thái M. Khi thấy Ngô Hồng Nhật Q đi ra thì Nguyễn Thái M hỏi “Có lấy được điện thoại không” thì Q đưa chiếc điện thoại ra, thấy vậy Nguyễn Thái M liền lấy chiếc điện thoại từ trên tay Q rồi rời khỏi đám cưới. Nguyễn Thái M đi bộ đến cầu Khe Su thuộc xã K, huyện Tân Kỳ thì gặp hai người bạn nêu trên đang đứng chờ ở đó nên Nguyễn Thái M lấy chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone loại XsMax có ốp lưng bằng nhựa, phía sau ốp lưng có để một chiếc lá khô vừa lấy trộm được đưa cho hai người đó rồi cả hai bên thống nhất “hết nợ”. Sau đó, Nguyễn Thái M đi bộ về nhà.
Sau khi phát hiện điện thoại của mình bị kẻ gian lấy trộm thì chị Trần Thị N đã đến Công an huyện Tân Kỳ trình báo sự việc. Tiếp nhận tin báo, Cơ quan CSĐT Công an huyện Tân Kỳ đã tiến hành xác minh. Đến ngày 09/4/2023, Cơ quan điều tra đã triệu tập cháu Ngô Hồng Nhật Q đến làm việc. Tại Cơ quan điều tra cháu Q đã khai nhận toàn bộ nội dung sự việc xảy ra tối ngày 08/4/2023 tại nhà anh Nguyễn Văn Truyền.
Căn cứ vào lời khai của bị hại và lời khai của cháu Ngô Hồng Nhật Q, Cơ quan CSĐT Công an huyện Tân Kỳ đã tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Nguyễn Thái M.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 10/HĐĐG-KLĐG ngày 12/4/2023 của Hội đồng định giá tài sản huyện Tân Kỳ kết luận: 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XsMax màu vàng, dung lương 64GB, điện thoại đã qua sử dụng có giá trị tại thời điểm bị chiếm đoạt là: 8.400.000 đồng (Tám triệu bốn trăm nghìn đồng).
Tại bản Cáo trạng số: 36/CT-VKS-TK ngày 10 tháng 5 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Kỳ đã truy tố bị cáo Nguyễn Thái M về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Kỳ vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm o khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Thái M mức án từ 12 đến 15 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ tạm giam ngày 9/4/2023.
Hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo phải bồi thường cho chị Trần Thị N trị giá chiếc điện thoại là 8.400.000 đồng (Tám triệu bốn trăm nghìn đồng).
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Bị cáo không tranh luận quan điểm đề nghị của Kiểm sát viên, bị cáo có lời nói sau cùng rất ân hận về hành vi phạm tội của mình, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1]. Về tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Kỳ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Kỳ, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS). Tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có ý kiến, khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Hội đồng xét xử xét thấy các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.
[2]. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Thái M đã khai nhận hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, đúng như nội dung của bản cáo trạng đã nêu và quy kết, không có khai nại gì khác. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, phù hợp với vật chứng, cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Như vậy, đã đầy đủ cơ sở kết luận:
Vào khoảng 20 giờ 00 phút ngày 08/4/2023 tại nhà anh Nguyễn Văn Truyền thuộc xóm T, xã N, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An lợi dụng sở hở của chủ tài sản là chị Trần Thị N, sinh năm: 1981, trú tại: Thôn T, xã C, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh nên Nguyễn Thái M đã xúi giục cháu Ngô Hồng Nhật Q (13 tuổi 10 tháng 20 ngày) lấy trộm 01 (một) chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone XS Max, có giá trị:
8.400.000 đồng (Tám triệu bốn trăm nghìn đồng).
Tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định:
“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Hành vi lén lút lấy trộm tài sản của người khác với tổng giá trị tài sản là 8.400.000 đồng (Tám triệu bốn trăm nghìn đồng) của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015 như Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3]. Vụ án có tính chất ít nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu về tài sản của người khác và làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương, bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, ý thức được tài sản của người khác là bất khả xâm phạm, nhưng do động cơ chiếm đoạt tài sản, bị cáo đã cố ý phạm tội và bất chấp hậu quả xảy ra, lợi dụng sự sơ hở của người chủ sở hữu tài sản rồi lén lút lấy trộm tài sản. Nguyễn Thái M là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của mình là trái pháp luật, nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện tội phạm. Vì vậy cần phải xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung là thật sự cần thiết.
[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội, đây là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tại phiên tòa bị hại chị Trần Thị N xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xét về nhân thân của bị cáo thấy rằng, trước khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo là người có nhân thân xấu, ngày 17/10/2011, bị cáo bị UBND tỉnh Nghệ An quyết định đưa vào Cơ sở giáo dục tỉnh Nghệ An thời hạn 09 tháng, về hành vi “Trộm cắp tài sản”, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà nay lại tiếp tục phạm tội. Vì vậy cần phải xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc, việc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian như đại diện Viện kiểm sát đề nghị nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung là thật sự cần thiết.
[5]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 BLHS năm 2015 quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Xét thấy, bị cáo nghề nghiệp lao động tự do, thu nhập thấp, không có tài sản riêng nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
[6]. Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa hôm nay bị hại chị Trần Thị N yêu cầu bị cáo bồi thường giá trị chiếc điện thoại bị chiếm đoạt là: 8.400.000 đồng (Tám triệu bốn trăm nghìn đồng).
[7]. Về vật chứng: Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XsMax màu vàng là tài sản của chị Trần Thị N đã bị chiếm đoạt, Cơ quan CSĐT Công an huyện Tân Kỳ đã điều tra truy thu vật chứng nhưng không có kết quả nên khi nào thu giữ được sẽ xử lý sau.
[8] Đối với Ngô Hồng Nhật Q có hành vi đồng phạm với Nguyễn Thái M nhưng tại thời điểm thực hiện hành vi trộm cắp tài sản Ngô Hồng Nhật Q mới chỉ 13 tuổi 10 tháng 20 ngày nên theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự thì chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Vì vậy, hành vi của Ngô Hồng Nhật Q không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Tân Kỳ đã giao Ngô Hồng Nhật Q cho gia đình và chính quyền địa phương quản lý, giáo dục theo đúng quy định pháp luật.
[9] Đối với 02 (hai) người đàn ông đã giúp Nguyễn Thái M cất giấu tài sản trộm cắp được (Theo lời khai của M). Quá trình điều tra Cơ quan CSĐT Công an huyện Tân Kỳ đã tiến hành xác minh nhưng không xác định được lai lịch, địa chỉ của hai người đàn ông này nên khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.
[10] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thái M phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH:
1. Tuyên bố bị cáo: Nguyễn Thái M phạm vào tội: “Trộm cắp tài sản”.
2. Về điều luật áp dụng: Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm o khoản 1 Điều 52; Điều 38 BLHS.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thái M 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo ngày 09/4/2023.
Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; các Điều 584, 585, 586, 589 Bộ luật dân sự năm 2015.
Buộc bị cáo phải bồi thường cho bị hại chị Trần Thị N số tiền: 8.400.000 đồng (Tám triệu bốn trăm nghìn đồng).
Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, người có quyền có đơn yêu cầu thi hành án, nếu chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền thì người phải thi hành án còn phải trả tiền lãi theo lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian, số tiền chậm trả tại thời điểm thanh toán.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án thực hiện theo quy định tạ Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.
4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a, điểm c khoản 1 Điều 23, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và 420.000 đồng tiền án phí dân dự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án này lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc niêm yết bản án.
Nơi nhận: - TAND tỉnh Nghệ An; - Sở Tư pháp; - Công an huyện Tân Kỳ; - VKSND huyện Tân Kỳ; - Chi cục THADS Tân Kỳ; - Bị cáo, Bị hại; - Người có QL&NVLQ; - UBND xã K; - Lưu hồ sơ vụ án. |
T.M/ HỘI ĐỒNG XÉT XỬ THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thị Thu Hương
|
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!