Bản án số 08/2024/HS-ST ngày 19-01-2024 của TAND huyện Phú Riềng (TAND tỉnh Bình Phước) về tội trộm cắp tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
08_2024_HS-ST_ BINH PHUOC
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
08_2024_HS-ST_ BINH PHUOC
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 08/2024/HS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 08/2024/HS-ST ngày 19-01-2024 của TAND huyện Phú Riềng (TAND tỉnh Bình Phước) về tội trộm cắp tài sản |
|---|---|
| Tội danh: | 173.Tội trộm cắp tài sản (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND huyện Phú Riềng (TAND tỉnh Bình Phước) |
| Số hiệu: | 08/2024/HS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 19/01/2024 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: | Vũ Viết P phạm tội trộm cắp tài sản |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN PHÚ RIỀNG Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TỈNH BÌNH PHƯỚC
Bản án số: 08/2024/HS-ST
Ngày: 19-01-2024
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ RIỀNG
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ toạ phiên tòa: Bà Đinh Thị Hải
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Nguyễn Sỹ Luận
Ông Đỗ Kim Giang
Thư ký ghi biên bản phiên tòa: Bà Vũ Thị Duyên – Thư ký Tòa án nhân
dân huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước tham
gia phiên tòa: Ông Bùi Quang Thế - Kiểm sát viên.
Ngày 19 tháng 01 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Riềng,
tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 100/2023/HSST ngày 01
tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo:
Họ và tên: Vũ Viết P Giới tính: Nam
Tên gọi khác: Không có
Sinh năm 1997 tại Bình Phước
HKTT và chỗ ở: Thôn 6, xã H, huyện P, tỉnh Bình Phước
Nghề ngH: Làm nông Trình độ học vấn: 1/12
Quốc tịch: Việt Nam Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không
Con ông Vũ Viết K – sinh năm 1976 và bà Nguyễn Thị B – sinh năm 1974
Vợ, con: Chưa có
T sự: Không
T án: 04
+ Ngày 30/9/2015, bị Toà án nhân dân huyện B, tỉnh Bình Phước xử phạt
09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 110/2015/HS-ST;
+ Ngày 09/9/2016, bị Toà án nhân dân huyện Pềng, tỉnh Bình Phước xử
phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp bản án số 110/2015/HS-ST
ngày 30/9/2015 của Toà án nhân dân huyện BMập, buộc phải chấp hành 19 tháng
tù theo Bản án số 77/2016/HS-ST. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 15/10/2017;
+ Ngày 29/8/2018, bị Toà án nhân dân huyện Đ xử phạt 02 năm tù về tội
“Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 37/2018/HS-ST. Châp hành xong hình phạt
ngày 29/02/2020;
2
+ Ngày 31/8/2020, bị Toà án nhân dân huyện Đ, tỉnh Bình Phước xử phạt
02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 49/2020/HS-ST.
Chấp hành xong hình phạt ngày 21/7/2022.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 11/8/2023, hiện bị tạm giam tại nhà
tạm giữ Công an huyện Phú Riềng. Có mặt tại phiên tòa.
* Người bị hại:
Bà Nguyễn Thị C – sinh năm: 1972. Vắng mặt
Địa chỉ: Thôn P, xã P, huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Nguyễn Bá H – sinh năm 1995. Vắng mặt
Địa chỉ: Thôn 7, xã H, huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước
2. Bà Phạm Thị T – sinh năm 1973. Có mặt
Địa chỉ: Thôn P, xã P, huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước
3. Bà Trần Thị T – sinh năm 1994. Có mặt
Địa chỉ: Thôn P, xã P, huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Vũ Viết P và Lương Hữu T, sinh năm: 1987; Cư trú: Thôn 7, xã H, huyện
Phú Riềng có mối quan hệ quen biết ngoài xã hội.
Khoảng 13 giờ ngày 11/8/2023, T rủ P đi trộm cắp tài sản thì P đồng ý
(bút lục: 104). P đưa xe mô tô Yamaha Exciter, biển số: 93P2 – 649. 24 của mình
để T điều khiển chở P từ xã H đến xã Phú Riềng mục đích trộm cắp tài sản. Khi đi
qua nhà bà Nguyễn Thị C tại thôn Phú Hưng, xã Phú Riềng, huyện Phú Riềng thì
cả hai phát hiện cửa cổng mở, bên trong sân nhà có 01 xe mô tô hiệu Honda, loại
Wave RSX, biển số: 93Y1-036.90 không ai trông coi nên T dừng xe lại gần đó,
đứng ngoài cảnh giới, còn P đi bộ vào dùng đoản phá khoá tự chế hình chữ T một
đầu hình lục giác (đã được T đưa trước đó) để bẻ ổ khoá nhưng phát hiện có tiếng
động nên chạy ra lên xe mô tô của T chở đi. Sau đó, T điều khiển xe chở P tiếp tục
quan sát nhà bà C nhưng không phát hiện thấy ai nên tiếp tục quay lại để P đi vào
nhà bà C dùng đoản phá khóa xe mô tô trên rồi dắt xe đi khoảng 02m định ngồi
lên xe thì hệ thống báo trộm của xe kêu lên nên ông Lê Kim Cc đối diện nhà bà C
phát hiện truy hô nên P bỏ xe lại chạy ra lên xe mô tô của T bỏ chạy. Cùng thời
điểm này, tổ tuần tra Công an xã Phú Riềng đang đi tuần tra nên đuổi theo P và T.
Khi đuổi đến đoạn đường ĐT741 hướng Phú Riềng đi xã Bù Nho thuộc thôn Phú
Thành, xã Phú Riềng thì T lao xe xuống mương nước bên tay phải theo chiều đi
của mình làm cả 02 bị ngã thì lực lượng công an khống chế bắt quả tang được P,
còn T bỏ chạy thoát.
Do P bị ngã xuống mương, bị thương tích nên Cơ quan Công an báo cáo
để lực lượng Cảnh sát giao thông khám nghiệm hiện trường.
Quá trình bắt quả tang thu giữ: 01 xe mô tô Wave RSX màu xám - đen
biển số 93Y1-036.90, qua kiểm tra ổ khoá bị hư không hoạt động được; 01 điện
thoại di động Nokia loại 105 màu đen, có dán mặt sau màu đen trắng; 01 cái nón
bảo hiểm màu xám có chữ nón sơn kiểu đã qua sử dụng; 01 cái áo khoác màu đen,
3
kiểu qua đã qua sử dụng; 01 cái quần jean ngắn màu trắng có chữ ZARA phía sau
quần đã qua sử dụng (bút lục 22, 23).
Quá trình khám nghiệm hiện trường thu giữ: 01 xe mô tô biển số: 93P2-
649.24; 01 áo khoác màu đen hiệu PLIALA; 01 bình xịt hơi cay quấn băng keo
đen và 01 đôi dép nhựa nhãn hiệu Bitis màu xanh -đỏ -trắng (42,43).
Thu giữ: 01 đoạn video ghi lại cảnh P thực hiện hành vi trộm chiếc xe mô
tô biển số: 93Y1-036.90 (đã được niêm phong) do bà Nguyễn Thị C giao nộp (bút
lục: 145).
Tại Kết luận định giá tài sản số 39/KL-HĐĐGTS ngày 17/8/2023 của Hội
đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện Phú Riềng kết luận: xe mô tô hiệu
Wave RSX màu xám - đen biển số 93Y1-036.90 vào thời điểm ngày 11/8/2023 có
giá trị là 23.400.000 đồng. (bút lục 61, 62).
Ngày 06/10/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Riềng
trưng cầu Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh giám định ADN
đối với các đồ vật thu tại hiện trường gồm: 01 áo khoác màu đen hiệu PUMA, 01
bình xịt hơi cay quấn băng keo màu đen, 01 đôi dép bằng nhựa nhãn hiệu Bitis
màu xanh - đỏ - trắng và 02 lót tay cầm bằng nhựa màu đen của xe mô tô Exciter
màu xám - đen - cam, BKS: 93P2 - 649.24, số khung RLCUG1010LY264549 số
máy G3D4E1035653 nhằm xác định có ADN của Lương Hữu T hay không.
Tại Bản kết luận giám định tạm thời số 6443/KL-KTHS, ngày 08/11/2023
của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:
Trên các mẫu vật gửi giám định có dính tế bào người. Phân tích được kiểu
gen không hoàn chỉnh do mẫu kém nên không truy nguyên được cá thể.
Lưu kiểu gen của Lương Hữu T (mẫu so sánh) tại Phân viện khoa học hình
sự tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Tại Bản cáo trạng số 99/CT-VKSPR ngày 30/11/2023 của Viện kiểm sát
nhân dân huyện Phú Riềng đã truy tố bị cáo Vũ Viết P về tội “Trộm cắp tài sản”
theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như trên và xin giảm nhẹ
hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề
nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng: Điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38;
Điều 50 Bộ luật hình sự:
Xử phạt bị cáo Vũ Viết P mức án từ 33 (ba mươi ba) tháng đến 39 (ba mươi
chín) tháng tù.
Ngoài ra còn đề nghị xử lý vật chứng.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ
vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ,
ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác;
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện
kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện
4
đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá
trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi,
quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các
hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người
bị hại; người làm chứng; biên bản khám nghiệm hiện trường, vật chứng của vụ án
và các tài liệu, chứng cứ khác được thẩm tra tại phiên tòa. Trên cơ sở đó đã xác
định được:
Do lười lao động muốn có T tiêu xài cá nhân nên khoảng 13 giờ 00 phút
ngày 11/8/2023, Vũ Viết P và đồng phạm đã lén lút chiếm đoạt của bà Nguyễn
Thị C 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave RSX màu xám - đen biển số 93Y1-036.90 có
giá trị 23.400.000 đồng tại thôn Phú Hưng, xã Phú Riềng, huyện Phú Riềng, tỉnh
Bình Phước.
Hành vi của bị cáo thực hiện đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm
và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm
phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh
hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa P và hoang mang trong quần chúng nhân dân.
Vì vậy, cần xử phạt bị cáo nghiêm khắc để giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng
ngừa C trong xã hội.
[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
* Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:
Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
* Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo về
hành vi phạm tội của mình; tài sản đã được thu hồi và trả lại cho người bị hại. Do
đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2
Điều 51 Bộ luật hình sự.
Tuy nhiên, bị cáo là đối tượng có nhân thân xấu: Ngày 30/9/2015, bị Toà án
nhân dân huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm
cắp tài sản”; Ngày 09/9/2016, bị Toà án nhân dân huyện Phú Riềng, tỉnh Bình
Phước xử phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp bản án
số110/2015/HS-ST ngày 30/9/2015 của Toà án nhân dân huyện Bù Gia Mập, buộc
bị cáo phải chấp hành 19 tháng tù. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 15/10/2017;
Ngày 29/8/2018, bị Toà án nhân dân huyện Đồng Phú xử phạt 02 năm tù về tội
“Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt ngày 29/02/2020; Ngày 31/8/2020,
bị Toà án nhân dân huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước xử phạt 02 năm 06 tháng tù
về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt ngày 21/7/2022. Ngày
11/8/2023, bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp chiếc xe mô tô nhãn hiệu
Wave RSX màu xám - đen biển số: 93Y1-036.90 của bà Nguyễn Thị C. Mặc dù
giá trị chiếc xe 23.400.000 đồng nhưng lần phạm tội này của bị cáo thuộc tình tiết
“Tái phạm nguy hiểm” nên bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Riềng
truy tố theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội,
5
đúng pháp luật. Do đó, cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc để giáo dục riêng
đối với bị cáo và phòng ngừa C trong xã hội.
Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về
mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội
của bị cáo nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4]. Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề ngH, thu nhập ổn
định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt T đối với bị cáo.
[5] Về xử lý vật chứng:
Đối với 01 nón bảo hiểm màu xám có chữ “nón sơn” kiểu đã qua sử dụng;
01 cái áo khoác màu đen, kiểu qua đã qua sử dụng; 01 quần jean ngắn màu trắng
có chữ ZARA phía sau quần và 01 đôi dép nhựa nhãn hiệu Bitis màu xanh -đỏ -
trắng. Đây là trang phục mà bị cáo mặc trên người khi thực hiện hành vi phạm tội,
do không còn giá trị sử dụng và bị cáo cũng không yêu cầu nhận lại nên tịch thu
tiêu hủy.
Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu đen, quá trình
điều tra, chứng minh được đây là tài sản hợp pháp của bị cáo không liên quan đến
vụ án nên cần trả lại cho bị cáo.
Đối với 01 USB quay lại cảnh bị cáo thực hiện hành vi trộm chiếc xe mô tô
biển số: 93Y1-036.90 đã được đánh số bút lục có tại hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét
xử không xem xét giải quyết.
Đối với 01 bình xịt hơi cay quấn băng keo màu đen, bị cáo khai do T mang
theo để làm công cụ chống trả khi bị truy bắt, là công cụ, P tiện phạm tội nên cần
tịch thu tiêu hủy.
Đối với xe mô tô biển số 93Y1-036.90, quá trình điều tra chứng minh được
đây là tài sản hợp pháp của người bị hại Nguyễn Thị C nên ngày 24/8/2023, Cơ
quan CSĐT Công an huyện Phú Riềng xử lý vật chứng trả lại cho bà C (bút lục
163) là phù hợp quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét giải
quyết.
Đối với xe mô tô biển số 93P2.649.24. Qua tra cứu chiếc xe này có biển số
93P2-609.55 mang tên Nguyễn Văn Tùng, sau đó bán lại cho ông Nguyễn Bá H.
Ngày 11/8/2023, bị cáo mượn xe mô tô trên của H đi chơi sau đó sử dụng vào việc
phạm tội, ông H không biết nên cần trả lại xe cho H. Đối với biển số xe 93P2
649.24 là vật chứng trong vụ án do Công an xã Đồng Tâm, huyện Đồng Phú thụ
lý, cơ quan điều tra Công an huyện Phú Riềng đã chuyển cho Công an xã Đồng
Tâm, huyện Đồng Phú để xử lý theo thẩm quyền nên Hội đồng xét xử không xem
xét, giải quyết.
[6] Về trách nhiệm dân sự:
Người bị hại bà Nguyễn Thị C đã nhận lại xe mô tô và không có yêu cầu gì
nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[7]. Đối với Lương Hữu T, trong quá trình điều tra, T không thừa nhận thực
hiện hành vi phạm tội cùng với bị cáo P. Do chỉ có lời khai duy nhất của bị cáo,
ngoài ra không có nhân chứng cũng như chứng cứ nào khác xác định T tham gia
trộm cắp tài sản với P. Do đó, Cơ quan CSĐT Công an huyện Phú Riềng tách ra,
6
tiếp tục điều tra, xác minh xử lý sau nên Hội đồng xét xử không xem xét giải
quyết.
[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp
luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Tuyên bố bị cáo Vũ Viết P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng: Điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều
51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015:
Xử phạt bị cáo Vũ Viết P 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù.Thời hạn tù tính
từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 11/8/2023.
2. Về xử lý vật chứng:
Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu, tiêu huỷ: 01 nón bảo hiểm màu xám có chữ “nón sơn” kiểu đã qua
sử dụng; 01 cái áo khoác màu đen, kiểu qua đã qua sử dụng; 01 quần jean ngắn
màu trắng có chữ ZARA phía sau quần và 01 đôi dép nhựa nhãn hiệu Bitis màu
xanh -đỏ -trắng; 01 bình xịt hơi cay quấn băng keo màu đen.
Trả lại bị cáo Vũ Viết P 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu
đen. Trả lại ông Nguyễn Bá H 01 xe mô tô Yamaha Exciter màu xám đen cam số
khung RCUG1010LY264549, số máy G3D4E1035635.
(Theo Biên bản giao nhận vật chứng số 0011930 ngày 04/12/2023 giữa
Công an huyện Phú Riềng và Chi cục thi hành án dân sự huyện Phú Riềng).
3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết về án
phí, lệ phí: Buộc bị cáo Vũ Viết P phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án
phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo; Người bị hại có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án này
trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND, VKSND tỉnh Bình Phước; Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa
- VKSND huyện Phú Riềng;
- Chi cục THADS huyện Phú Riềng;
- CA huyện Phú Riềng;
- Sở Tư pháp tỉnh Bình Phước;
- Bị cáo; Người tham gia tố tụng;
- Lưu.
Đinh Thị Hải
7
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 12/04/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 10/04/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 26/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 19/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 06/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 05/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 31/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 30/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 24/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 19/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 16/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 09/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 05/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 03/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 29/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 28/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 28/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 27/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 20/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm