Bản án số 02/2024/HS-ST ngày 16-01-2024 của TAND huyện Lý Sơn (TAND tỉnh Quảng Ngãi) về về tội trộm cắp tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
02-2024-HS-ST-LY-SON-QUANG-NGAI
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
02-2024-HS-ST-LY-SON-QUANG-NGAI
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 02/2024/HS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 02/2024/HS-ST ngày 16-01-2024 của TAND huyện Lý Sơn (TAND tỉnh Quảng Ngãi) về về tội trộm cắp tài sản |
|---|---|
| Tội danh: | 173.Tội trộm cắp tài sản (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND huyện Lý Sơn (TAND tỉnh Quảng Ngãi) |
| Số hiệu: | 02/2024/HS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 16/01/2024 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: | Lê Văn C phạm tội trộm cắp tài sản |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN LÝ SƠN
TỈNH QUẢNG NGÃI
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 02/2024/HS-ST
Ngày: 16-01-2024
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÝ SƠN, TỈNH QUẢNG NGÃI
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Nguyễn Văn Thu;
Các Hội thẩm nhân dân: 1. Ông Lê Văn Đôi;
2. Bà Nguyễn Thị Thu Mai.
Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Ông Nguyễn Hoàng Thịnh – Thư ký
Tòa án nhân dân huyện Lý Sơn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi tham gia
phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Cường và ông Nguyễn Tấn Lộc – Kiểm sát viên.
Ngày 16 tháng 01 năm 2024, tại Tòa án nhân dân huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng
Ngãi, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm
thụ lý số:
09/2023/TLST-HS ngày 11 tháng 12 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử
số: 01/2024/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:
Họ tên: Lê Văn C, sinh ngày 05/03/1984, nơi sinh: Thanh Hóa; Nơi thường
trú: Thôn A, xã Giao A, huyện Lang C, tỉnh Thanh Hóa; Nơi tạm trú: Thôn Tây An
V, huyện Lý S, tỉnh Quảng Ngãi; Nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 12/12;
dân tộc: Mường; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông:
Lê Văn H và con bà Lê Thị N (chết); Vợ: Phạm Thị T, sinh năm: 1984; có 02 người
con, con lớn nhất sinh năm 2013, con nhỏ nhất sinh năm 2020; tiền án, tiền sự:
Không;
Nhân thân: Ngày 12/5/2021, bị cáo bị Công an xã Giao An, huyện Lang C
xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi Đánh bạc, bị cáo đã
thi hành xong Quyết định này ngày 20/5/2021.
Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 05/09/2023
cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.
- Người bào chữa cho bị cáo Chinh: Ông Bùi Minh N, Trợ giúp viên pháp lý
của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Quảng Ngãi.
Địa chỉ: 63 Phan Đình P, thành phố Quảng N, tỉnh Quảng Ngãi.
2
- Bị hại: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xây dựng và Thương mại Thái T (viết
tắt là Công ty TNHH XD và TM Thái T); địa chỉ trụ sở: Số 630 lô 22 đường Lê
Hồng Phong, phường Đông Khê, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng; Người
đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Đắc K, sinh năm 1978 - Giám đốc; địa chỉ:
Số 630 lô 22 đường Lê Hồng Phong, phường Đông K, quận Ngô Quyền, thành phố
Hải Phòng; Người đại diện theo ủy quyền: Anh Trần Hữu H, sinh năm 1981; nơi
cư trú: Thôn Hu Trì, xã Vĩnh Quang, huyện Vĩnh B, thành phố Hải Phòng; nơi tạm
trú: Thôn Đông An H, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi (theo văn bản ủy quyền
ngày 20/3/2023), (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Ông Nguyễn Thanh T, sinh năm 1973; Nơi cư trú: Thôn Tây An V, huyện Lý
S, tỉnh Quảng Ngãi, (có mặt).
Anh Nguyễn Phúc Đ, sinh năm 1981; Nơi cư trú: Thôn Tây An V, huyện Lý
S, tỉnh Quảng Ngãi, (có mặt).
Anh Trần H, sinh năm 1986; Nơi cư trú: Số 272 đường Hoàng Hoa T, thành
phố Quảng N, tỉnh Quảng Ngãi, (vắng mặt).
- Người làm chứng:
Anh Võ Văn P, sinh năm 1992; Nơi cư trú: Thôn Đông An V, huyện Lý S,
tỉnh Quảng Ngãi, (có mặt).
Anh Phạm Công T, sinh năm 1992; Nơi cư trú: Thôn Đông An H, huyện Lý
S, tỉnh Quảng Ngãi, (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ
án được tóm tắt như sau:
Vào sáng ngày 15/3/2023, Lê Văn C phát hiện tại bãi vật tư thi công của
Công ty TNHH XD và TM Thái T thuộc khu vực Vũng neo đậu tàu thuyền Lý Sơn
(ở thôn Đông An H, huyện Lý S) có 03 thanh sắt H300, H350, H400 (đã bị cong
vênh trong quá trình sử dụng) không có người quản lý, trông coi nên nảy sinh ý
định cắt 03 thanh sắt trên để bán lấy tiền tiêu xài. Lê Văn C sử dụng điện thoại gọi
Nguyễn Thanh T làm nghề mua bán phế liệu ở huyện Lý Sơn có sắt phế liệu cần
bán cho ông T và nhờ ông T chở bộ cắt gió đá (cắt khí gas) của ông T đến để C
mượn cắt số sắt phế liệu này; ông T đồng ý và chở bộ cắt gió đá đến bãi vật tư thi
công của Công ty TNHH XD và TM Thái T cho C mượn. Khi có bộ cắt gió đá,
một mình C sử dụng bộ cắt gió đá này cắt 03 thanh sắt H300, H350, H400 thành
06 đoạn dài, ngắn khác nhau; sau khi cắt xong, C liên lạc với ông T để bán số sắt
mà C đã cắt ra.
Đến khoảng hơn 17 giờ cùng ngày, ông T cùng Võ Văn P là người lái xe tải
cho ông T, điều khiển xe ô tô mang biển kiểm soát 76C-148.17 đến bãi vật tư thi
công của Công ty TNHH XD và TM Thái T để mua số sắt nói trên. Tại đây, bị cáo
C nói với ông T số sắt này là sắt phế liệu nên C bán cho ông T để kiếm tiền đi chợ

3
cho anh em công nhân. Ông T tin vào nội dung mà C nói nên đã thỏa thuận với C
giá thu mua sắt là 5.000 đồng/01 kilogam; sau khi thoả thuận giá xong thì ông T và
ông P dùng cần cẩu trên xe ô tô và cân để cân 06 đoạn sắt chữ H và bỏ lên xe ô tô,
tổng trọng lượng 06 đoạn sắt chữ H là 03 tấn (3.000 kilogam). Ông T đưa cho bị
cáo C số tiền 15.000.000 đồng (mười lăm triệu đồng) rồi vận chuyển số sắt trên
đến khu vực Cảng phía trước Trạm xăng dầu Nhiên P (thuộc Vũng neo đậu tàu
thuyền Lý Sơn ở thôn Đông An H, huyện Lý S) để hôm sau vận chuyển vào thành
phố Quảng Ngãi bán lại cho ông Trần H.
Đến ngày 16/3/2023, khi ông T chưa chuyển số sắt nói trên vào thành phố
Quảng Ngãi, ông Nguyễn Phúc Đ là chủ Cơ sở nhôm sắt tại Vũng neo đậu tàu
thuyền Lý Sơn đến nơi tập kết sắt của ông T ở Cảng thì nhìn thấy 01 đoạn sắt hình
chữ H còn sử dụng được nên đã liên lạc và thỏa thuận với ông T là lấy 01 đoạn sắt
hình chữ H này để làm và trả lại cho ông T 500 kilôgam sắt phế liệu; ông T đồng ý.
Sau đó, ông Đ vận chuyển đoạn sắt hình chữ H này về Cơ sở nhôm sắt của mình và
cắt thành 03 miếng hình chữ nhật. Còn lại 05 thanh sắt hình chữ H thì ông T vận
chuyển vào thành phố Quảng Ngãi bán cho ông Trần H.
Ngày 21/3/2023, ông Phạm Công T là Chỉ huy trưởng công trình thuộc Xí
nghiệp xây lắp 54 trực thuộc Tổng Công ty Thành A tại thôn Đông An H, huyện
Lý S phát hiện tại bãi vật tư thi công của Công ty TNHH XD và TM Thái T bị
người khác lấy trộm sắt và phát hiện tại Cơ sở nhôm sắt của ông Nguyễn Phúc Đ
có 03 thanh sắt của Công ty TNHH XD và TM Thái T nên đã trình báo Công an
huyện Lý Sơn.
Ngày 05/7/2023, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lý Sơn có yêu
cầu định giá tài sản số 06/YCĐG, yêu cầu định giá đối với:
- 01 (một) thanh sắt dài 3,74m, rộng 40cm, dày 2cm (ký hiệu số 1); 01 (một)
thanh sắt dài 3,72m, rộng 34cm, dày 1,5cm (ký hiệu số 2); 01 (một) thanh sắt dài
3,70m, rộng 40cm, dày 2cm (ký hiệu số 3).
- 03 (ba) tấn sắt là H300, H350, H400.
Ngày 12/7/2023, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lý
Sơn có Kết luận định giá tài sản số 02/KL-ĐGTS kết luận:
- 03 (ba) thanh sắt bằng kim loại nêu trên, có trọng lượng là 560 kilogam với
giá bán phế liệu theo đơn giá 6.650 đồng/01 kilogam: 6.650 đồng x 560 kilogam =
3.724.000 đồng.
- Tổng 03 tấn sắt: 6.650 đồng x 3.000 kilogam = 19.950.000 đồng.
Tổng trị giá tài sản tại thời điểm mất: 19.950.000 đồng (mười chín triệu chín
trăm năm mươi nghìn đồng).
Tại phiên tòa, bị cáo cũng đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội trộm cắp tài
sản của mình vào ngày 15/3/2023. Mục đích trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài
cá nhân. Bị cáo không khiếu nại gì về kết luận giám định, các quyết định cũng như
các hành vi của cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Sơn cũng như
của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đối với vụ án.
4
* Về việc thu giữ, tạm giữ vật chứng
- Số tiền 15.000.000 đồng (mười lăm triệu đồng), đây là tiền mà bị cáo bán
số sắt trên mà có và đã tự nguyện khắc phục hậu quả cho bị hại, nên cơ quan Cảnh
sát điều tra đã giao trả lại cho bị hại là Công ty TNHH XD và TM Thái T.
- 03 (ba) thanh sắt gồm: 01 (một) thanh sắt dài 3,74m, rộng 40cm, dày 2cm
(ký hiệu số 1); 01 (một) thanh sắt dài 3,72m, rộng 34cm, dày 1,5cm (ký hiệu số 2);
01 (một) thanh sắt dài 3,70m, rộng 40cm, dày 2cm (ký hiệu số 3), đây là số sắt mà
bị cáo C lấy trộm của Công ty TNHH XD và TM Thái T, đã trả lại cho Công ty.
- Đối với bộ cắt gió đá (cắt khí gas): Là công cụ bị can dùng để cắt số sắt mà
bị can trộm cắp. Qua điều tra, công cụ này là bị cáo mượn của ông Nguyễn Thanh
T và ông T không biết số sắt mà bị cáo mượn bộ cắt gió đá (cắt khí gas) để cắt là
tài sản do bị cáo trộm cắp mà có nên cơ quan Cảnh sát điều tra không thu giữ bộ
cắt gió đá này là phù hợp.
- Đối với xe ô tô biển kiểm soát 76C-148.17 do ông Nguyễn Thanh T đứng
chủ sở hữu, là xe vận chuyển sắt do bị cáo trộm cắp được mà có. Tuy nhiên, khi
mua mua số sắt trên ông T không biết số sắt đó do bị cáo trộm cắp có được. nên cơ
quan Cảnh sát điều tra không thu giữ xe ô tô trên là phù hợp quy định pháp luật.
Tại bản cáo trạng số 01/CT-VKS ngày 18/12/2023, Viện kiểm sát nhân dân
huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi truy tố bị cáo Lê Văn C về tội “Trộm cắp tài sản”
theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Sơn vẫn giữ nguyên
quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lê Văn C phạm tội
“Trộm cắp tài sản”.
Về hình phạt: Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173; Điểm b, i, s khoản 1, khoản
2 Điều 51; Điều 38, Điều 65 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Lê Văn C từ 01 năm
đến 01 năm 06 tháng tù cho hưởng án treo.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về dân sự trong vụ án: Tổng trị giá tài sản tại thời điểm mất là: 19.950.000
đồng, Công ty TNHH XD và TM Thái T đã nhận số tiền 15.000.000 đồng mà bị
cáo khắc phục hậu quả và 03 thanh sắt (ký hiệu số 01, 02, 03) trị giá 3.724.000
đồng, tổng tài sản nhận được là 18.724.000 đồng (mười tám triệu bảy trăm hai
mươi bốn nghìn đồng). Công ty TNHH XD và TM Thái T không có yêu cầu gì về
số tiền 1.226.000 đồng chưa được bồi thường, nên đề nghị Hội đồng xét xử không
xem xét.
Về xử lý vật chứng: Đã trao trả cho chủ sở hữu tài sản nên không đề nghị xem
xét.
Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử xét miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm cho
bị cáo.
Quan điểm của Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo: Đề nghị Hội đồng
xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Điều 38,

5
Điều 65 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 09 tháng đến 12 tháng tù cho hưởng án
treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết
định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lý Sơn, Điều tra viên,
Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy
tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà, bị cáo, người bị hại và những
người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Theo đó, các hành vi, quyết định
tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều
hợp pháp.
[1.2] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Trần H và người làm chứng
anh Phạm Công T vắng mặt tại phiên toà lần thứ nhất không có lý do. Tuy nhiên,
trong quá trình điều tra, truy tố đã có bản khai của những người này, nếu cần thiết
sẽ công bố lời khai của họ. Do đó, việc vắng mặt của anh Trần H và anh Phạm
Công T không ảnh hưởng đến việc xét xử đối với bị cáo. Vì vậy, Hội đồng xét xử
tiếp tục xét xử vắng mặt họ theo quy định tại Điều 292, 293 Bộ luật Tố tụng hình
sự.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo Lê Văn C: Bị cáo là công dân có sức khỏe
tốt, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc trộm cắp tài sản
của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng chỉ vì mong muốn có tiền để tiêu xài
cá nhân nên bị cáo lợi dụng sơ hở trong quản lý tài sản của chủ sở hữu tài sản
(công ty Thái T), lén lút thực hiện hành vi trộm cắp tài sản với tổng giá trị là
19.950.000 đồng. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo C đã thừa nhận
hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ
vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Lê Văn C đã phạm
tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Vì vậy,
Viện Kiểm sát nhân dân huyện Lý Sơn truy tố bị cáo Lê Văn C về tội “Trộm cắp
tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội
và đúng pháp luật.
[3] Về tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo và tình thiết
tăng năng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
[3.1] Hành vi phạm tội của bị cáo C là nguy hiểm cho xã hội không những
xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật hình sự bảo vệ
mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương, nên cần phải
xử lý nghiêm để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy
nhiên, xét về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay

6
bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít
nghiêm trọng; bị cáo đã khắc phục hậu quả với số tiền 15.000.000 đồng và bị hại
có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Ngoài ra, bị cáo có cha ruột là ông Lê
Văn H được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì. Đây là các
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2
Điều 51 Bộ luật hình sự nên cần xem xét áp dụng cho bị cáo khi lượng hình.
[3.2] Xét thấy bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trước
đó bị cáo đã bị xử phạt vi phạm hành chính nhưng đã hết thời gian được coi là
chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, đến ngày phạm tội lần này đã quá 06 tháng; bị
cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; có 3 tình tiết giảm nhẹ quy định tại
khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự và có nơi cư trú rõ ràng; trong giai đoạn điều tra,
truy tố, xét xử đang áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú bị cáo vẫn chấp hành
tốt, không vi phạm pháp luật; nhận thấy bị cáo có khả năng tự cải tạo tốt và việc
cho hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội. Từ những nhận định trên, bị
cáo Lê Văn C có đủ các điều kiện để được hưởng án treo theo quy định tại Điều
2 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo và
Điều 1 Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân Tối cao sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số
02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo.
[4] Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[4.1] Đối với ông Nguyễn Thanh T: Là người cho bị cáo mượn bộ cắt gió đá
(cắt khí gas) và mua số sắt mà bị cáo trộm cắp có được. Tuy nhiên, ông T không
biết bị cáo mượn bộ cắt gió đá này để làm công cụ phục vụ việc trộm cắp tài sản và
không biết số sắt mà bị cáo bán cho ông T là tài sản do trộm cắp mà có nên cơ
quan Cảnh sát điều tra không xử lý ông T là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.
[4.2] Đối với anh Võ Văn P: Là người điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 76C-
148.17 cùng ông Nguyễn Thanh T đi mua số sắt mà bị cáo trộm cắp có được. Tuy
nhiên, anh P không biết số sắt mà ông T mua của bị cáo là tài sản do trộm cắp mà
có nên cơ quan Cảnh sát điều tra không xử lý anh P là có căn cứ.
[4.3] Đối với anh Nguyễn Phúc Đ: Là người đổi 01 đoạn sắt hình chữ H từ
ông T. Tuy nhiên, anh Đ không biết đoạn sắt này là ông T mua của bị cáo, là tài
sản do trộm cắp mà có nên cơ quan Cảnh sát điều tra không xử lý anh Đ là có căn
cứ, đúng quy định pháp luật.
[4.4] Đối với anh Trần H: Là người mua 05 đoạn sắt hình chữ H từ ông
Nguyễn Thanh T. Tuy nhiên, anh H không biết số sắt nói trên là ông T mua của bị
cáo do trộm cắp mà có nên cơ quan Cảnh sát điều tra không xử lý anh H là có căn
cứ.
[5] Về trách nhiệm dân sự:
[5.1] Tổng trị giá tài sản bị xâm hại là: 19.950.000 đồng; bị hại (Công ty
TNHH XD và TM Thái T) đã nhận số tiền 15.000.000 đồng mà bị cáo khắc phục

7
hậu quả và 03 thanh sắt (ký hiệu số 01, 02, 03) trị giá 3.724.000 đồng, tổng tài sản
bị hại nhận được là 18.724.000 đồng. Bị hại không có yêu cầu bị cáo bồi thường số
tiền còn lại 1.226.000 đồng nên Hội đồng xét xử không xét.
[5.2] Ông Nguyễn Thanh T không có yêu cầu gì về dân sự của 01 đoạn sắt
hình chữ H (được cắt thành 03 thanh sắt ký hiệu 01, 02, 03) đã bị cơ quan Cảnh sát
điều tra thu giữ nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về xử lý vật chứng vụ án: Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra đã
thu giữ và trả lại toàn bộ tài sản cho bị hại và không ai có ý kiến hay khiếu nại gì
nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Sơn phù hợp với
nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[10] Đề nghị của Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo C về mức hình
phạt là chưa phù hợp nên không được chấp nhận.
[8] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo Lê Văn C có đơn xin miễn nộp tiền án phí và
có xác nhận của địa phương là gia đình thuộc hộ cận nghèo. Do đó, theo quy định
tại điểm đ, khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội thì bị cáo thuộc trường hợp được miễn
nộp tiền án phí. Căn cứ các Điều 12, 14, 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng xét xử xét miễn nộp
tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lê Văn C.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, 65
Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Lê Văn C 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù cho hưởng án treo;
thời gian thử thách 03 (ba) năm kể từ ngày tuyên án (16/01/2024).
Giao bị cáo Lê Văn C cho Ủy ban nhân dân xã Giao An, huyện Lang Chánh,
tỉnh Thanh Hóa giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92
Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ
02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải
chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Về hình phạt bổ sung: Không
Về trách nhiệm dân sự: Không có.
Về xử lý vật chứng: Không có.

8
Về án phí: Áp dụng điểm đ, khoản 1 Điều 12, Điều 14, 15 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội
đồng xét xử xét miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lê Văn C.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày
tuyên án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng
cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án
theo quy định của pháp luật.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Quảng Ngãi;
- VKSND tỉnh Quảng Ngãi;
- Sở Tư pháp tỉnh Quảng Ngãi
- VKSND huyện Lý Sơn;
- Chi cục THA DS huyện Lý Sơn;
- Công an huyện Lý Sơn
(Đội điều tra, Bộ phận NVHS, Cơ quan THAHS);
- UBND xã Giao An, H. Lang Chánh;
- Bị cáo; Đương sự;
- Lưu: Hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa
(đã ký)
Nguyễn Văn Thu
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 12/04/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 10/04/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 26/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 19/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 06/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 05/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 31/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 30/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 24/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 19/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 19/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 09/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 05/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 03/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 29/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 28/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 28/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 27/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 20/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm