Bản án số 88/2023/HS-ST ngày 29-12-2023 của TAND huyện Chợ Mới (TAND tỉnh An Giang) về tội trộm cắp tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 88/2023/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 88/2023/HS-ST ngày 29-12-2023 của TAND huyện Chợ Mới (TAND tỉnh An Giang) về tội trộm cắp tài sản
Tội danh: 173.Tội trộm cắp tài sản (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Chợ Mới (TAND tỉnh An Giang)
Số hiệu: 88/2023/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 29/12/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Huỳnh Văn L phạm tội Trộm cắp tài sản
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Huy Phong
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Nguyễn Văn Trí
2. Nguyễn Thị Ly
- Thư phiên tòa: Tường Vi - Thư Tòa án.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang tham
gia phiên tòa: Ông Tôn Văn Xuyên - Kiểm sát viên.
Ngày 29 tháng 12 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới,
tỉnh An Giang t x thẩm ng khai vụ án nh s thm th số:
98/2022/TLST-HS ngày 23 tháng 11 m 2023 theo Quyết định đưa v án ra xét x
số: 91/2023/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 12 năm 2022 đối với bị cáo:
Huỳnh Văn L, sinh năm 1977; nơi sinh: tỉnh An Giang; nơi trú: ấp B,
X, huyện C, tỉnh An Giang; chổ ở: ấp Đ, M, huyện C, tỉnh An Giang; nghề
nghiệp: làm rẫy; Trình đ học vấn: 4/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn
giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Huỳnh Văn A, sinh năm 1939
Thị L1, sinh năm 1943; Bị cáo vợ Đặng Thị T, sinh năm 1969; 02
con, lớn sinh năm 2001, nhỏ sinh năm 2005.Nhân thân: Ngày 11/9/1995, bị Tòa
án nhân dân huyện C, tỉnh An Giang, xử phạt 01 năm (một năm), về tội
“Trộm tài sản của công dân”, chấp hành xong ngày 29/01/1996, tại thời điểm
phạm tội L người chưa thành niên.
Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/9/2023
đến nay. Bị cáo mặt tại phiên tòa.
Bị hại: Nguyễn Văn L1, sinh năm 1975; địa chỉ: ấp B, X, huyện C, tỉnh
An Giang, (vắng mặt).
Người làm chứng:
- Ông Thành S, sinh năm 1968; địa chỉ: ấp A, An T, huyện C, tỉnh
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN CHỢ MỚI
TỈNH AN GIANG
CỘNG HÒA HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 88/2023/HS-ST
Ngày: 29-12-2023
2
An Giang, (vắng mặt).
- Ông Nguyễn Trọng N, sinh năm 2001; địa chỉ: ấp B, X, huyện C, tỉnh
An Giang, (vắng mặt).
- Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 2001; địa chỉ: p B, X, huyện C, tỉnh
An Giang, (vắng mặt).
- Đặng Thị T, sinh năm 1969; địa chỉ: ấp T, M, huyện C, tỉnh An
Giang, (vắng mặt).
- Lê Thanh Th, sinh năm 1977; địa chỉ: khóm A, thị trấn H, huyện C,
tỉnh An Giang, (vắng mặt).
- Phan Thị V, sinh năm 1968; địa chỉ: ấp T, M, huyện C, tỉnh An
Giang, (vắng mặt).
- Nguyễn Kim C, sinh năm 1967; địa chỉ: ấp A, T, huyện C, tỉnh An
Giang, (vắng mặt).
- Ông Phan Thanh H1, sinh năm 1969; địa chỉ: ấp B, M, huyện C, tỉnh
An Giang, (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu trong hồ vụ án diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 16 giờ ngày 07/10/2018, Huỳnh Văn L gọi điện thoại rủ Phan
Văn P đi trộm xoài của người khác hẹn gặp tại n ba C, thuc M, huyện
C, thì P đồng ý. L điều khiển xe biển số 67L5-2649, trên xe gắn thanh
gỗ trên yên dùng để chở xoài đem theo 05 giỏ xách bằng nhựa, 03 sợi dây
băng đến quán cà phê tại ngã ba C. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, L gọi điện
thoại rủ thêm Bùi Minh S (S.E) cùng đi trộm xoài, thì S đồng ý. Đến khoảng 18
giờ 30 phút cùng ngày, P điều khiển xe (không biển số), S điều khiển
xe biển số 67K3-0689, cả ba cùng đến ờn xoài của Thành S tại ấp A,
T, cùng hái trộm xoài. Sau khoảng 30 phút, Thành S được Khúc Văn S,
người gần vườn xoài của Thành S cho biết nhóm người điều khiển 03 xe
đến gần vườn xoài của Thành S nghi hái trộm xoài, nhưng do Thành S đã
bán xoài cho Nguyễn Văn L1 nên Thành S điện thoại cho L1 biết, nên L1,
Thành S, Nguyễn Trọng N (con ruột của L1) đến vườn xoài kiểm tra, thì phát
hiện người trộm xoài nên tri hô, t tất cả chạy thoát. Sau đó, Thành S trình
báo Công an T. Ngày 15/9/2023, L đến Công an M đầu thú.
Quá trình điều tra thu giữ vật chứng thu giữ và xử lý:160kg xoài Đ.L, đã
trả lại cho Nguyễn Văn L1; 01 xe tô, loại xe Wave Trung Quốc, màu đỏ,
biển số 67L5-2649 (số khung 002180, số máy 002180), đã qua sử dụng; 01 xe
tô, màu đỏ, loại xe Wave Trung Quốc, biển số 67K3-0689 (số khung 019114,
số máy 00019114), đã qua s dụng; 01 cái bóp màu đen, đã qua sử dụng; 01
điện thoại di động, hiệu Mastel, màu xanh, đã qua sử dụng; 01 Giấy chứng nhận
3
đăng xe tô, xe máy biển số 67K3-0689, tên Phạm Thị N; 01 Giấy phép lái
xe hạng A1, tên Bùi Minh S; 01 đôi dép lào màu xanh cây, đã qua sử dụng.
Riêng, 05 giỏ xách bằng nhựa, 03 sợi dây băng; 01 thanh gỗ dài 01m, 01 miếng
gỗ tự chế dùng để chở hàng hóa; 01 quần jean lửng, màu xanh; 01 thắt lưng màu
nâu; 01 áo thun ngắn tay, màu xanh, cổ áo màu xám, đều đã qua sử dụng, do
thời gian thu giữ đã lâu, nên bị hỏng.
Tại Kết luận định g tài sản s 25/KL-HĐĐG ngày 26/11/2018 của Hội
đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Chợ Mới: 160kg xoài Đài
Loan bao vàng, loại I, trị giá 7.200.000 đồng. (Tại bút lục số 42-43).
Tại Cáo trạng số 95/CT-VKSCM ngày 21/11/2023 của Viện kiểm sát
nhân dân huyện Chợ Mới đã truy tố bị cáo Huỳnh Văn L về tội Trộm cắp tài
sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm
2017.
Tại phiên tòa,
- Bị cáo thừa nhận do không tiền tiêu xài, nên nảy sinh ý định lấy trộm
tài sản của người khác. Khai nhận hành vi trộm cắp xoài của ông Nguyễn Văn
L1, như nội dung vụ án, phù hợp với lời khai của bị hại; người làm chứng; người
quyền lợi nghĩa vụ liên quan; kết luận định giá tài sản c tài liệu,
chứng cứ khác có trong hồ vụ án. Ngoài ra, bị cáo khai rủ Bùi Minh S,
Phan Văn P trộm cắp xoài, thì S P đồng ý đi cùng, trong lúc hái trộm xoài để
vào giỏ xách thì b người dân nơi đây phát hiện, tri hô, nên tất cả bỏ chạy thoát;
sợ bị bắt nên m cách tránh nhiều nơi trong thời gian dài, đến ngày 15/9/2023
bị cáo đến Công an đầu thú; Đối với xe biển số 67L5-2469 bị cáo mua của
Thanh T, khi mua không làm giấy t chưa sang tên, tài sản riêng của bị
cáo. Bị cáo thấy hành vi của mình vi phạm pháp luật, xin xem xét giảm nhẹ mức
hình phạt.
- Chủ tọa phiên tòa công bố lời khai của bị hại Nguyễn Văn L1, Nguyễn
Trọng N (con ruột của L) khai, khoảng 18 giờ 30 phút ngày 07/10/2018, được
Thành S cho biết nhóm người hái trộm xoài t L1, N cùng Thành S đến
vườn xoài kiểm tra, phát hiện người lạ đang hái trộm xoài nên tri thì
những người này bỏ chạy thoát. L1 đã được quan Công an trao trả 160kg xoài,
nên không yêu cầu bồi thường, xin bãi nại không xử đối với bị cáo L.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C thực hành công tố tại phiên
tòa, sau khi xét hỏi, tranh luận, xem xét tính chất vụ án, mức độ, hậu quả từ hành
vi phạm tội của bị cáo tác động đến hội, phân tích các tình tiết định tội, định
khung hình phạt, đánh g các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự,
phân hóa vai t vụ án đồng phạm, nêu Luận tội giữ nguyên quyết định Cáo
trạng truy tố đề nghị:
Về trách nhiệm hình sự, áp dụng khoản 1 điều 173; Điều 38; điểm s khoản
1, khoản 2 Điều 51; Điếu 17, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ
sung năm 2017.
4
Xử phạt bị cáo Huỳnh Văn L từ 08 tháng đến 10 tháng về tội “Trộm
cắp tài sản”.
Về trách nhiệm dân sự, bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bị cáo
phải bồi thường bất cứ khoản tiền nào khác, không đề cập.
Về hình phạt bổ sung, hoàn cảnh khó khăn, không nghề nghiệp nên không
áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về xử vật chứng:
- Đối với 01 (một) xe tô, loại xe Wave Trung Quốc, màu đỏ, biển số
67L5-2649 (số khung 002180, số máy 002180), đã qua sử dụng; 01 (một) điện
thoại di động, hiệu Mastel, màu xanh, đã qua sử dụng là vật, phương tiện bị cáo
dùng thực hiện hành vi phạm tội 01 (một) xe tô, màu đỏ, loại xe Wave
Trung Quốc, biển số 67K3-0689 (số khung 019114, số máy 00019114) kèm
Giấy chứng nhận đăng xe tên Phạm Thị N; 01 (một) cái bóp màu đen;
tài sản nhân của S; Quá trình xác minh N chủ xe hiện không đi đâu,
làm gì, xe không thuộc trường hợp tang vật trong vụ án khác nên tịch thu phát
mãi sung công quỹ Nhà nước.
- Đối với 01 (một) Giấy phép lái xe hạng A1, tên Bùi Minh S; 01 (một)
đôi dép lào màu xanh cây, đã qua sử dụng vật liên quan đến hành vi phạm
tội, không còn giá trị nên tịch thu tiêu hủy.
Sau khi nghe quan điểm luận tội của Kiểm sát viên, bị cáo không tranh
luận, xác định Cáo trạng truy tố đúng tội, không oan, nói lời sau cùng bị cáo xin
xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ:
Trên sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu trong hồ vụ án đã được
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định n sau:
[1] Hành vi, quyết định tố tụng quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình
tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra tại
phiên tòa, bị cáo, bị hại, người quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm
chứng, những người tham gia tố tụng khác không ý kiến, khiếu nại về hành vi,
quyết định của quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, không khiếu
nại các chứng cứ được thu thập. Do đó, các hành vi, quyết định của quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Bị hại Nguyễn Văn L1, những người m chứng Thành S, Nguyễn
Trọng N, Nguyễn Văn H, Đặng Thị T, Thanh Th, Phan Thị V, Nguyễn Kim
C, Phan Thanh H, vắng mặt không do. Đối với những người này, đã được
Tòa án triệu tập tham gia tố tụng theo đúng quy định; được quan điều tra thu
thập lời khai chi tiết, toàn diện, đánh giá sự vắng mặt của những người nêu trên
không ảnh hưởng đến việc xét xử. Căn cứ Điều 293 Bộ luật Tố tụng Hình sự
năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.
5
[2] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội, hoàn toàn phù hợp lời
khai của bị cáo trong quá trình điều tra; phù hợp lời khai của b hại, người
quyền lợi nghĩa vụ liên quan, những người làm chứng về toàn bộ diễn biến về
thời gian, địa điểm xảy ra hành vi phạm tội, các nh tiết khác của vụ án; p
hợp với Biên bản khám nghiệm hiện trường, bản ảnh, đồ hiện trường được
lập vào ngày 08/10/2018; phù hợp tang vật thu giữ do bị cáo giao nộp. Ngoài ra,
còn phù hợp với tài liệu, chứng cứ khác được thu thập trong hồ sơ.
Đã đủ căn cứ xác định, không nghề nghiệp, cần tiền tiêu xài, nảy sinh ý
định lấy trộm tài sản của người khác; Khoảng 16 giờ ngày 07/10/2018, bị cáo
gọi điện thoại rủ Phan Văn P đi trộm xoài của người khác hẹn gặp tại ngã ba
C, thuộc M, huyện C, thì P đồng ý. Bị cáo điều khiển xe biển số 67L5-
2649, trên xe gắn thanh gỗ trên yên dùng để chở xoài đem theo 05 giỏ
xách bằng nhựa, 03 sợi dây băng đến quán phê tại ngã ba C. Đến khoảng 18
giờ cùng ngày, bị cáo tiếp tục gọi điện rủ thêm Bùi Minh S (S.E) cùng đi trộm
xoài, S đồng ý. Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, P điều khiển xe
(không biển số), S điều khiển xe biển s 67K3-0689, cả ba cùng đến
vườn xoài của Lê Thành S tại ấp An Khánh, T, cùng hái trộm xoài. Sau
khoảng 30 phút, Thành S được Khúc Văn S, người gần vườn xoài cho biết
nhóm người điều khiển 03 xe đến gần vườn xoài của Thành S nghi hái
trộm xoài, do đã bán xoài cho Nguyễn Văn L1 nên Thành S điện thoại cho L1
biết. Khi nghe xong điện thoại, L1, Thành S, Nguyễn Trọng N (con ruột của Lập)
đến vườn xoài kiểm tra, thì phát hiện người trộm xoài nên tri hô, t tất c
chạy thoát. Sau đó, Thành S trình báo Công an T. Ngày 15/9/2023, b cáo L
đến Công an M đầu thú.
Bị cáo thừa nhận hành vi trộm 160kg xoài Đ.L cùng với Minh S P như
nội dung v án, thống nhất g trị tài sản được định giá tại thời điểm bị cáo thực
hiện tội phm tại Kết luận định giá tài sản số 25/KL-HĐĐG ngày 26/11/2018
của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Chợ Mới xác định
160kg xoài Đ.L bao vàng, loại I, trị g 7.200.000 đồng; nhận thấy hành vi của
mình sai, vi phạm pháp luật, xin xem xét giả nhẹ hình phạt.
Với phân tích trên, Hội đồng xét xử xác định: hành vi của bị cáo Huỳnh
Văn L đủ yếu tố cấu thành tội“Trộm cắp tài sản”; tội phạm hình phạt được
quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm
2017.
Do đó, Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện C truy tố đối với bị cáo
Huỳnh Văn L về tội danh, điểm, khoản, Điều luật viện dẫn đúng người, đúng
tội, đúng quy định pháp luật.
[3] Bị cáo L người trưởng thành, đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự,
nhận thức được hành vi mình thực hiện vi phạm pháp luật, nhưng bất chấp, cố
ý thực hiện với ý thức mong muốn hậu quả xảy ra. Với bản tính tha hóa, lười lao
động, muốn tiền để tiêu xài cá nhân không phải bỏ ra công sức lao động,
bị cáo nảy sinh ý định lấy trộm tài sản người khác, với ch thức, thủ đoạn lợi
6
dụng nơi vắng vẻ, vườn xoài không người trông giữ nên đã rủ Minh Sang
Phan Văn P thực hiện hành vi lấy trộm 160kg xoài, đã dịch chuyển tài sản, hành
vi phạm tội đã hoàn thành, vậy bị cáo cũng phải chịu trách nhiệm với giá trị
tài sản bị cáo đã thực hiện hành vi lấy trộm.
Đánh giá vụ án tính chất đồng phạm nhưng thể hiện yếu tố giản đơn,
trong vụ án này bị cáo giữ vai trò chính, trực tiếp gọi điện rủ Bùi Minh S P
để cùng thực hiện hành vi trộm cắp nên mức nh phạt cần nghiêm khắc hơn để
thể hiện sự phân hóa, thể vai trò của bị cáo thể hiện sự răn đe, giáo dục bị
cáo.
Hành vi của bị cáo nguy hiểm cho hội, trực tiếp xâm phạm đến tài sản
của người khác được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa
phương, gây lo sợ, bất an trong nhân dân trước tình hình các tội phạm xâm phạm
về quyền sở hữu, cụ thể trộm cắp tài sản diễn ra ngày càng táo bạo, liều
lĩnh như hiện nay. Bên cạnh đó, bị cáo nhân thân xấu, ngày 11/9/1995, bị Tòa
án nhân dân huyện C, tỉnh An Giang, xử phạt 01 năm tù, về tội“Trộm tài sản
của công dân”, chấp hành xong ngày 29/01/1996, tại thời điểm phạm tội bị cáo
người chưa thành niên; mặc đã được xóa án tích, nhưng cần đánh giá thái
độ xem thường pháp luật của bị cáo. Với những nhận định, đánh giá trên, cần áp
dụng mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi bị
cáo đã gây ra phạt nhằm giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt khi tái hòa
nhập cộng đồng, đồng thời tác dụng răn đe phòng ngừa chung trong hội.
[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
[4.1] Bị cáo không tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự;
[4.2] Về tình tiết giảm nhẹ, q trình điều tra tại phiên tòa, bị cáo thành
khẩn khai báo, thể hiện được sự ăn năn hối cải, tài sản thu hồi trao trả cho bị hại,
bị hại bãi nại tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2
Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử xem xét, cân nhắc căn cứ giảm cho
bị cáo một phần hình phạt
.
[5] Về đánh giá hành vi khác liên quan:
Đối với:
- Đối với Bùi Minh S, sau khi thực hiện hành vi phạm tội đến Công an
thừa nhận hành vi phạm tội cùng với bị cáo L, gia đình bảo lãnh cho tại ngoại
nhưng đã bỏ trốn nên quan điều tra ra Quyết định truy nã, bắt được xử sau
phù hợp.
- Đối với Phan Văn P, sau xảy ra sự việc đến nay đã vắng mặt địa phương,
chưa làm việc được, quan điều tra đã ra Quyết định truy tìm, tiếp tục điều tra
xử sau căn cứ.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản bị mất trộm, không
yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm bất cứ khoản tiền nào khác nên ghi nhận,
không xem xét về trách nhiệm dân sự đối với bị cáo.
7
[7] V hình phạt bổ sung: Đánh giá bị cáo hoàn cảnh gia đình k khăn,
không nghề nghiệp cụ thể, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt
bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự.
[8] Về xử vật chứng: Quá trình điều tra thu giữ các vật chứng, 160kg
xoài Đài Loan, đã trả lại cho Nguyễn Văn L1, việc quan điều tra tiến hành
trao trả cho bị hại căn cứ, phù hợp pháp luật nên không đề cập.
- Đối với 01 (một) xe tô, loại xe Wave Trung Quốc, màu đỏ, biển số
67L5-2649 (số khung 002180, số máy 002180); 01 (một) điện thoại di động,
hiệu Mastel, màu xanh 01 (một) xe tô, màu đỏ, loại xe Wave Trung Quốc,
biển số 67K3-0689 (số khung 019114, số máy 00019114), đã qua s dụng kèm
Giấy chứng nhận đăng xe tô, tên Phạm Thị N; 01 (một) cái bóp màu đen,
đã qua sử dụng, vật, tài sản dùng trực tiếp liên quan đến hành vi phạm tội,
giá trị nên tịch thu phát mãi sung quỹ Nhà nước.
- Đối với 01 (một) Giấy phép lái xe hạng A1, tên Bùi Minh S; 01 (một)
đôi dép lào màu xanh cây, đã qua sử dụng, vật, giấy tờ liên quan đến hành
vi phạm tội, không giá trị nên tịch thu tiêu hủy.
[9] Về án phí quyền kháng cáo:
Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự thẩm.
Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
[10] Quan điểm luận tội của Kiểm sát viên căn cứ được Hội đồng xét
xử xem xét, chấp nhận.
các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
n cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17, 58
Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
1. V ti danh và hình pht áp dng:
Tuyên b b cáo Huỳnh Văn L phm ti Trm cp tài sn.
Xử phạt b o Huỳnh Văn L 08 tháng (m tng). Thời hạn tù được
nh k từ ngày b cáo bị tm gi, tm giam 15/9/2023.
2. Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
3. Về trách nhiệm dân sự: không đề cập.
4. Về xử vật chứng:
4.1 Tịch thu phát mãi sung quỹ Nhà nước: 01 (một) xe tô, loại xe
Wave Trung Quốc, màu đỏ, biển số 67L5-2649 (số khung 002180, số máy
002180), đã qua sử dụng; 01(một) điện thoại di động, hiệu Mastel, màu xanh
01 (một) xe tô, màu đỏ, loại xe Wave Trung Quốc, biển số 67K3-0689 (số
8
khung 019114, số máy 00019114) kèm Giấy chứng nhận đăng xe tô, xe
máy biển số 67K3-0689, tên Phạm Thị N; 01 (một) cái bóp màu đen.
4.2 Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) Giấy phép lái xe hạng A1, tên Bùi Minh S;
01 (một) đôi dép lào màu xanh cây.
Vật chứng nêu trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện C tạm quản
lý, (Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa quan cảnh sát điều tra - Công
an huyện C Chi cục Thi hành án dân sự huyện C ngày 26 tháng 12 năm 2023).
5. Về án phí: Căn c Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội v án phí, lệ phí Tòa án
Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự m 2015;
Bị cáo phi chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn) án phí hình s sơ thm.
6. Về quyn kháng cáo: n c các Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tng
hình s năm 2015;
Bị o, bị hại có mặt được quyn kháng cáo bản án trong thời hạn 15
ngày, kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, t nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6, Điều 7a, 7b
Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện
theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh An Giang;
- VKSND tỉnh An Giang
- Sở pháp tỉnh An Giang;
- VKSND H. Chợ Mới;
- Nhà Tạm giữ - Công an H. Chợ Mới;
- CQTHAHS - Công an H. Chợ Mới;
- CQĐT - Công an H. Chợ Mới;
- Chi cục THADS H. Chợ Mới;
- BP Thi hành án - Tòa án;
- Bị cáo; Bị hại; Người liên q- Lưu:
HSVA; Văn phòng TA.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Huy Phong
9
Tải về
88_2023_HS-ST_ CHO MOI_AN GIANG 88_2023_HS-ST_ CHO MOI_AN GIANG

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

88_2023_HS-ST_ CHO MOI_AN GIANG 88_2023_HS-ST_ CHO MOI_AN GIANG

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất