Bản án số 15/2024/HS-PT ngày 03-01-2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về về tội trộm cắp tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
15_2024_HS-PT_ DAK LAK
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
15_2024_HS-PT_ DAK LAK
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 15/2024/HS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 15/2024/HS-PT ngày 03-01-2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về về tội trộm cắp tài sản |
---|---|
Tội danh: | 173.Tội trộm cắp tài sản (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đắk Lắk |
Số hiệu: | 15/2024/HS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 03/01/2024 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Hoàng Văn P tội trộm cắp tài sản |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK ------------------ Bản án số: 15/2024/HS-PT Ngày: 03-01-2024 |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc ------------------ |
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 15/2024/HS-PT NGÀY 03/01/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 03 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 297/2023/TLPT-HS ngày 04 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo Hoàng Văn P phạm tội “Trộm cắp tài sản”, do có kháng cáo của bị cáo Hoàng Văn P đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 38/2023/HS-ST, ngày 24 tháng 10 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk.
* Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Hoàng Văn P - Sinh ngày: 10 tháng 7 năm 1983, tại tỉnh Thanh Hóa; nơi thường trú: Thôn K, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; nơi ở hiện tại: Thôn T, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông: Hoàng Văn N (đã chết) và bà: Trần Thị N1; bị cáo có vợ là Đoàn Thị H (đã ly hôn) và có hai con, con lớn sinh năm 2012 và con nhỏ sinh năm 2018;
Tiền sự: Không Tiền án: 04 tiền án: Bản án số 01/2011/HSST ngày 24/01/2011 của Tòa án nhân dân huyện Krông Búk xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản; Bản án số 146/2013/HSPT, ngày 09/5/2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Bản án số 268/2015/HSPT, ngày 23/6/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Bản án số 19/2019/HSPT, ngày 22/01/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
Nhân thân: Ngày 05/7/2004 bị Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa ra Quyết định số 2112/QĐ-CT về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc tại cơ sở giáo dục X thuộc Cục quản lý trại giam, Bộ Công an về hành vi cưỡng đoạt và trộm cắp tài sản, thời gian chấp hành từ ngày 15/7/2004 đến ngày 12/7/2006 (đã chấp hành xong).
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/7/2023 cho đến nay – Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 10 giờ ngày 13/7/2023 do cần tiền để mua ma túy sử dụng nên Hoàng Văn P điều khiển xe mô tô nhãn hiệu SYM loại Angel, có gắn biển kiểm soát 47M2 - X đi từ nơi ở là thị trấn P, huyện K đến địa bàn huyện C tìm kiếm gia đình nào sơ hở trong việc quản lý tài sản để trộm cắp; khi đi đến địa phận thôn 4, xã E, huyện C, P nhìn thấy một đại lý cà phê của chị Trần Thị Thùy T, sinh năm 1997 đang mở cửa không có người trông coi, P điều khiển xe đi vào bên trong đại lý bê một bao bì xác rắn màu hồng và một bao bì xác rắn màu xanh bên trong có đựng hạt hồ tiêu khô để lên xe mô tô của P rồi điều khiển xe mô tô đi đến chợ VĐ thuộc Thôn A, xã E, huyện C bán cho bà Đàm Thị C, sinh năm 1978 là chủ đại lý thu mua nông sản “B C” được số tiền 2.870.000 đồng. Sau khi bán xong, P điều khiển xe mô tô đi về xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, số tiền 2.870.000 đồng trên P đã tiêu xài cá nhân và mua ma tuý sử dụng hết 2.140.000 đồng, còn lại số tiền 730.000 đồng.
Đến khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày, bà Thùy T phát hiện hành vi trộm cắp tài sản của P thông qua trích xuất camera của đại lý nên đã báo cho Công an huyện C. Đến 16 giờ ngày 14/7/2023, khi P đang điều khiển xe mô tô gắn biển kiểm soát 47M2-X đi trên đường thuộc thôn A, xã E, huyện C để tìm kiếm tài sản trộm cắp thì bị lực lượng Công an huyện C phát hiện, giữ người trong trường hợp khẩn cấp, qua đấu tranh P đã khai nhận hành vi trộm cắp tài sản của mình.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 33/KL-HĐĐGTS ngày 20/7/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện C đã kết luận: 40,7 kg hạt tiêu khô, loại tiêu lửng (tiêu lép) vào ngày 13/7/2023 có giá trị là 1.750.100 đồng; 18,8 kg hạt tiêu khô, loại tiêu chắc vào ngày 13/7/2023 có giá trị là 1.297.200 đồng. Tổng trị giá tài sản là 3.047.300 đồng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 38/2023/HSST, ngày 24 tháng 10 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk, đã quyết định:
Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Văn P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt: Bị cáo Hoàng Văn P 03 (Ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 14/7/2023.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 03/11/2023, bị cáo Hoàng Văn P có đơn kháng cáo với nội dung: Xin được giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Hoàng Văn P giữ nguyên nội dung kháng cáo và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện đúng như nội dung bản cáo trạng và bản án hình sự sơ thẩm đã được tóm tắt nêu trên.
Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đã đánh giá tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo và khẳng định bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin xét xử bị cáo Hoàng Văn P về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xét mức hình phạt 03 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt đối với bị cáo là tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo. Cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới. Do đó, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo mà cần giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Hoàng Văn P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận: Bị cáo Hoàng Văn P đã có 04 tiền án về tội Trộm cắp tài sản nhưng do ý thức coi thường pháp luật và vì động cơ vụ lợi cá nhân nên vào khoảng 10 giờ ngày 13/7/2023, tại thôn A, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk, Hoàng Văn P đã thực hiện hành vi lén lút trộm cắp 59,5 kg hạt hồ tiêu khô, có tổng trị giá 3.047.300 đồng của chị Trần Thị Thùy T. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Hoàng Văn P về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Mức hình phạt 03 (Ba) năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo Hoàng Văn P là có phần nghiêm khắc. Bởi lẽ, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi sự việc bị phát hiện bị cáo đã tự nguyện giao nộp số tiền 730.000 đồng, bị cáo phạm tội gây thiệt hại không lớn, tài sản chỉ có trị giá 3.047.300 đồng và đã được thu hồi trả cho bị hại, bị cáo có bố ruột là ông Hoàng Văn N được tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng nhì, có mẹ ruột là bà Trần Thị N1 là người được hưởng chính sách như thương binh, được tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng ba, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, được quy định tại các điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, sửa Bản án sơ thẩm số 38/2023/HSST, ngày 24/10/2023 của Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin về hình phạt.
[3] Về án phí: Do kháng cáo của bị cáo Hoàng Văn P được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
[1] Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng Văn P. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số: 38/2023/HSST, ngày 24 tháng 10 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk về hình phạt.
[2] Điều luật áp dụng và mức hình phạt:
Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Hoàng Văn P 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 14/7/2023.
[3] Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Hoàng Văn P không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: -TAND tối cao; - TAND cấp cao - VKSND tỉnh Đắk Lắk (02 bản); - Phòng HSNV Công an tỉnh Đắk Lắk; - Văn phòng CQCSĐT CA tỉnh Đắk Lắk; - Trại tạm giam Công an tỉnh Đắk Lắk; - Sở Tư pháp tỉnh Đắk Lắk; - TAND huyện Cư Kuin; - VKSND huyện Cư Kuin; - Công an Huyện Cư Kuin; - Chi cục THADS huyện C; - Bị cáo; - Lưu hồ sơ. |
TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa
(Đã ký)
Nguyễn Thị Hằng |
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!