Bản án số 37/2024/HS-ST ngày 05/02/2024 của TAND huyện Trảng Bom (TAND tỉnh Đồng Nai) về tội trộm cắp tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án 37/2024/HS-ST Đồng Nai
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án 37/2024/HS-ST Đồng Nai
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 37/2024/HS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 37/2024/HS-ST ngày 05/02/2024 của TAND huyện Trảng Bom (TAND tỉnh Đồng Nai) về tội trộm cắp tài sản |
|---|---|
| Tội danh: | 173.Tội trộm cắp tài sản (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND huyện Trảng Bom (TAND tỉnh Đồng Nai) |
| Số hiệu: | 37/2024/HS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 05/02/2024 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: | Vòng A Q3, Thằng K S1 phạm tội trộm cắp tài sản |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN
NHÂN DÂN
HUYỆN TRẢNG BOM
TỈNH ĐỒNG NAI
–––––––––––––––
Bản án số: 37/2024/HS-ST
Ngày: 05-02-2024
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
–––––––––––––––––––––––––––––––
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM-TỈNH ĐỒNG NAI
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Loan Trần Hải Yến.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Doãn Đức Hùng
2. Ông Đinh Ngọc Hùng
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Hải Yến – Thư ký Tòa án nhân dân
huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân
huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai
tham gia phiên tòa: Bà Phạm Thị Kiều Diễm - Kiểm sát viên.
Ngày 05 tháng 02 năm 2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom,
tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai
vụ án hình sự sơ thẩm
thụ lý số:
08/2024/TLST-HS ngày 09 tháng 01 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét
xử số: 26/2024/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 01 năm 2024 đối với các bị cáo:
1. Vòng A Q (tên gọi khác: Cấy M), sinh năm 1986, tại Đồng Nai.
Nơi cư trú: ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Đồng Nai.
Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 3/12; Dân tộc: Hoa; Giới tính:
Nam; Tôn giáo: Công giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lỷ Tàu M1 (đã chết)
và bà Vòng S (đã chết); Bị cáo có vợ Phạm Thị M2, sinh năm 1988 và có 03 con,
con lớn nhất sinh năm 2008 và con nhỏ nhất sinh năm 2015.
Tiền án: Không.
Tiền sự: Ngày 04/02/2021, bị Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom quyết
định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời
gian 16 tháng (Chấp hành xong ngày 28/01/2022).
Nhân thân:
- Ngày 31/5/2012, bị Tòa án nhân dân huyện huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng
Nai xử phạt 02 (hai) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đã chấp hành
xong hình phạt tù ngày 14/12/2013.

- Ngày 15/12/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom quyết định áp
dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời gian 20
tháng. (Chấp hành xong ngày 18/01/2019)
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/9/2023. (Có mặt)
2. Thằng Khải S1 (tên gọi khác: Năm T), sinh năm 1969, tại Đồng Nai.
Nơi ĐKHKTT: khu C, ấp T, xã B, huyện T, tỉnh Đồng Nai.
Nơi cư trú: ấp T, xã S, huyện T, tỉnh Đồng Nai.
Nghề nghiệp: Làm rẫy; Trình độ học vấn: 5/12; Dân tộc: Hoa; Giới tính:
Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Thằng S2 (đã chết) và bà
Hồ S3 (đã chết); Bị cáo có vợ Tằng Há M3 (đã ly hôn) và có 03 con, con lớn nhất
sinh năm 1991 và con nhỏ nhất sinh năm 1996.
Tiền án: Không.
Tiền sự:
+ Ngày 25/01/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom quyết định áp
dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời gian 24
tháng. (Chấp hành xong ngày 22/4/2019).
+ Ngày 05/02/2021, bị Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom quyết định áp
dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời gian 16
tháng. (Chấp hành xong ngày 28/01/2022).
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/9/2023. (Có mặt)
- Bị hại:
Anh Trần Minh Q1, sinh năm 1979. (Vắng mặt)
Địa chỉ: Ấp Đ, xã G, huyện T, tỉnh Đồng Nai.
Chị Nguyễn Vũ Thị Hà D, sinh năm 1985. (Vắng mặt)
Địa chỉ: B, ấp V, xã G, huyện T, tỉnh Đồng Nai.
- Người làm chứng: Ông Trần Sỳ D1, sinh năm 1970. (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 07 giờ ngày 06/8/2023, Vòng A điều khiển xe mô tô biển số
60F2 – 2952 chở theo anh Nguyễn Minh T1 (là người làm thuê cho Q) đi đến khu
vực M, ấp C, xã B, huyện T tìm mua chuối ép (chuối con), khi đi ngang qua vườn
chuối của anh Trần Minh Q1 và chị Nguyễn Vũ Thị Hà D, thì Q phát hiện 36 quầy
chuối (loại chuối già N) mới cắt xuống được xếp thành đống gần lề đường, Q nảy
sinh ý định lấy trộm số chuối trên để bán nhưng do có người dân gần đó nên Q và
anh T1 đi về. Đến khoảng 09 giờ cùng ngày, Q rủ Thằng K Siềng đi lấy trộm số
chuối trên bán lấy tiền chia nhau tiêu xài thì S1 đồng ý, Q chỉ vị trí đống chuối
muốn lấy trộm cho S1 rồi Q sử dụng điện thoại của mình để gọi điện cho bà Trần
Thị T2 là chủ vựa thu mua chuối Trí Thái ở ấp C, xã B và nói với bà Thái Q2 có
người quen là chủ vườn có mấy tạ chuối cần bán thì bà T2 đồng ý mua. Quay hẹn
bà T2 chạy xe máy cày đến ngã ba M sẽ có người đón vào nơi bán chuối. Sau đó,
Q2 thuê anh T1 đi bốc vác chuối cho Q2, anh T1 đồng ý và ngồi trên xe máy cày
do anh Lê Tuấn A (con trai bà T2) điều khiển để đi bốc vác chuối đưa về vựa
chuối Trí T3 cân. Khi anh Tuấn A cùng anh T1 đi đến ngã ba M thì S1 ra đón và
điều khiển xe mô tô 60FX – 0031 dẫn đường đến vị trí đống chuối cắt sẵn, S1 nói
với anh Tuấn A và T1 mình là chủ vườn và là chủ của đống chuối đã cắt sẵn, S1
nói anh Tuấn A và T1 bốc hết đống chuối đưa lên xe rồi chở về vựa thu mua chuối
Trí Thái, tại đây bà T3 và S1 đếm được 36 quầy, cân trọng lượng tổng cộng 685
kg chuối, bà T3 mua giá 4.000 đồng/1kg và trả cho S1 2.740.000 đồng, sau đó S1
đưa cho anh T1 1.500.000 đồng và nói anh T1 đưa số tiền trên cho Q2. Sau đó,
anh T1 đưa 1.500.000 đồng cho Q2, thì Q2 trả cho T1 500.000 đồng tiền công bốc
xếp, còn Q2 hưởng 1.000.000 đồng.
Đến sáng ngày 07/8/2023, chị Nguyễn Vũ Thị Hà D phát hiện bị mất 36
quầy chuối, chị D đã trình báo Công an xã B Công an xã Bàu Hàm lập hồ sơ ban
đầu và chuyển hồ sơ đến Cơ quan điều tra Công an huyện T giải quyết theo thẩm
quyền.
Vật chứng thu giữ gồm:
+ 754kg chuối già N (dư 69kg do bà T3 nhầm lẫn để chuối mua của người
khác vào chung với số chuối đã mua của S1);
+ 01 xe mô tô biển số: 60F2 – 2952; 01 xe mô tô biển số: 60FX – 0031;
+ 01 liềm bằng kim loại màu đen, có cán màu trắng dài 110 cm;
+ 01 điện thoại nhãn hiệu Vivo, gắn sim số 0339755908;
+ 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 7 plus, gắn sim số 0353011054.
Tại bản Kết luận định giá tài sản số 94/KL-HĐĐGTS ngày 16/8/2023 của
Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện T kết luận 685kg chuối già
Nam Mỹ trị giá 3.425.000 đồng.
Ngày 11/9/2023 Cơ quan CSĐT Công an huyện T đã ra Quyết định khởi tố
vụ án, khởi tố bị can đối với Vòng A Q và Thằng Khải S1 về tội “Trộm cắp tài
sản” để điều tra theo quy định.
Quá trình điều tra, bị cáo Vòng A Q3 đã bồi thường thiệt hại, khắc phục
hậu quả cho người bị hại, Q3 và S1 đã nộp lại số tiền thu lợi bất chính là 2.740.500
đồng (Quay nộp 1.500.000 đồng và S1 nộp 1.240.000 đồng), phạm tội nhưng gây
thiệt hại không lớn, đồng thời có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải khai
nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nêu trên. Bị cáo S1 phạm tội lần đầu
và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.
Về trách nhiệm dân sự: Vòng A Q3 đã tác động gia đình bồi thường thiệt
hại cho bị hại do chị Nguyễn Vũ Thị Hà D nhận số tiền 3.425.000 đồng, bằng với
trị giá 685 kg chuối mà Q3 và S1 đã trộm cắp (do chuối bị héo nên không tiêu thụ
được), chị D đã cam kết bãi nại cho Q3 và S1, không yêu cầu gì khác về dân sự
trong vụ án.
Bản cáo trạng số: 24/CT-VKS-TB ngày 08/01/2024 của Viện kiểm sát nhân
dân huyện Trảng Bom truy tố bị cáo V A Q3 và Thằng Khải S1 về tội “Trộm cắp
tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom trình bày
lời luận tội vẫn giữ nguyên quyết định truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ
khoản 1 Điều 173, điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình
sự xử phạt bị cáo V A Quay từ 06 (sáu) đến 10 (mười) tháng tù; Căn cứ khoản 1
Điều 173, điểm h, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo
T4 Khải Siềng từ 06 (sáu) đến 10 (mười) tháng tù;
Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
Lời nói sau cùng của các bị cáo:
Bị cáo Vòng A Q3: Bị cáo đã rất hối hận, mong Hội đồng xét xử xem xét
giảm nhẹ cho bị cáo để bị cáo sớm trở về lo cho gia đình, con cái.
Bị cáo Thằng Khải S4: Bị cáo đã biết lỗi, mong Hội đồng xét xử xem xét
tha tội cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra Công an huyện T,
Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, kiểm sát viên trong quá trình điều
tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định tại Bộ luật
Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến
hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị
cáo tại giai đoạn điều tra, với lời khai của bị hại, các chứng cứ khác có tại hồ sơ
và cáo trạng mô tả. Từ đó đã có đủ cơ sở kết luận: Vào ngày 06/8/2023 tại ấp C,
xã B, huyện T, tỉnh Đồng Nai, Vòng A và Thằng K thực hiện hành vi trộm cắp
685kg chuối già N của anh Trần Minh Q1 và chị Nguyễn Vũ Thị Hà D trị giá
3.425.000 đồng.
[2.1] Hành vi của các bị cáo V A Q3 và Thằng Khải S4 đã phạm vào tội
“Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự như cáo
trạng đã truy tố là có căn cứ.
[2.2] Trong vụ án có đồng phạm, song ở mức độ giản đơn, bị cáo Q3 là
người rủ rê, bị cáo S4 tích cực thực hiện hành vi phạm tội.
[2.3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm
trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ nên cần xử
phạt các bị cáo một mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội
của các bị cáo, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo
dục và phòng ngừa chung.
[3] Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không
lớn. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối
cải. Do đó, cần cho các bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy
định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Q3 có thêm tình tiết
đã bồi thường khắc phục hậu quả cho bị hại nên được hưởng thêm tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị
cáo S4 phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được hưởng
thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51
Bộ luật Hình sự.
[5] Về xử lý vật chứng:
[5.1] Đối với 754 kg chuối già Nam Mỹ gồm 685kg chuối của anh Trần
Minh Q1 và chị Nguyễn Vũ Thị Hà D, 69kg chuối của bà Trần Thị T2, Cơ quan
điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là phù hợp.
[5.2] Đối với xe mô tô biển số: 60F2 – 2952 và xe mô tô biển số: 60FX –
0031 là tài sản hợp pháp của anh V Dũng Chăn và Trần Phi C, anh C1 và anh C
cho Q3 và S4 mượn sử dụng, khi Q3 và S4 sử dụng 02 xe mô tô trên làm phương
tiện phạm tội thì anh C1 và anh C không biết nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho
chủ sở hữu là phù hợp.
[5.3] Đối với 01 liềm bằng kim loại màu đen, có cán màu trắng dài 110 cm
không liên quan đến hành vi phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho bị cáo
Vòng A Q3 là phù hợp.
[5.4] Đối với số tiền 2.740.000 đồng là tiền thu lợi bất chính Thằng Khải
S4 và Vòng A giao nộp và 01 điện thoại nhãn hiệu Vivo, gắn sim số 0339755908,
01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 7 plus, gắn sim số 0353011054 là phương tiện
Thằng Khải S4 và Vòng A Q3 sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu nộp vào
Ngân sách nhà nước.
[6] Đối với anh Nguyễn Minh T1, bà Trần Thị T2 và anh Lê Tuấn A đã có
hành vi bốc vác, vận chuyển và thu mua 685kg chuối già N của Vòng A và Thằng
Khải S4, không biết nguồn gốc số chuối trên do Q3 và S4 trộm cắp mà có nên
không cấu thành tội phạm. Do đó Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T
không xử lý là phù hợp.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Quay tác động gia đình bồi thường cho
bị hại, bị hại không yêu cầu gì thêm về mặt dân sự nên Hội đồng xét xử không
xem xét giải quyết.
[8] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố
tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Các
bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
[9] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom
về tội danh, hình phạt, xử lý vật chứng và án phí phù hợp với nhận định của Hội
đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, h, s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật
Hình sự;
- Tuyên bố bị cáo Vòng A Q3 phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
- Xử phạt bị cáo Vòng A Q3 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày
15/9/2023.
Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật
Hình sự;
- Tuyên bố bị cáo Thằng K Siềng phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
- Xử phạt bị cáo Thằng K Siềng 07 (bảy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày
15/9/2023.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng
hình sự.
- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: Số tiền 2.740.000 đồng đồng; 01 điện
thoại nhãn hiệu Vivo, gắn sim số 0339755908 và 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone
7 plus, gắn sim số 0353011054
(Các vật chứng nêu trên đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện
Trảng Bom theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 06/02/2024
và biên lai thu tiền số 0003520 ngày 06/02/2024)
3. Về án phí hình sự: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ
luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án: Buộc bị cáo Vòng A Q3 và Thằng K Siềng mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng
(hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng
bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày
nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.
Nơi nhận:
- Tòa án tỉnh Đồng Nai;
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai;
- Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom;
- Nhà tạm giữ Công an huyện Trảng Bom;
- Trại giam công an tỉnh Đồng Nai;
- Thi hành án hình sự;
- Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trảng Bom;
- Sở Tư pháp;
- Bị cáo;
- Bị hại;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
Loan Trần Hải Yến
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 12/04/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 10/04/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 26/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 19/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 06/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 31/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 30/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 24/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 19/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 19/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 16/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 09/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 05/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 03/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 29/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 28/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 28/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 27/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 20/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm