Bản án số 73/2024/HS-PT ngày 26-03-2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về về tội trộm cắp tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
73_2024_HS-PT_ DAK LAK
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
73_2024_HS-PT_ DAK LAK
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 73/2024/HS-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 73/2024/HS-PT ngày 26-03-2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về về tội trộm cắp tài sản |
|---|---|
| Tội danh: | 173.Tội trộm cắp tài sản (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đắk Lắk |
| Số hiệu: | 73/2024/HS-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 26/03/2024 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: | Hoàng Văn H về tội trộm cắp tài sản |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 73/2024/HS-PT
Ngày 26-3-2024.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Trịnh Văn Toàn.
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Đình Triết và ông Nguyễn Duy Thuấn
- Thư ký phiên tòa: Bà Lại Thị Minh Hiền – Thư ký Toà án nhân dân tỉnh
Đk Lk.
- Đại diện viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa: Bà
Nguyễn Thị Mai Phương - Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đk Lk xét xử
phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 53/2024/TLPT-HS ngày 19 tháng 02
năm 2024 đối với bị cáo Hoàng Văn H. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án
hình sự sơ thẩm số 13/2024/HS-ST ngày 11/01/2024 của Tòa án nhân dân huyện
E, tỉnh Đk Lk.
* Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Hoàng Văn H, sinh ngày 05/5/2007 tại Gia Lai; nơi cư trú: Xã I,
huyện C, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 03/12; quốc tịch:
Việt Nam; dân tộc: Mông; tôn giáo: Tin lành; con ông Hoàng Văn L (đã chết) và
bà Lý Thị D, sinh năm: 1983; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: không; bị cáo
bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ từ ngày 28/5/2023 đến ngày 06/6/2023
được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại, có mặt
tại phiên tòa.
* Người bào chữa cho bị cáo Hoàng Văn H: Ông Phạm Công M – Trợ giúp
viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Đk Lk; có mặt.
* Người đại diện hợp pháp cho bị cáo Hoàng Văn H: Bà Lý Thị D, sinh năm
1983; nơi thường trú: Xã I, huyện C, Gia Lai. Nơi ở hiện nay: Xã H, huyện B, tỉnh
Bình Dương
Ngoài ra, trong vụ án có 02 bị cáo khác là Lý Văn C và Giàng Seo T không
có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
2
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ
án như sau:
Do đã quen biết nhau từ trước nên Lý Văn C, Giàng Seo T, Hoàng Văn H và
Lý Văn T1 đã bàn bạc, thống nhất cùng nhau thực hiện các vụ trộm cp tài sản trên
địa bàn huyện E, tỉnh Đk Lk và huyện J, tỉnh Đk Nông cụ thể:
Vụ thứ nhất: Khoảng 23 giờ 00 phút ngày 18/5/2023, Hoàng Văn H điều
khiển xe mô tô, biển số 59Y2 – 515.81, nhãn hiệu Honda, loại Wave chở Lý Văn
C; Giàng Seo T điều khiển xe mô tô, biển số 81D1 - 193.29, nhãn hiệu YaMaha,
loại Sirius chở Lý Văn T1 và mang theo 02 cây cà lê loại 17-19 để trong cốp xe,
rồi cùng nhau đi đến chợ Trung tâm huyện E với mục đích tìm tài sản để trộm cp.
Khi đi đến chợ huyện E, H và T dừng xe đứng chờ và canh gác bên ngoài, còn C
và T1 đi bộ vào chợ để tìm kiếm tài sản trộm cp. Khi đến cửa hàng kinh doanh
vàng bạc “Kim Trung H2” do anh Trần Trung H1 là chủ sở hữu, C sử dụng 02 cây
cà lê mang theo để phá ổ khóa bên ngoài. Sau đó, C và T1 đột nhập vào bên trong
trộm cp: 41 nhẫn kim loại màu trng, 04 nhẫn kim loại màu vàng, 02 vòng đeo
tay bằng kim loại màu trng, 05 vật trang sức dạng hình móng động vật có bọc kim
loại màu trng. Sau đó, C và T1 quay lại địa điểm mà H và T đang đợi rồi tất cả
cùng nhau đi về nhà của T để chia những tài sản trộm cp được cụ thể:
Lý Văn C: được chia 11 nhẫn kim loại màu trng và 02 nhẫn kim loại màu
vàng, C đem bán 03 nhẫn kim loại màu trng tại tiệm kinh doanh vàng bạc Thi T2
của bà Đoàn Thị Thanh H3 (trú tại xã E, huyện H, tỉnh Đk Lk), được 600.000
đồng. Sau khi mua, bà H3 đã xử lý bằng cách nung chảy số nhẫn này thành 01
thanh kim loại màu trng; Lý Văn Đ được chia 01 nhẫn kim loại màu vàng và 01
nhẫn kim loại màu trng,sau đó bán cho Lý A S 03 nhẫn kim loại màu trng và bán
cho người tên S1 (không rõ nhân thân, lai lịch) 01 nhẫn kim loại màu trng và
người tên S3 T3 (không rõ nhân thân, lai lịch) 01 nhẫn kim loại màu trng, và
người tên V1 01 nhẫn kim loại màu trng, đổi cho bố của C2 01 nhẫn kim loại màu
trng lấy 01 lít xăng; và cho Khánh H4 (không rõ nhân thân, lai lịch) mượn 01
nhẫn kim loại màu vàng; C tiêu xài cá nhân hết số tiền trên.
Giàng Seo T: được chia 17 nhẫn kim loại màu trng, 03 nhẫn kim loại màu
vàng, 02 vòng đeo tay bằng kim loại màu trng, 04 vật trang sức dạng hình móng
động vật có bọc kim loại màu trng; T đã bán cho Hầu Văn V (không rõ nhân
thân, lai lịch) 02 nhẫn kim loại màu vàng được số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn
đồng); T đổi 02 nhẫn kim loại màu trng cho Vương Văn C3 lấy 01 con gà trống;
T đưa cho Hoàng Thị S2 01 nhẫn kim loại màu vàng. Số tài sản còn lại T cất giấu
tại nhà chưa tiêu thụ thì bị Cơ quan Công an khám xét thu giữ.
Hoàng Văn H: được chia 04 nhẫn kim loại màu trng, 01 vật trang sức dạng
hình móng động vật có bọc kim loại màu trng; H đã bán 04 nhẫn kim loại màu
trng cho tiệm kinh doanh vàng bạc Thi T2 của bà Đoàn Thị Thanh H3 được số
tiền 250.000đ.
3
Lý Văn T1: được chia 09 nhẫn kim loại màu trng, T1 đã bán 09 chiếc nhẫn
của mình cho Lý A S, được số tiền 250.000đ.
Tài sản thu hồi được gồm: Bà Đoàn Thị Thanh H3 giao nộp 04 nhẫn kim loại
màu trng và 01 thanh kim loại màu trng; ông Lý Văn Đ giao nộp 01 nhẫn kim
loại màu trng và 01 nhẫn kim loại màu vàng; ông Lý A S giao nộp 12 nhẫn kim
loại màu trng; ông Vương Văn C3 giao nộp 02 nhẫn kim loại màu trng; bà
Hoàng Thị S2 giao nộp 01 nhẫn kim loại màu vàng. Quá trình khám xét tại nhà
Giàng Seo T Cơ quan điều tra thu giữ: 15 nhẫn kim loại màu trng, 02 vòng đeo
tay bằng kim loại màu trng, 04 vật trang sức dạng hình móng động vật có bọc kim
loại màu trng.
Đối với các ông S1, S3 T3, V1, bố của C2, Khánh H4 và Hầu Văn V trong
quá trình điều tra do chưa xác định được nhân thân lai lịch nên không thu hồi được
số tài sản trên.
* Tại kết luận định giá tài sản số 33/KL-HDĐGTS ngày 18/9/2023 của Hội
đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện E kết luận: Tổng tài sản thu hồi
được qua giám định vàng, bạc, đá quý và kết quả định giá tài sản trong vụ án là:
14.018.000đ (Mười bốn triệu không trăm mười tám nghìn đồng).
Vụ thứ hai: Giữa tháng 4/2023 (không xác định được ngày), để có tiền tiêu
xài cá nhân, Giàng Seo T rủ Lý Văn C đi trộm cp tài sản. Đến khoảng 23 giờ, T
và C phát hiện bên hông tiệm tạp hóa của ông Nguyễn Văn T6, địa chỉ xã K, huyện
E, không xây tường kiên cố mà chỉ ốp bằng tôn nên C sử dụng cây kéo mang theo
để ct lớp tôn bên hông quán tạp hóa rồi đột nhập vào bên trong trộm cp số tiền
8.000.000đ, 01 con heo đất bên trong có số tiền 400.000đ; 01 điện thoại di động
nhãn hiệu Vsmart và 19 thẻ cào điện thoại mệnh giá 20.000đ, 01 thẻ cào điện thoại
mệnh giá 100.000đ.
Sau khi trộm cp được tài sản, C quay về lại nhà của T để chia những tài sản
trộm cp được trong đó:
Lý Văn C được chia số tiền 4.400.000đ; Đối với chiếc điện thoại di động
nhãn hiệu Vsmart C đã vứt trên đường.
Giàng Seo T được chia số tiền 4.000.000đ; Đối với 19 thẻ cào điện thoại
mệnh giá 20.000đ, 01 thẻ cào điện thoại mệnh giá 100.000đ T chưa sử dụng mà cất
giấu tại nhà.
Tài sản thu giữ trong quá trình khám xét nhà của Giàng Seo T gồm: 19 thẻ
cào điện thoại mệnh giá 20.000đ, 01 thẻ cào điện thoại mệnh giá 100.000đ
Tại kết luận định giá tài sản số 33/KL-HDĐGTS ngày 18/9/2023 của Hội
đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện E kết luận: 01 điện thoại di động
nhãn hiệu Vsmart, màu đen có giá trị 433.000đ. Như vậy, tổng giá trị tài sản bị
trộm cp trong vụ án trên là 9.313.000đ (Chín triệu ba trăm mười ba nghìn đồng).
Vụ thứ ba: Khoảng đầu tháng 5/2023 (không xác định được ngày), trong lúc
Giàng Seo T làm thuê cho công trình đường liên xã K và xã R thuộc xã K, huyện E
4
thì thấy anh Nguyễn Văn P là quản lý của công trình có sử dụng 02 điện thoại di
động. Vì vậy, T đã rủ Lý Văn C và Lý Văn T1 trộm cp tài sản của ông P; C và T1
đồng ý tham gia. Đến khoảng 23 giờ, T điều khiển xe môtô, biển số 81D1 -
193.29, nhãn hiệu YaMaha chở C và T1 đến gần ngôi nhà mà ông P thuê. Đến nơi,
C đột nhập vào bên trong trộm cp 01 điện thoại di động nhãn hiệu SamSung, hiệu
A23 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu SamSung, hiệu J7; còn T1 thì đứng bên
ngoài để cảnh giới. Sau khi lấy được tài sản cả ba cùng đi về nhà của T để ngủ.
Đến sáng ngày hôm sau, C đưa cho T1 01 điện thoại di động nhãn hiệu
SamSung, loại J7, để đi bán nhưng do chiếc điện thoại đã cũ và bể màn hình nên
T1 không bán được mà vứt bỏ trên đường đi tiêu thụ tài sản; Đối với chiếc điện
thoại di động nhãn hiệu SamSung, loại A23, C đã bán cho một người đàn ông tên
S3 (không xác định được nhân thân, lai lịch) được số tiền 1.300.000đ.
Tại kết luận định giá tài sản số 33/KL-HDĐGTS ngày 18/9/2023 của Hội
đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện E kết luận:
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu SamSung, loại A23, màu đen có giá trị
2.000.000đ (Hai triệu đồng);
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu SamSung, loại J7, màu đen có giá trị
267.000đ (Hai trăm sáu mươi bảy nghìn đồng).
Như vậy, tổng giá trị tài sản bị trộm cp là 2.267.000đ (Hai triệu hai trăm sáu
mươi bảy nghìn đồng).
Vụ thứ tư: Vào buổi tối ngày 19/5/2023, do không có phương tiện để đi lại
nên Lý Văn C rủ Hoàng Văn H và Lý Văn T1 đi tìm kiếm phương tiện để trộm
cp. Đến 16 giờ cùng ngày, H điều khiển xe môtô biển số 59Y2 – 515.81, nhãn
hiệu Honda chở C và T1 ngồi phía sau đi từ xã K, huyện E đến huyện J, tỉnh Đk
Nông. Khi đến nhà ông Lang Văn P1 (trú tại xã P, huyện J, tỉnh Đk Nông), C
phát hiện 01 xe môtô biển số 48D1 – 406.20, nhãn hiệu YaMaha, loại xe Sirius,
màu đen, được dựng trước cửa nhà nên C và T1 xuống xe, còn H thì điều khiển xe
chạy lên phía trước để đợi và cảnh giới. Sau đó, C và T1 đột nhập vào trong sân
thấy xe không có chìa khóa nên C và T1 cùng nhau dt xe ra bên ngoài một đoạn,
rồi C sử dụng con dao (C lấy từ nhà ông Lang Văn P1) để ct dây điện của khóa xe
rồi đạp nổ máy xe chở T1 về lại huyện E. Trên đường về, C vứt con dao xuống
ruộng lúa. Sau khi về lại huyện E, C sử dụng chiếc xe trộm cp được làm phương
tiện đi lại.
Tài sản thu hồi: 01 xe môtô biển số 48D1 – 406.20, nhãn hiệu YaMaha, loại
xe Sirius, màu đen được thu giữ trong quá trình khám xét nhà của Giàng Seo T.
Tại kết luận định giá tài sản số 33/KL-HDĐGTS ngày 18/9/2023 của Hội
đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện E kết luận: 01 xe môtô biển số
48D1 – 406.20, nhãn hiệu YaMaha, loại xe Sirius, màu đen có giá trị 9.117.000đ
(Chín triệu một trăm mười bảy nghìn đồng).
5
Vụ thứ năm: Tối ngày 26/5/2023, Giàng Seo T rủ H, C, T1 đi trộm cp. T
điều khiển xe môtô, biển số 81D1 - 193.29 chở Lý Văn T1; còn Hoàng Văn H điều
khiển xe môtô biển số 48D1 – 406.20 chở Lý Văn C đi từ nhà của T đến xã K,
huyện E để trộm cp, khi đến tiệm tạp hóa của ông Nguyễn Văn Q địa chỉ xã K,
huyện E, C thấy cửa tiệm tạp hóa không khóa mà chỉ móc ổ khóa bên trong nên
bảo T1 đứng ở ngoài để cảnh giới còn C đột nhập vào bên trong trộm cp được: 01
điện thoại di động hiệu oppo, 02 điện thoại di động hiệu Realme, số tiền lẻ nhiều
mệnh giá khác nhau tổng cộng khoảng 700.000đ và 20 thẻ cào điện thoại loại
Vinaphone, mệnh giá 20.000đ; Sau khi trộm cp được tài sản, cả hai quay về lại
nhà của T để chia những tài sản trộm cp được cụ thể:
- Lý Văn C được chia 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo và số tiền
140.000đ; C bán 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo cho Lý A S được số tiền
1.600.000đ.
- Lý Văn T1 được chia 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme (T1 bán cho
tiệm điện thoại C2 Mobile do ông Vũ Mạnh C2 được số tiền 250.000đ; 01 điện
thoại di động nhãn hiệu Realme, T1 bán cho bà Trần Thị Bích P2 được số tiền
450.000đ và được chia số tiền 140.000đ.
- Giàng Seo T được chia số tiền 140.000đ và 20 thẻ cào điện thoại loại
Vinaphone, mệnh giá 20.000đ.
- Hoàng Văn H được chia số tiền khoảng 400.000đ.
Tài sản thu hồi gồm: Ông Lý A S giao nộp 01 điện thoại di động, nhãn hiệu
Oppo, loại Reno8; ông Vũ Mạnh C2 giao nộp 01 điện thoại di động nhãn hiệu
Redme, loại 9A, màu xanh; thu giữ tại nhà Giàng Seo T 20 thẻ cào điện thoại loại
Vinaphone, mệnh giá 20.000đ; Làm việc với bà Trần Thị Bích P2 cho biết chiếc
điện thoại di động nhãn hiệu Redme, loại 9A, màu đen bà mua của Lý Văn T1 đã
bán lại cho một người đàn ông không rõ nhân thân lai lịch nên không thu hồi tài
sản được.
Tại kết luận định giá tài sản số 18/KL-HDĐGTS ngày 02/6/2023 của Hội
đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện E kết luận: 01 điện thoại di động
nhãn hiệu OPPO, loại reno 8 có giá trị 6.067.000đ; 01 điện thoại di động Realme
loại 9A, màu xanh có giá trị là 767.000đ; 01 điện thoại di động Realme loại 9A,
màu đen có giá trị là 767.000đ. Tổng tài sản các bị cáo trộm cp trong vụ án trên là
8.001.000đ (Tám triệu không trăm lẻ một nghìn đồng).
Vụ thứ sáu: Vào đêm ngày 14/7/2023, Giàng Seo T rủ Lý Văn C đi trộm cp
tài sản, T điều khiển xe môtô, biển số 81D1 - 193.29 chở C ngồi phía sau rồi đi
loanh quanh trong địa bàn xã K để tìm kiếm tài sản trộm cp. Khi đến cửa hàng tạp
hóa Thu C2 của bà Nguyễn Thị T4, địa chỉ xã K, huyện E thì C xuống xe, còn T
thì điều khiển xe về nhà của mình. Sau đó, C đi ra phía sau tiệm tạp hóa rồi trèo
tường vào bên trong thì thấy có một cánh cửa được ngăn bằng thanh kim loại nên
C kéo mạnh cửa thì cửa mở ra. C đột nhập vào bên trong tiệm tạp hóa trộm cp 01
6
túi màu đen bên trong có: 01 xấp thẻ cào điện thoại, trị giá khoảng 1.000.000đ; 01
xấp tiền được buộc bằng dây thun gồm các mệnh giá 500.000đ, 200.000đ và
100.000đ, với tổng số tiền là 83.000.000đ, Số tiền lẻ gồm các mệnh giá: 50.000đ,
20.000đ, 10.000đ, 5.000đ, 2.000đ và 1.000đ tổng cộng khoảng 6.000.000đ; Tổng
số tiền trộm cp được là 90.000.000đ (Chín mươi triệu đồng).
Giàng Seo T được chia số tiền khoảng 46.000.000đ. Lý Văn C được chia số
tiền khoảng 44.000.000đ. Số tiền được chia, C mua 01 xe môtô, gn biển số 47N9
– 6421 màu trng với số tiền 7.200.000đ và sửa chữa xe hết 600.000đ Số tiền còn
lại C sử dụng hết vào mục đích cá nhân. Quá trình điều tra, Lý Văn C đã giao nộp
chiếc xe trên.
Trong quá trình khám xét nhà ở của Giàng Seo T, Cơ quan CSĐT Công an
huyện E còn tạm giữ: 01 túi dạng da, màu đen; 01 vòng đeo tay dạng đá, màu
xanh; 01 hộp vải, màu đỏ, kích thước (9x9x3,5)cm; 01 ví da màu hồng, kích thước
(10x20)cm; 02 đồng xu bằng kim loại màu trng, đường kính 04cm; 01 hộp nhựa,
màu trng có np đậy kích thước (10x6x8)cm và số tiền gồm: 01 tờ tiền mệnh giá
10.000đ; 30 tờ tiền mệnh giá 5.000đ; 08 tờ tiền mệnh giá 1.000đ. Qua làm việc,
Hoàng Thị S2, sinh năm 1996, hiện đang cư trú tại Thôn 9, xã K, huyện E cho biết
những đồ vật, tài sản trên do Hoàng Thị S2 là chủ sỡ hữu.
Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT Công an huyện E đã xử lý trả lại cho
những chủ sở hữu các tài sản gồm:
- Ông Đào Văn P3 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme, loại 9A; ông
Nguyễn Văn T5 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, loại Reno8; ông Nguyễn
Văn Q 20 thẻ cào điện thoại loại Vinaphone, mệnh giá 20.000đ; ông Nguyễn Văn
T6 19 thẻ cào điện thoại loại Viettel mệnh giá 20.000đ, 01 thẻ cào điện thoại loại
Viettel mệnh giá 100.000đ; anh Lang Văn P1, 01 xe môtô, nhãn hiệu YaMaHa
biển số 48D1- 406.20; Anh Trần Trung H1 gồm: 13 nhẫn màu trng viền 2 bên có
luồn sợi màu đen, 01 vòng đeo tay màu trng, 01 vòng đeo tay màu trng có luồn
sợi màu đen, 04 vật trang sức dạng hình móng động vật có bọc kim loại màu trng,
01 nhẫn kim loại màu vàng có luồn sợi màu đen, 01 nhẫn kim loại màu vàng có
đính đá màu trng, 01 thanh kim loại màu trng, 05 nhẫn màu trng đính đá màu
đỏ, 08 nhẫn màu trng đính đá xanh đen; Bà Hoàng Thị S2 01 túi dạng da màu
đen, 01 vòng đeo tay dạng đá, màu xanh, 01 hộp vải màu đỏ, 01 ví da màu hồng,
02 đồng xu bằng kim loại màu trng, 01 hộp nhựa màu trng và số tiền gồm: 01 tờ
tiền mệnh giá 10.000đ, 30 tờ tiền mệnh giá 5.000đ, 08 tờ tiền mệnh giá 1.000đ.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 13/2024/HS-ST ngày 11/01/2024 của Tòa
án nhân dân huyện E, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g
khoản 1 Điều 52; Điều 91, Điều 101 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ
sung năm 2017.
7
Xử phạt bị cáo Hoàng Văn H 09 tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù
được tính kể từ bt thi hành án. Bị cáo được khấu trừ thời gian đã tạm giữ từ ngày
28/5/2023 đến ngày 06/6/2023.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định hình phạt đối với 02 bị cáo khác, và
xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy
định của pháp luật.
Ngày 18/01/2024, bị cáo Hoàng Văn H có đơn kháng cáo với nội dung xin
giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đk Lk tham gia phiên tòa đã phân
tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng: Bản án
sơ thẩm tuyên xử bị cáo Hoàng Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1
Điều 173 BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xét mức hình
phạt 09 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo là có phần nghiêm khc.
Đề nghị HĐXX áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ
luật tố tụng hình sự: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng Văn H. Sửa bản án
hình sự sơ thẩm số 13/2024/HS-ST ngày 11/01/2024 của Tòa án nhân dân huyện
E, tỉnh Đk Lk về hình phạt đối với bị cáo Hoàng Văn H. Xử phạt bị cáo 06 tháng
tù, về tội “Trộm cắp tài sản”.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng
nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật.
Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo Hoàng Văn H đồng ý về tội danh và
điều khoản của Bộ luật hình sự mà Bản án sơ thẩm đã áp dụng đối với bị cáo. Tuy
nhiên, mức hình phạt mà cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là có phần nghiêm
khc. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về việc giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là
phù hợp. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, phạm tội khi chưa thành niên, tài sản
chiếm đoạt không lớn, là người dân tộc thiểu số nên khả năng nhận thức có phần
hạn chế và là người bị rủ rê, bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, có nhân thân tốt. Do
đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm nhẹ
hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.
Bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị cáo đồng ý với quan điểm tranh luận
của người bào chữa và không tranh luận gì thêm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được
thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội
đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Hoàng Văn H đã khai nhận toàn bộ hành
vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại
8
phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong
hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận:
Vào đêm ngày 18/5/2023 Lý Văn C, Giàng Seo T, Hoàng Văn H và Lý Văn
T1 đã cùng nhau bàn bạc trộm cp tại tiệm vàng bạc của anh Trần Trung H1 gồm
vàng, bạc, vòng đeo tay có tổng trị giá là 14.018.000đ. Vào ngày 19/5/2023 Lý
Văn C, Hoàng Văn H và Lý Văn T1 đã trộm cp của gia đình anh Lang Văn P1 tại
huyện J, Đk Nông 01 xe mô tô BKS 48D1-406.20 có trị giá 9.117.000đ. Vào tối
ngày 26/5/2023 Lý Văn C, Giàng Seo T, Hoàng Văn H và Lý Văn T1 đã cùng
nhau thực hiện trộm cp tại gia đình anh Nguyễn Văn Q xã K gồm 03 điện thoại,
tiền mặt và thẻ cào có tổng trị giá là: 8.001.000đ.
Hoàng Văn H trực tiếp tham gia 03 lần trộm cp tài sản cùng với các bị cáo
C, T và T1, tổng giá trị tài sản trộm cp là 31.136.000 đồng.
Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Hoàng Văn H về tội “Trộm
cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo Hoàng Văn H, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét và áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng quy định tại điểm r, h, s khoản 1, 2 Điều 51
BLHS và xử phạt bị cáo 09 tháng tù là thoả đáng, tương xứng với tính chất mức độ
hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo không cung
cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới, bị cáo phạm tội nhiều lần và bị áp dụng tình
tiết tăng nặng tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS. Vì vậy, căn cứ điểm b khoản 1
Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo xin giảm
nhẹ và hưởng án treo của bị cáo mà cần giữ nguyên mức hình phạt của bản án hình
sự sơ thẩm số 13/2024/HS-ST ngày 11/01/2024 của Tòa án nhân dân huyện E, tỉnh
Đk Lk.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[5] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị
cáo Hoàng Văn H phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Tuy nhiên, bị cáo thuộc
diện hộ nghèo và là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế
đặc biệt khó khăn có đơn xin miễn án phí, nên áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12
Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ
Quốc hội, miễn án phí hình sự phúc thẩm cho bị cáo.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
[1] Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.
9
Không Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng Văn H. Giữ nguyên bản án
hình sự sơ thẩm số 13/2024/HS-ST ngày 11/01/2024 của Tòa án nhân dân huyện
E, tỉnh Đk Lk.
[2] Về tội danh và mức hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, r, s
khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 91, Điều 101 của Bộ luật
hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt: Bị cáo Hoàng Văn H 09 (chín) tháng tù. Thời gian chấp hành hình
phạt tù được tính từ ngày bt thi hành án. Bị cáo được khấu trừ thời gian đã tạm
giữ từ ngày 28/5/2023 đến ngày 06/6/2023.
[3] Về án phí: Bị cáo được miễn án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị
kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo,
kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- TAND Tối cao; TAND Cấp cao; Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa
- VKSND tỉnh Đk Lk
- VP CSĐT Công an tỉnh Đk Lk;
- Sở Tư pháp tỉnh Đk Lk; (Đã ký)
- TAND huyện Ea Súp;
- VKSND huyện Ea Súp;
- Chi cục THADS huyện E; Trịnh Văn Toàn
- Công an huyện Ea Súp;
- Bị cáo;
- Lưu hồ sơ
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 12/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 10/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 19/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 06/02/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 05/02/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 31/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 30/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 24/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 19/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 19/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 16/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 09/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 05/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 03/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 29/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 28/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 28/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 27/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 20/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm