Bản án số 73/2024/HS-PT ngày 26-03-2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về về tội trộm cắp tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
  • 73_2024_HS-PT_ DAK LAK

    Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

  • 73_2024_HS-PT_ DAK LAK

    Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 73/2024/HS-PT

Tên Bản án: Bản án số 73/2024/HS-PT ngày 26-03-2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về về tội trộm cắp tài sản
Tội danh: 173.Tội trộm cắp tài sản (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk
Số hiệu: 73/2024/HS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 26/03/2024
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Hoàng Văn H về tội trộm cắp tài sản
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 73/2024/HS-PT
Ngày 26-3-2024.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Trịnh Văn Toàn.
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Đình Triết và ông Nguyễn Duy Thuấn
- Thư phiên tòa: Lại Thị Minh Hiền Thư Toà án nhân dân tỉnh
Đk Lk.
- Đại diện viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa:
Nguyễn Thị Mai Phương - Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đk Lk xét x
phúc thm công khai v án hình s thụ số 53/2024/TLPT-HS ngày 19 tháng 02
năm 2024 đối với bị cáo Hoàng Văn H. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án
hình sự thẩm số 13/2024/HS-ST ngày 11/01/2024 của Tòa án nhân dân huyện
E, tỉnh Đk Lk.
* Bị cáo có kháng cáo:
Họ tên: Hoàng Văn H, sinh ngày 05/5/2007 tại Gia Lai; nơi trú: I,
huyện C, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 03/12; quốc tịch:
Việt Nam; dân tộc: Mông; tôn giáo: Tin lành; con ông Hoàng Văn L (đã chết)
Lý Thị D, sinh năm: 1983; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: không; bị cáo
bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ từ ngày 28/5/2023 đến ngày 06/6/2023
được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. B cáo ti ngoi, có mt
ti phiên tòa.
* Người bào chữa cho bị cáo Hoàng Văn H: Ông Phạm Công M Trợ giúp
viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Đk Lk; mặt.
* Người đại diện hợp pháp cho bị cáo Hoàng Văn H: Thị D, sinh năm
1983; nơi thường trú: Xã I, huyện C, Gia Lai. Nơi ở hiện nay: Xã H, huyện B, tỉnh
Bình Dương
Ngoài ra, trong vụ án 02 bị cáo khác Văn C Giàng Seo T không
có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
2
Theo các tài liệu trong hồ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung v
án như sau:
Do đã quen biết nhau từ trước nên Văn C, Giàng Seo T, Hoàng Văn H
Lý Văn T1 đã bàn bạc, thống nhất cùng nhau thực hiện các vụ trộm cp tài sản trên
địa bàn huyện E, tỉnh Đk Lk và huyện J, tỉnh Đk Nông cụ thể:
Vụ thứ nhất: Khoảng 23 giờ 00 phút ngày 18/5/2023, Hoàng Văn H điều
khiển xe mô tô, biển số 59Y2 515.81, nhãn hiệu Honda, loại Wave chở Văn
C; Giàng Seo T điều khiển xe tô, biển số 81D1 - 193.29, nhãn hiệu YaMaha,
loại Sirius chở Văn T1 và mang theo 02 cây loại 17-19 để trong cốp xe,
rồi cùng nhau đi đến chợ Trung tâm huyện E với mục đích tìm tài sản để trộm cp.
Khi đi đến chợ huyện E, H T dừng xe đứng chờ canh gác bên ngoài, còn C
T1 đi bộ vào chợ để tìm kiếm tài sản trộm cp. Khi đến cửa hàng kinh doanh
vàng bạc Kim Trung H2” do anh Trần Trung H1 là chủ sở hữu, C sử dụng 02 cây
mang theo để phá khóa bên ngoài. Sau đó, C T1 đột nhập vào bên trong
trộm cp: 41 nhẫn kim loại màu trng, 04 nhẫn kim loại u vàng, 02 vòng đeo
tay bằng kim loại màu trng, 05 vật trang sức dạng hình móng động vật có bọc kim
loại màu trng. Sau đó, C T1 quay lại địa điểm H T đang đợi rồi tất c
cùng nhau đi về nhà của T để chia những tài sản trộm cp được cụ thể:
Văn C: được chia 11 nhẫn kim loại màu trng 02 nhẫn kim loại màu
vàng, C đem bán 03 nhẫn kim loại màu trng tại tiệm kinh doanh vàng bạc Thi T2
của Đoàn Thị Thanh H3 (ttại E, huyện H, tỉnh Đk Lk), được 600.000
đồng. Sau khi mua, H3 đã xbằng cách nung chảy số nhẫn này thành 01
thanh kim loại màu trng; Văn Đ được chia 01 nhẫn kim loại màu vàng 01
nhẫn kim loại màu trng,sau đó bán cho Lý A S 03 nhẫn kim loại màu trng và bán
cho người tên S1 (không rõ nhân thân, lai lịch) 01 nhẫn kim loại màu trng
người tên S3 T3 (không nhân thân, lai lịch) 01 nhẫn kim loại màu trng,
người tên V1 01 nhẫn kim loại màu trng, đổi cho bố của C2 01 nhẫn kim loại màu
trng lấy 01 lít xăng; cho Khánh H4 (không nhân thân, lai lịch) mượn 01
nhẫn kim loại màu vàng; C tiêu xài cá nhân hết số tiền trên.
Giàng Seo T: được chia 17 nhẫn kim loại màu trng, 03 nhẫn kim loại màu
vàng, 02 vòng đeo tay bằng kim loại màu trng, 04 vật trang sức dạng hình móng
động vật bọc kim loại màu trng; T đã bán cho Hầu Văn V (không nhân
thân, lai lịch) 02 nhẫn kim loại màu vàng được số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn
đồng); T đổi 02 nhẫn kim loại màu trng cho Vương Văn C3 lấy 01 con trống;
T đưa cho Hoàng Thị S2 01 nhẫn kim loại màu vàng. Số tài sản còn lại T cất giấu
tại nhà chưa tiêu thụ thì bị Cơ quan Công an khám xét thu giữ.
Hoàng Văn H: được chia 04 nhẫn kim loại màu trng, 01 vật trang sức dạng
hình móng động vật bọc kim loại màu trng; H đã bán 04 nhẫn kim loại màu
trng cho tiệm kinh doanh vàng bạc Thi T2 của Đoàn Thị Thanh H3 được số
tiền 250.000đ.
3
Văn T1: được chia 09 nhẫn kim loại màu trng, T1 đã bán 09 chiếc nhẫn
của mình cho Lý A S, được số tiền 250.000đ.
Tài sản thu hồi được gồm: Đoàn Thị Thanh H3 giao nộp 04 nhẫn kim loại
màu trng 01 thanh kim loại màu trng; ông Văn Đ giao nộp 01 nhẫn kim
loại màu trng 01 nhẫn kim loại màu vàng; ông A S giao nộp 12 nhẫn kim
loại màu trng; ông Vương Văn C3 giao nộp 02 nhẫn kim loại màu trng;
Hoàng Thị S2 giao nộp 01 nhẫn kim loại màu vàng. Quá trình khám xét tại nhà
Giàng Seo T quan điều tra thu giữ: 15 nhẫn kim loại màu trng, 02 vòng đeo
tay bằng kim loại màu trng, 04 vật trang sức dạng hình móng động vật có bọc kim
loại màu trng.
Đối với các ông S1, S3 T3, V1, bố của C2, Khánh H4 và Hầu Văn V trong
quá trình điều tra do chưa xác định được nhân thân lai lịch nên không thu hồi được
số tài sản trên.
* Tại kết luận định giá tài sản số 33/KL-HDĐGTS ngày 18/9/2023 của Hội
đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện E kết luận: Tổng tài sản thu hồi
được qua giám định vàng, bạc, đá quý kết quả định giá tài sản trong vụ án là:
14.018.000đ (Mười bốn triệu không trăm mười tám nghìn đồng).
Vụ thứ hai: Giữa tháng 4/2023 (không xác định được ngày), để tiền tiêu
xài nhân, Giàng Seo T rủ Văn C đi trộm cp tài sản. Đến khoảng 23 giờ, T
và C phát hiện bên hông tiệm tạp hóa của ông Nguyễn Văn T6, địa chỉ xã K, huyện
E, không xây tường kiên cố chỉ ốp bằng tôn nên C sử dụng cây kéo mang theo
để ct lớp tôn bên hông quán tạp hóa rồi đột nhập vào bên trong trộm cp số tiền
8.000.000đ, 01 con heo đất bên trong số tiền 400.000đ; 01 điện thoại di động
nhãn hiệu Vsmart và 19 thẻ cào điện thoại mệnh giá 20.000đ, 01 thẻ cào điện thoại
mệnh giá 100.000đ.
Sau khi trộm cp được tài sản, C quay về lại nhà của T để chia những tài sản
trộm cp được trong đó:
Văn C được chia số tiền 4.400.000đ; Đối với chiếc điện thoại di động
nhãn hiệu Vsmart C đã vứt trên đường.
Giàng Seo T được chia số tiền 4.000.000đ; Đối với 19 thẻ cào điện thoại
mệnh giá 20.000đ, 01 thẻ cào điện thoại mệnh giá 100.000đ T chưa sử dụng mà cất
giấu tại nhà.
Tài sản thu giữ trong quá trình khám xét nhà của Giàng Seo T gồm: 19 thẻ
cào điện thoại mệnh giá 20.000đ, 01 thẻ cào điện thoại mệnh giá 100.000đ
Tại kết luận định giá tài sản số 33/KL-HDĐGTS ngày 18/9/2023 của Hội
đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện E kết luận: 01 điện thoại di động
nhãn hiệu Vsmart, màu đen giá trị 433.000đ. Như vậy, tổng giá trị tài sản bị
trộm cp trong vụ án trên là 9.313.000đ (Chín triệu ba trăm mười ba nghìn đồng).
Vụ thứ ba: Khoảng đầu tháng 5/2023 (không xác định được ngày), trong lúc
Giàng Seo T làm thuê cho công trình đường liên xã K và xã R thuộc xã K, huyện E
4
thì thấy anh Nguyễn Văn P quản của công trình sử dụng 02 điện thoại di
động. Vì vậy, T đã rủ Lý Văn CLý Văn T1 trộm cp tài sản của ông P; C và T1
đồng ý tham gia. Đến khoảng 23 giờ, T điều khiển xe môtô, biển s 81D1 -
193.29, nhãn hiệu YaMaha chở C và T1 đến gần ngôi nhà ông P thuê. Đến nơi,
C đột nhập vào bên trong trộm cp 01 điện thoại di động nhãn hiệu SamSung, hiệu
A23 01 điện thoại di động nhãn hiệu SamSung, hiệu J7; còn T1 thì đứng bên
ngoài để cảnh giới. Sau khi lấy được tài sản cả ba cùng đi về nhà của T để ngủ.
Đến sáng ngày hôm sau, C đưa cho T1 01 điện thoại di động nhãn hiệu
SamSung, loại J7, để đi bán nhưng do chiếc điện thoại đã bể màn hình nên
T1 không bán được vứt bỏ trên đường đi tiêu thụ tài sản; Đối với chiếc điện
thoại di động nhãn hiệu SamSung, loại A23, C đã bán cho một người đàn ông tên
S3 (không xác định được nhân thân, lai lịch) được số tiền 1.300.000đ.
Tại kết luận định giá tài sản số 33/KL-HDĐGTS ngày 18/9/2023 của Hội
đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện E kết luận:
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu SamSung, loại A23, màu đen giá trị
2.000.000đ (Hai triệu đồng);
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu SamSung, loại J7, màu đen giá trị
267.000đ (Hai trăm sáu mươi bảy nghìn đồng).
Như vậy, tổng giá trị tài sản bị trộm cp là 2.267.000đ (Hai triệu hai trăm sáu
mươi bảy nghìn đồng).
Vụ thứ : Vào buổi tối ngày 19/5/2023, do không có phương tiện để đi lại
nên Văn C rủ Hoàng Văn H Văn T1 đi tìm kiếm phương tiện để trộm
cp. Đến 16 giờ cùng ngày, H điều khiển xe môtô biển số 59Y2 515.81, nhãn
hiệu Honda chở C T1 ngồi phía sau đi từ K, huyện E đến huyện J, tỉnh Đk
Nông. Khi đến nhà ông Lang Văn P1 (trú tại P, huyện J, tỉnh Đk Nông), C
phát hiện 01 xe môtô biển số 48D1 406.20, nhãn hiệu YaMaha, loại xe Sirius,
màu đen, được dựng trước cửa nhà nên C T1 xuống xe, còn H thì điều khiển xe
chạy lên phía trước để đợi cảnh giới. Sau đó, C T1 đột nhập vào trong sân
thấy xe không có chìa khóa nên C T1 cùng nhau dt xe ra bên ngoài một đoạn,
rồi C sử dụng con dao (C lấy từ nhà ông Lang Văn P1) để ct dây điện của khóa xe
rồi đạp nổ máy xe chở T1 về lại huyện E. Trên đường về, C vứt con dao xuống
ruộng lúa. Sau khi vlại huyện E, C sử dụng chiếc xe trộm cp được làm phương
tiện đi lại.
Tài sản thu hồi: 01 xe môtô biển số 48D1 406.20, nhãn hiệu YaMaha, loại
xe Sirius, màu đen được thu giữ trong quá trình khám xét nhà của Giàng Seo T.
Tại kết luận định giá tài sản số 33/KL-HDĐGTS ngày 18/9/2023 của Hội
đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện E kết luận: 01 xe môtô biển số
48D1 406.20, nhãn hiệu YaMaha, loại xe Sirius, màu đen giá trị 9.117.000đ
(Chín triệu một trăm mười bảy nghìn đồng).
5
Vụ thứ năm: Tối ngày 26/5/2023, Giàng Seo T rủ H, C, T1 đi trộm cp. T
điều khiển xe môtô, biển số 81D1 - 193.29 chở Lý Văn T1; còn Hoàng Văn H điều
khiển xe môtô biển số 48D1 406.20 chở Văn C đi từ nhà của T đến K,
huyện E để trộm cp, khi đến tiệm tạp hóa của ông Nguyễn Văn Q địa chỉ K,
huyện E, C thấy cửa tiệm tạp hóa không khóa chmóc khóa bên trong nên
bảo T1 đứng ở ngoài để cảnh giới còn C đột nhập vào bên trong trộm cp được: 01
điện thoại di động hiệu oppo, 02 điện thoại di động hiệu Realme, số tiền lẻ nhiều
mệnh giá khác nhau tổng cộng khoảng 700.000đ 20 thẻ cào điện thoại loại
Vinaphone, mệnh giá 20.000đ; Sau khi trộm cp được tài sản, cả hai quay về lại
nhà của T để chia những tài sản trộm cp được cụ thể:
- Văn C được chia 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo số tiền
140.000đ; C bán 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo cho A S được số tiền
1.600.000đ.
- Văn T1 được chia 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme (T1 bán cho
tiệm điện thoại C2 Mobile do ông Mạnh C2 được số tiền 250.000đ; 01 điện
thoại di động nhãn hiệu Realme, T1 bán cho Trần Thị Bích P2 được số tiền
450.000đ và được chia số tiền 140.000đ.
- Giàng Seo T được chia số tiền 140.00 20 thẻ cào điện thoại loại
Vinaphone, mệnh giá 20.00.
- Hoàng Văn H được chia số tiền khoảng 400.000đ.
Tài sản thu hồi gồm: Ông A S giao nộp 01 điện thoại di động, nhãn hiệu
Oppo, loại Reno8; ông Mạnh C2 giao nộp 01 điện thoại di động nhãn hiệu
Redme, loại 9A, u xanh; thu giữ tại nhà Giàng Seo T 20 thẻ cào điện thoại loại
Vinaphone, mệnh giá 20.000đ; Làm việc với Trần Thị Bích P2 cho biết chiếc
điện thoại di động nhãn hiệu Redme, loại 9A, màu đen mua của Văn T1 đã
bán lại cho một người đàn ông không nhân thân lai lịch nên không thu hồi i
sản được.
Tại kết luận định giá tài sản số 18/KL-HDĐGTS ngày 02/6/2023 của Hội
đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện E kết luận: 01 điện thoại di động
nhãn hiệu OPPO, loại reno 8 giá trị 6.067.000đ; 01 điện thoại di động Realme
loại 9A, màu xanh giá trị 767.000đ; 01 điện thoại di động Realme loại 9A,
màu đen có giá trị là 767.000đ. Tổng tài sản các bị cáo trộm cp trong vụ án trên
8.001.000đ (Tám triệu không trăm lẻ một nghìn đồng).
Vụ thứ sáu: Vào đêm ngày 14/7/2023, Giàng Seo T rủ Lý Văn C đi trộm cp
tài sản, T điều khiển xe môtô, biển số 81D1 - 193.29 chở C ngồi phía sau rồi đi
loanh quanh trong địa bàn xã K để tìm kiếm tài sản trộm cp. Khi đến cửa hàng tạp
hóa Thu C2 của Nguyễn Thị T4, địa chỉ K, huyện E thì C xuống xe, còn T
thì điều khiển xe về nhà của mình. Sau đó, C đi ra phía sau tiệm tạp hóa rồi trèo
tường vào bên trong thì thấy một cánh cửa được ngăn bằng thanh kim loại nên
C kéo mạnh cửa thì cửa mở ra. C đột nhập vào bên trong tiệm tạp hóa trộm cp 01
6
túi màu đen bên trong có: 01 xấp thẻ cào điện thoại, trị giá khoảng 1.000.000đ; 01
xấp tiền được buộc bằng y thun gồm các mệnh giá 500.000đ, 200.000đ
100.000đ, với tổng số tiền 83.000.000đ, Số tiền lẻ gồm các mệnh giá: 50.000đ,
20.000đ, 10.000đ, 5.000đ, 2.000đ 1.000đ tổng cộng khoảng 6.000.000đ; Tổng
số tiền trộm cp được là 90.000.000đ (Chín mươi triệu đồng).
Giàng Seo T được chia số tiền khoảng 46.000.000đ. Văn C được chia số
tiền khoảng 44.000.000đ. Số tiền được chia, C mua 01 xe môtô, gn biển số 47N9
6421 màu trng với số tiền 7.200.000đ sửa chữa xe hết 600.000đ Số tiền còn
lại C sử dụng hết vào mục đích nhân. Quá trình điều tra, Văn C đã giao nộp
chiếc xe trên.
Trong quá trình khám xét nhà của Giàng Seo T, quan CSĐT Công an
huyện E còn tạm giữ: 01 túi dạng da, màu đen; 01 vòng đeo tay dạng đá, màu
xanh; 01 hộp vải, màu đỏ, kích thước (9x9x3,5)cm; 01 ví da màu hồng, kích thước
(10x20)cm; 02 đồng xu bằng kim loại màu trng, đường kính 04cm; 01 hộp nhựa,
màu trng np đậy kích thước (10x6x8)cm số tiền gồm: 01 tờ tiền mệnh giá
10.000đ; 30 tờ tiền mệnh giá 5.000đ; 08 tờ tiền mệnh giá 1.000đ. Qua làm việc,
Hoàng Thị S2, sinh năm 1996, hiện đang cư trú tại Thôn 9, xã K, huyện E cho biết
những đồ vật, tài sản trên do Hoàng Thị S2 là chủ sỡ hữu.
Quá trình điều tra, quan CSĐT Công an huyện E đã xử lý trả lại cho
những chủ sở hữu các tài sản gồm:
- Ông Đào Văn P3 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme, loại 9A; ông
Nguyễn Văn T5 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, loại Reno8; ông Nguyễn
Văn Q 20 thẻ cào điện thoại loại Vinaphone, mệnh giá 20.00; ông Nguyễn Văn
T6 19 thẻ cào điện thoại loại Viettel mệnh giá 20.000đ, 01 thẻ cào điện thoại loại
Viettel mệnh giá 100.000đ; anh Lang Văn P1, 01 xe môtô, nhãn hiệu YaMaHa
biển số 48D1- 406.20; Anh Trần Trung H1 gồm: 13 nhẫn màu trng viền 2 bên
luồn sợi màu đen, 01 vòng đeo tay màu trng, 01 vòng đeo tay màu trng luồn
sợi màu đen, 04 vật trang sức dạng hình móng động vật có bọc kim loại màu trng,
01 nhẫn kim loại màu vàng luồn sợi màu đen, 01 nhẫn kim loại màu vàng
đính đá màu trng, 01 thanh kim loại màu trng, 05 nhẫn màu trng đính đá màu
đỏ, 08 nhẫn màu trng đính đá xanh đen; Hoàng Thị S2 01 túi dạng da màu
đen, 01 vòng đeo tay dạng đá, u xanh, 01 hộp vải màu đỏ, 01 da màu hồng,
02 đồng xu bằng kim loại màu trng, 01 hộp nhựa màu trng và số tiền gồm: 01 tờ
tiền mệnh giá 10.000đ, 30 tờ tiền mệnh giá 5.000đ, 08 tờ tiền mệnh giá 1.000đ.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 13/2024/HS-ST ngày 11/01/2024 của Tòa
án nhân dân huyện E, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g
khoản 1 Điều 52; Điều 91, Điều 101 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ
sung năm 2017.
7
Xử phạt bcáo Hoàng Văn H 09 tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt
được tính kể từ bt thi hành án. Bị cáo được khấu trừ thời gian đã tạm giữ từ ngày
28/5/2023 đến ngày 06/6/2023.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định hình phạt đối với 02 bị cáo khác,
xử vật chứng, trách nhiệm dân sự, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy
định của pháp luật.
Ngày 18/01/2024, bị cáo Hoàng Văn H đơn kháng cáo với nội dung xin
giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đk Lk tham gia phiên tòa đã phân
tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo cho rằng: Bản án
thẩm tuyên xử bị cáo Hoàng Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sảntheo khoản 1
Điều 173 BLHS có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xét mức hình
phạt 09 tháng mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo có phần nghiêm khc.
Đề nghị HĐXX áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 B
luật tố tụng hình s: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng Văn H. Sửa bản án
hình sự thẩm số 13/2024/HS-ST ngày 11/01/2024 của Tòa án nhân dân huyện
E, tỉnh Đk Lk về hình phạt đối với bị cáo Hoàng Văn H. Xử phạt bị cáo 06 tháng
, về tội “Trộm cắp tài sản”.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng
nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật.
Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo Hoàng Văn H đồng ý v ti danh
điu khon ca B lut hình s Bản án thẩm đã áp dụng đi vi b cáo. Tuy
nhiên, mc hình pht cấp thẩm áp dụng đối vi b cáo phn nghiêm
khc. Đ ngh của đại din Vin kim sát v vic gim nh hình pht cho b cáo
phù hp. B cáo nhiu tình tiết gim nh, phm ti khi chưa thành niên, tài sn
chiếm đoạt không lớn, người dân tc thiu s nên kh năng nhận thc có phn
hn chế người b r rê, b cáo hoàn cảnh khó khăn, nhân thân tt. Do
đó, đề ngh Hội đng xét x xem xét chp nhn kháng cáo ca b cáo, gim nh
hình pht và cho b cáo được hưởng án treo.
B cáo, người đi din hp pháp cho b cáo đồng ý với quan đim tranh lun
của người bào cha và không tranh lun gì thêm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ ván đã được
thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội
đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Hoàng Văn H đã khai nhận toàn bhành
vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị cáo tại quan điều tra, tại
8
phiên tòa thẩm phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong
hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận:
Vào đêm ngày 18/5/2023 Văn C, Giàng Seo T, Hoàng Văn H Văn
T1 đã cùng nhau bàn bạc trộm cp tại tiệm vàng bạc của anh Trần Trung H1 gồm
vàng, bạc, vòng đeo tay tổng trị giá 14.018.000đ. Vào ngày 19/5/2023
Văn C, Hoàng Văn HLý Văn T1 đã trộm cp của gia đình anh Lang Văn P1 ti
huyện J, Đk Nông 01 xe BKS 48D1-406.20 trị giá 9.117.000đ. Vào tối
ngày 26/5/2023 Văn C, Giàng Seo T, Hoàng Văn H Văn T1 đã cùng
nhau thực hiện trộm cp tại gia đình anh Nguyễn Văn Q K gồm 03 điện thoại,
tiền mặt và thẻ cào có tổng trị giá là: 8.001.000đ.
Hoàng Văn H trực tiếp tham gia 03 lần trộm cp tài sản cùng với các bị cáo
C, T và T1, tổng giá trị tài sản trộm cp là 31.136.000 đồng.
Như vậy, Tòa án cấp thẩm đã xét xử bị cáo Hoàng Văn H về tội “Trộm
cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo Hoàng Văn H, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét và áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sbị cáo được hưởng quy định tại điểm r, h, s khoản 1, 2 Điều 51
BLHS và xử phạt bị cáo 09 tháng tù là thoả đáng, tương xứng với tính chất mức độ
hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo không cung
cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới, bị cáo phạm tội nhiều lần bị áp dụng tình
tiết tăng nặng tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS. Vì vậy, căn cứ điểm b khoản 1
Điều 355, Điều 356 Bộ luật ttụng hình sự, không chấp nhận kháng o xin giảm
nhẹ và hưởng án treo của bị cáo mà cần giữ nguyên mức hình phạt của bản án hình
sự sơ thẩm số 13/2024/HS-ST ngày 11/01/2024 của Tòa án nhân dân huyện E, tỉnh
Đk Lk.
[4] Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng o, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[5] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị
cáo Hoàng Văn H phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Tuy nhiên, bị cáo thuộc
diện hộ nghèo người dân tộc thiểu số, sinh sống vùng điều kiện kinh tế
đặc biệt khó khăn đơn xin miễn án phí, nên áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12
Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ
Quốc hội, miễn án phí hình sự phúc thẩm cho bị cáo.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
[1] Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.
9
Không Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng Văn H. Giữ nguyên bản án
hình sự thẩm s 13/2024/HS-ST ngày 11/01/2024 của Tòa án nhân dân huyện
E, tỉnh Đk Lk.
[2] Về tội danh mức hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, r, s
khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 91, Điều 101 của Bộ luật
hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt: Bcáo Hoàng Văn H 09 (chín) tháng tù. Thời gian chấp hành hình
phạt được tính từ ngày bt thi hành án. Bị cáo được khấu trừ thời gian đã tạm
giữ từ ngày 28/5/2023 đến ngày 06/6/2023.
[3] Về án phí: Bị cáo được miễn án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, không b
kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo,
kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- TAND Tối cao; TAND Cấp cao; Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa
- VKSND tỉnh Đk Lk
- VP CSĐT Công an tỉnh Đk Lk;
- Sở Tư pháp tỉnh Đk Lk; (Đã ký)
- TAND huyện Ea Súp;
- VKSND huyện Ea Súp;
- Chi cục THADS huyện E; Trịnh Văn Toàn
- Công an huyện Ea Súp;
- Bị cáo;
- Lưu hồ sơ
Tải về
73_2024_HS-PT_ DAK LAK 73_2024_HS-PT_ DAK LAK

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

73_2024_HS-PT_ DAK LAK 73_2024_HS-PT_ DAK LAK

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất