Bản án số 28/2025/DS ngày 16/05/2025 của TAND tỉnh Hòa Bình về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 28/2025/DS
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 28/2025/DS
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 28/2025/DS
Tên Bản án: | Bản án số 28/2025/DS ngày 16/05/2025 của TAND tỉnh Hòa Bình về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Hòa Bình |
Số hiệu: | 28/2025/DS |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 16/05/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp quyền sử dụng đất (kiện đòi tài sản) giữa nguyên đơn Trần Thị Mai A, Trần Duy K và bị đơn Trần Văn T |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÒA BÌNH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà:
Các Thẩm phán:
bà Hoàng Ngọc Liễu
ông Nguyễn Thanh T1
ông Vũ Văn Túc
- Thư ký phiên toà: bà Nguyễn Thúy Hằng - Thư ký Tòa án.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hoà Bình: ông Trần Mỹ Sơn - Kiểm
sát viên.
Ngày 16 tháng 5 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình, xét
xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 02/2025/TLPT- DS ngày
09/01/2025 về việc Tranh chấp quyền sử dụng đất (kiện đòi tài sản). Do Bản án
dân sự sơ thẩm số 20/2024/DS - ST ngày 20/11/2024 của Tòa án nhân dân thành
phố H, tỉnh Hòa Bình bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 22/2025/QĐ-PT ngày 08
tháng 4 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Đồng nguyên đơn: chị Trần Thị Mai A, sinh năm 1990 và anh Trần Duy
K, sinh năm 2004. Cùng địa chỉ: tiểu khu M, thị trấn L, huyện L, tỉnh Hòa Bình.
2. Bị đơn: ông Trần Văn T, sinh năm 1964. Địa chỉ: số nhà 329, tổ 6 phường
P, thành phố H, tỉnh Hòa Bình.
3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Trần Văn Ch, sinh năm 1948. Địa chỉ: ngõ T, tổ 10, phường P,
thành phố H, tỉnh Hòa Bình.
3.2. Bà Trần Thị H, sinh năm 1952. Địa chỉ: số 52, phố B, phường B quận
L, thành phố Hà Nội.
3.3. Ông Trần Thành Th, sinh năm 1954. Địa chỉ: tổ 3, phường P, thành
phố H, tỉnh Hòa Bình.
3.4. Ông Trần Văn B, sinh năm 1957 (đã chết năm 2023). Người kế thừa
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH HÒA BÌNH
Bản án số: 28/2025/DS - PT
Ngày: 16 - 5 - 2025
V/v Tranh chấp quyền sử dụng đất.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
quyền và nghĩa vụ của ông B: bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1958 và anh Trần Xuân
V, sinh năm 1982. Địa chỉ: tổ 1, phường T, thành phố H, tỉnh Hòa Bình; anh Trần
Ph, sinh năm 1984. Địa chỉ: tổ 3, phường T, thị xã Ng, tỉnh Yên Bái. Người đại
diện theo ủy quyền của bà Đ và anh Ph: anh Trần Xuân V.
3.5. Bà Trần Thị T, sinh năm 1959. Địa chỉ: số 282, đường Mỹ Đình,
phường M, quận N, thành phố Hà Nội.
3.6. Bà Hoàng Thị T1, sinh năm 1960. Địa chỉ: tổ 9, phường P, thành phố
H, tỉnh Hòa Bình.
4. Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: chị Nguyễn Thị L, sinh
năm 1999. Địa chỉ: số 26, ngõ 126 M, phường M, quận N, thành phố Hà Nội.
5. Người đại diện theo ủy quyền của ông T, bà H, ông Th, bà T và bà T1:
luật sư Trần Thị Ph thuộc Công ty luật TNHH N. Địa chỉ: LK 6 - 9, khu nhà ở dân
cư N, phường H, quận H, thành phố Hà Nội.
6. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn Trần Thị Mai
A: luật sư Nguyễn Thị T2 thuộc Công ty Luật TNHH K thuộc Đoàn Luật sư thành
phố Hà Nội. Địa chỉ: số 26, ngõ 126 M, phường M, quận N, thành phố Hà Nội.
7. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà H và người kháng cáo
khác: luật sư Nguyễn Đức T thuộc Công ty luật TNHH N thuộc Đoàn Luật sư
thành phố Hà Nội. Địa chỉ: LK 6 - 9, khu nhà ở dân cư N, phường H, quận H,
thành phố Hà Nội.
8. Ngoài ra Tòa án còn triệu tập: anh Trần Thanh T1, sinh năm 1984. Địa
chỉ: tổ 9, phường P, thành phố H, tỉnh Hòa Bình; chị Trần Thị Thanh H1, sinh
năm 1983. Địa chỉ: CH 1414 chung cư P Green Park, phường H, quận Hà Đông,
thành phố Hà Nội. Người đại diện theo ủy quyền của chị H1, anh T1: luật sư
Nguyễn Thị T2 thuộc Công ty Luật TNHH K thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà
Nội. Địa chỉ: số 26, ngõ 126 M, phường M, quận N, thành phố Hà Nội.
9. Người kháng cáo: bị đơn ông Trần Văn T và những người có quyền lợi
và nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị H, ông Trần Thành Th, bà Trần Thị T và bà
Hoàng Thị T1.
(Chị Mai A, anh K, chị L, bà H, luật sư Ph, luật sư T, luật sư T2, ông Ch,
anh V có mặt. Ông T, ông Th, bà T1, bà T, bà Đ, anh Ph, chị H1, anh T1 vắng
mặt nhưng đã có người đại diện theo ủy quyền).
NỘI DUNG VỤ ÁN;
Theo nội dung đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình tham gia tố tụng và
tại phiên tòa, nguyên đơn chị Trần Thị Mai A và anh Trần Duy K trình bày: Ông
bà nội của anh, chị là cụ Trần Văn B và cụ Bùi Thị H sinh được 08 người con là
ông Trần Văn Ch, ông Trần Thanh H, ông Trần Thành Th, ông Trần Văn B, ông
3
Trần Văn Th1, ông Trần Văn T, bà Trần Thị H và bà Trần Thị T, trong đó ông
Trần Văn Th1 là bố đẻ của chị A, anh K. Khi còn mạnh khỏe và minh mẫn, cụ
Trần Văn B đã chia 03 người con là ông Trần Văn B, Trần Văn T và Trần Văn
Th1 mỗi người một mảnh đất, điều này đã thể hiện tại di chúc viết tay của cụ B
lập ngày 08/7/1997, có xác nhận của Tổ dân phố và Ủy ban nhân dân phường P.
Thửa đất bố anh, chị được chia là thửa số 22, tờ bản đồ số 2, tổ 6, phường P, thành
phố H (nay là thửa đất số 21, tờ bản đồ 08, tổ 6, phường P, thành phố H). Sau khi
được chia quyền sử dụng đất, ông T và ông B đã xây dựng nhà ở trên phần được
chia. Riêng phần của ông Trần Văn Th1 chưa xây dựng nhà ở kiên cố do hay đi
làm ăn xa, sau này thường xuyên ốm đau bệnh tật nên chưa có điều kiện sang tên
quyền sử dụng sử dụng đất nên thửa đất vẫn để tên cụ Trần Văn B. Năm 1995,
sau khi ly hôn với bà Phạm Thị Đ, ông Trần Văn Th1 đã dựng nhà tạm cấp 4 để
ở và mở quán sửa, rửa xe tại đó. Khi ông Th1 chết, gia đình tổ chức làm ma tại
chính trên thửa đất này.
Trong quá trình chữa bệnh cho ông Th1, các anh chị em của ông Th1 đã họp
đề ra phương án bán thửa đất này để lo tiền chạy chữa cho ông Th1, nếu ông Th1
không qua khỏi thì mua một căn hộ để lo hương khói. Như vậy là mọi người đều
thừa nhận thửa đất này là tài sản của ông Th1. Sau khi ông Th1 chết, bác ruột của
anh chị là ông Trần Văn Ch đã quản lý mảnh đất này nhưng một thời gian sau đó,
bà Trần Thị H đã nêu ra ý kiến lấy phần đất di sản của ông Th1 để làm nhà thờ
họ. Sau đó, mặc dù không được sự đồng ý của anh chị cũng như sự phản đối của
ông Ch và một số bác khác, ông Trần Văn T đã ngang nhiên xây dựng trái phép
trên thửa đất này và Ủy ban nhân dân thành phố H đã chỉ đạo xử lý vi phạm của
ông Trần Văn T tại Công văn số 2770/UBND-QLĐT ngày 05/8/2021. Mặc dù
ông Trần Văn T đã thừa nhận tại bản trình bày ý kiến ngày 02/6/2021“Việc chia
thừa kế đã diễn ra từ khi bố mẹ tôi còn sống. Bố mẹ tôi đã chia cho tôi, anh Th1
và anh B còn mảnh đất tại tổ 13, phường P cũ đã giao cho anh trai tôi là Trần
Văn Ch quản lý (như đã nêu trong bản di chúc), việc phân chia tài sản của bố mẹ
tôi khi còn sống thì các anh chị em trong gia đình nguyên đơn đều được biết và
đồng ý, không có ý kiến gì thêm.”. Tuy nhiên, ông Trần Văn T vẫn ngang nhiên
xây dựng trên thửa đất của ông Th1, núp dưới lý do xây nhà thờ tổ họ Trần để
nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của ông Th1. Nay, chị A và anh K xác định
thửa đất này là tài sản của ông Th1 và là di sản của ông Trần Văn Th1 để lại cho
anh chị nên anh chị hoàn toàn có quyền khai nhận di sản thửa kế này theo quy
định của pháp luật.
Ban đầu, chị Mai A và anh K khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết chia thừa
kế cho anh chị theo di chúc của ông bà nội để lại, nguyện vọng của anh chị được
4
hưởng thửa kế bằng hiện vật, buộc ông T phải giao đất cho anh chị. Đến ngày
21/4/2023, chị Mai A và anh K thay đổi nội dung đơn khởi kiện, đề nghị Tòa án
công nhận mảnh đất 52,65m
2
có số thửa 22, tờ bản đồ số 2 (nay là thửa đất số 21,
tờ bản đồ 08, tổ 6, phường P, thành phố H) là tài sản hợp pháp của ông Trần Văn
Th1; công nhận quyền thừa kế hợp pháp của chị Trần Thị Mai A và anh Trần Duy
K đối với di sản của ông Trần Văn Th1 để lại do hàng thừa kế thứ nhất của ông
Trần Văn Th1 chỉ có chị Trần Thị Mai A và anh Trần Duy K; Yêu cầu ông Trần
Văn T phải trả lại tài sản đang chiếm giữ bất hợp pháp cho chị Mai A và anh K.
Bị đơn ông Trần Văn T trình bày: Bố mẹ ông là cụ B và cụ H, sinh được
08 người con, tài sản của bố mẹ ông có hai mảnh đất, trong đó một mảnh đất tại
tổ 6, phường P, thành phố H, tỉnh Hòa Bình, đã chia đất cho ông, ông B và bán đi
một phần đất để chia tiền cho ông Th1, còn mảnh đất tại tổ 13, phường P cũ đã
giao cho anh trai là ông Trần Văn Ch quản lý (theo bản di chúc gia đình), việc
chia tài sản của bố mẹ khi còn sống thì các anh chị em trong gia đình đều được
biết và đồng ý, không có ý kiến gì thêm, cụ B và cụ H còn lại một phần diện tích
mà hiện nay chị A, anh K khởi kiện. Khu đất và ngôi nhà xây tạm là nhà đất của
bố mẹ để lại cho anh em ông, không sang tên, không cho ai với mục đích xây
dựng nhà thờ tổ tiên, nhưng do thời gian ngôi nhà tạm đã xuống cấp bị sập. Vì
vậy, ông không chiếm đất, không tự xây dựng trái phép vì đây là phần đất của bố
mẹ để lại, việc tu sửa lại nhà thờ cũ tại mảnh đất này là có sự đồng ý của các anh
em trong gia đình (được thể hiện trong biên bản họp gia đình ngày 22/4/2016 đã
gửi kèm hồ sơ). Chị Mai A và anh Duy K ở với bà Phạm Thị Đ từ năm 1995 sau
khi ly hôn với ông Th1, đã không chăm sóc ông Th1, khi ông Th1 bị bệnh nặng
thì về với anh em trong gia đình ông chăm sóc tại địa chỉ số 325, tổ 6, phường P,
thành phố H, tỉnh Hòa Bình, thời điểm ông Th1 bị bệnh nghiêm trọng gia đình
ông đã họp thống nhất bán mảnh đất đó để chạy chữa cho ông Th1, lo hậu sự cho
ông Th1. Tuy nhiên, khi chưa kịp bán thì ông Th1 qua đời, sau khi ông Th1 chết
gia đình họp thống nhất sửa chữa nhà thờ họ trên mảnh đất của bố mẹ để lại nhưng
chưa có điều kiện nên đến tháng 4 năm 2021 anh chị em ông mới bắt đầu sửa
chữa. Ông không thừa nhận bản di chúc gia đình là đã chia đất cho ông Th1, phần
của ông Th1 không nằm trên diện tích đất mà nguyên đơn đòi, mảnh đất ông Th1
được cho bố mẹ ông đã bán và cho tiền ông Th1 để sửa sang bên nhà vợ ở huyện
Lương Sơn. Nay nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ông trả lại đất ông không đồng ý
và cũng không đề nghị chia di sản thừa kế của bố mẹ ông để lại.
Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, ông Trần Văn Ch trình
bày: nhất trí với trình bày những nội dung liên quan đến vụ án của nguyên đơn,
những nội dung nguyên đơn đã trình bày là đúng sự thật. Cụ Trần Văn B và cụ
5
Bùi Thị H là bố mẹ đẻ của ông, hai cụ sinh được 8 anh chị em (trong đó 6 trai và
2 gái). Chị A và anh K là cháu ruột của ông và là con của ông Th1 là em trai thứ
7 của ông. Do bà H cùng mấy anh chị em khác trong gia đình xây móng lên phần
đất mà bố mẹ ông đã chia cho ông Th1 nên chị Mai A và anh K có đơn khởi kiện
đến Tòa án. Ông có biết nội dung bản di chúc viết bằng tay ngày 08/7/1997 vì
chính ông cùng với cụ B đi đo đất để chia cho 03 em là ông Trần Văn B, Trần
Văn T và ông Trần Văn Th1. Sinh thời, hai cụ có 02 thửa đất, 01 thửa đất thổ cư
và 01 thửa đất cấp sau là 73m
2
. Sau đó thửa đất thổ cư bố ông bán cho cháu bên
ngoại khoảng ¼, còn lại chia làm 3 phần: chia cho ông B một phần và chia cho
ông T một phần, phần của ông T, theo hướng từ ngoài vào phía bên tay phải giáp
nhà anh Ng, bên tay trái giáp phần của ông B. Phần còn lại sau này bố ông chia
cho ông Th1. Đến năm 1997, bố ông mới làm bản di chúc gia đình có nhắc đến
việc đã chia đất cho ông B, ông Th1 và ông T, phần đất còn lại 73m
2
giao cho ông
quản lý và bán đi để chia cho các anh chị em còn lại chưa được chia. Sau khi chia
đất, ông B và ông T đã tách bìa đất và đã xây dựng nhà cửa giáp nhau, phần đất
còn lại là của ông Th1, ông Th1 sau khi ly hôn cũng về đó ở một thời gian, có làm
một gian nhà tạm (hiện nay đã rỡ bỏ để xây móng nhà thờ tổ). Hiện nay thửa đất
đó vẫn đứng tên bố ông là cụ Trần Văn B, ông không được giữ Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đó. Nay chị Mai A và anh K khởi kiện, ông hoàn toàn đồng ý,
cũng mong anh chị em trong gia đình bàn bạc đi đến thống nhất, trả lại đất cho
chị Mai A và anh K và nếu thống nhất làm nhà thờ họ thì phải có ý kiến của chị
Mai A và anh K, ông không yêu cầu chia di sản thừa kế của bố mẹ ông.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, ông Trần Văn B (đã chết),
người kế thừa quyền và nghĩa vụ của ông B là bà Nguyễn Thị Đ, Trần Xuân V và
anh Trần Ph, do anh Trần Xuân V là người đại diện trình bày: Bố mẹ anh là con
trai và con dâu của cụ B và cụ H, khi cụ B và cụ H còn sống có cho bố anh, ông
T và ông Th1 một mảnh đất, bố anh và ông T đã tách bìa sang tên, còn riêng ông
Th1 thì chưa làm được thủ tục sang tên nên bìa đất vẫn mang tên cụ Trần Văn B.
Anh đồng ý với quan điểm của nguyên đơn, không yêu cầu giải quyết chia di sản
thừa kế của cụ B, cụ H để lại.
Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, bà Trần Thị H, ông Trần
Thành Th, bà Trần Thị T và bà Hoàng Thị T1 trình bày: cụ B và cụ H là bố mẹ
của các ông, các bà, đối với bà T1 là bố mẹ chồng. Cụ B và cụ H sinh được 8
người con 06 trai và 02 gái, ông Th là con thứ tư, bà T là con thứ sáu và bà H là
con thứ ba trong gia đình. Về nguồn gốc mảnh đất đang tranh chấp với nguyên
đơn là đất của cụ B, cụ H, sau khi đã chia cho ông T và ông B, một phần đã bán
để lấy tiền chia cho ông Th1. Phần còn lại hiện tại vẫn giữ tên là cụ B và giao cho
6
ông T giữ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Việc chia tài sản cho ông Th1, đã
được bố mẹ ông đưa bằng tiền mặt để ông Th1 mang về nhà vợ ở huyện Lương
Sơn xây dựng nhà cửa. Nay, nguyên đơn yêu cầu đòi lại tài sản do được thừa kế
thì các ông, bà không nhất trí và cũng không đề nghị chia di sản thừa kế của bố
mẹ để lại mà để làm nhà thờ tổ.
Bản án dân sự sơ thẩm số 20/2024/DS-ST ngày 20/11/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố H, tỉnh Hòa Bình đã quyết định: căn cứ khoản 9 Điều 26;
điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a và c khoản 1 Điều 39; Điều 144; Điều 147; Điều
157; khoản 1 Điều 158; Điều 165; khoản 1 Điều 166; Điều 184; Điều 185; Điều
235 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 155; khoản 2 Điều 165; Điều 166;
Điều 579 Bộ luật Dân sự; Điều 166; Điều 167 Luật Đất đai; khoản 2 Điều 26 và
khoản 2 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Trần Thị Mai
A và anh Trần Duy K. Công nhận thửa đất số 22, tờ bản đồ số 2 có diện tích
52,65m
2
tại tổ 6, phường P, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 1235/ĐKĐĐ
do Uỷ ban nhân dân thị xã H cấp ngày 09/6/1994 mang tên cụ Trần Văn B (nay
là thửa đất số 21, tờ bản đồ 08, tổ 6, phường P, thành phố H) thuộc quyền sở hữu
của ông Trần Văn Th1. Người được hưởng thừa kế mảnh đất của ông Trần Văn
Th1 là chị Trần Thị Mai A và anh Trần Duy K. Buộc ông Trần Văn T và những
người liên quan phải tháo rỡ phần móng, tường và bể phốt đã xây để trả lại nguyên
trạng thửa đất số 22, tờ bản đồ 02 cho chị Trần Thị Mai A và anh Trần Duy K.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương
sự.
Trong các ngày 01 và 03/12/2024, bị đơn ông Trần Văn T và những người
có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (ông Trần Thành Th, bà Trần Thị H, bà Trần
Thị T và bà Hoàng Thị T1) kháng cáo với nội dung: đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm
xem xét lại toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm 20/2024/DS - ST ngày 20 tháng 11
năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố H vì Tòa án cấp sơ thẩm xét xử không
khách quan, không đúng với pháp luật, không đảm bảo được quyền và lợi ích
chính đáng của bị đơn và những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đứng
về phía bị đơn.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người kháng cáo, luật
sư Trần Văn T trình bày: đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy toàn bộ bản án dân
sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố H để xét xử sơ thẩm lại vì: Thứ nhất,
vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng thể hiện việc ban đầu Tòa án xác định là
7
Tranh chấp thừa kế tài sản cho nên bị đơn và những người liên quan mới không
có yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập nhưng đến phiên tòa sơ thẩm lại chuyển thành
công nhận quyền sử dụng đất, việc thay đổi này hoàn toàn khác so phạm vi khởi
kiện ban đầu, đương sự không nhận được quyết định thay đổi đơn khởi kiện dẫn
đến ảnh hưởng quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn và những người liên quan;
quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, thời điểm trước khi có quyết định đưa
vụ án ra xét xử, các văn bản tố tụng đều có tên chị Trần Thị Thanh H1 và anh
Trần Thanh T1 tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ
liên quan đến vụ án nhưng anh T1, chị H1 không được nhận bất cứ giấy tờ gì
trong vụ án, không được triệu tập để tham gia giải quyết vụ án, đặc biệt phiên tòa
ngày 20/11/2024, chị H1 và anh T1 không được xác định là người có quyền lợi
và nghĩa vụ liên quan là ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của anh T1, chị
H1. Thứ hai, việc thu thập chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn chưa đầy đủ, không đúng quy định của pháp luật cụ thể Tòa án nhân
dân thành phố H căn cứ vào đơn xin nhượng đất cho các con, di chúc năm 1997,
có xác nhận của Tổ dân phố và Ủy ban nhân dân phường P để chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn là không đúng pháp luật vì bản di chúc năm 1997 không
đúng quy định của pháp luật về thủ tục, hình thức lập di chúc, nội dung không ghi
rõ đối tượng tài sản cho các con là thửa đất nào, vị trí ở đâu, diện tích cụ thể và
bản di chúc này không có sự liên quan để xác định đó là thửa đất số 22, tờ bản đồ
số 2 tại tổ 6, phường P, thành phố H, đối tượng được hưởng ở đây chỉ là thửa
73m
2
tại tổ 13, phường P; ý chí của cụ B qua các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ
chỉ thể hiện là cho hai con là ông B và ông T, không phải là văn bản chia cho ông
Th1. Bị đơn và những người liên quan đang trực tiếp quản lý, sử dụng là hợp pháp
căn cứ trên cơ sở thừa kế, không phải chiếm hữu ngay tình không có căn cứ pháp
luật như bản án sơ thẩm nêu. Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình căn cứ
khoản 3 Điều 308, Điều 310 Bộ luật Tố tụng hình sự, hủy bản án dân sự sơ thẩm
của Tòa án nhân dân thành phố H.
Người đại diện theo ủy quyền của ông T, bà H, ông Th, bà T và bà T1, luật
sư Trần Thị Ph trình bày: nhất trí với ý kiến của luật sư T, đề nghị Tòa án cấp
phúc thẩm hủy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố H
để xét xử sơ thẩm lại do có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và việc thu thập
chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chưa đầy đủ, không
đúng quy định của pháp luật.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn Mai Anh, luật sư
Nguyễn Thị T2: không nhất trí với ý kiến của luật sư T bởi lý do Tòa án cấp sơ
thẩm không vi phạm nghiêm trọng tố tụng, cụ thể: khi thay đổi nội dung đơn khởi
8
kiện nguyên đơn đã có đơn, Tòa án cấp sơ thẩm đã ra thông báo về việc thay đổi
này, trong các buổi tiếp cận công khai chứng cứ các đương sự đều biết yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn là gì nên không phải là vi phạm. Việc không đưa chị
H1, anh T1 vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ
liên quan là có vi phạm nhưng không ảnh hưởng nghiêm trọng vì tài sản tranh
chấp được xác định là của ông Th1, không phải là di sản thừa kế của cụ B, cụ H
nên sẽ không liên quan đến anh T1, chị H1. Về nội dung, Tòa án cấp sơ thẩm xác
định tài sản tranh chấp là của ông Th1 là đúng bởi lẽ căn cứ vào đơn xin nhượng
đất cho con năm 1988, bản di chúc năm 1997 đều thể hiện ý chí của cụ B đã cho
đất ông Th1, việc này là phù hợp với lời khai của ông Ch, ông T, bà H, không có
tài liệu, chứng cứ nào chứng minh cho lời khai là cụ B đã cho ông Th1 tiền, như
vậy ý chí của các bên đã thừa nhận việc cho ông Th1 đất là có thật. Biên bản họp
gia đình năm 2016 thể hiện ý chí cho ông Th1 đất vì đất của ông Th1 thì mới bán
để chữa bệnh cho ông Th1. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ
luật Tố tụng dân sự không chấp nhận kháng cáo của những người kháng cáo. Giữ
nguyên bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố H.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn chị Trần Thị Mai A và anh
Trần Duy K, chị Nguyễn Thị L trình bày: Về tố tụng, ban đầu khởi kiện yêu cầu
chia di sản sau đổi thành kiện đòi tài sản nên là vụ án Tranh chấp quyền sử dụng
đất. Đơn khởi kiện sửa đổi, bổ sung đúng quy định của pháp luật. Các đương sự
khác biết nhưng không có ý kiến. Chị H1 và anh T1 được mẹ là bà T1 nhận thay
các văn bản tố tụng, bà T1 khai 02 con đã ủy quyền cho mình. Nay chị H1 và anh
T1 có yêu cầu độc lập do không có chữ ký của cụ H trong đơn chuyển nhượng và
bản di chúc. Nếu đã chia thì phải phân chia toàn bộ thửa đất cấp năm 1988. Về
nguồn gốc đất, lời khai của các đương sự đều thống nhất là cụ B và cụ H chỉ có
thửa đất số 22 và thửa đất khác với diện tích 73m
2
. Căn cứ vào đơn xin nhượng
đất lại đất cho con năm 1988 và di chúc lập năm 1997 thể hiện rất rõ tài sản tranh
chấp là đã chia cho ông Th1. Bị đơn và những người liên quan đến phía bị đơn
không có tài liệu nào chứng minh ý chí của cụ B, cụ H để lại thửa đất 52,65m
2
làm nơi xây dựng nhà thờ. Biên bản gia đình lập năm 2016 có chữ ký của 08 người
con đều thống nhất bán thửa đất 52,65m
2
để lo chữa bệnh cho ông Th1, nếu còn
tiền mua căn hộ để lo việc thờ cúng, tức là thờ ông Th1. Như vậy có thể hiểu đây
là đất của ông Th1, biên bản này được lập chỉ hơn một tháng sau đó ông Th1 chết,
thời gian này ông Th1 không đủ minh mẫn, sáng suốt nên cần phải giám định chữ
ký của ông Th1 tại Biên bản họp gia đình năm 2016. Thực tế ông Th1 có về làm
nhà tạm cấp IV trên diện tích đất tranh chấp và làm nghề sửa xe mưu sinh mà
không ai có ý kiến gì. Khi ông Th1 chết, anh em trong gia đình cũng tổ chức đám
9
ma trên mảnh đất này. Chị đồng ý với ý kiến của luật sư T2 và quyết định bản án
dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố H.
Người đại diện theo ủy quyền của chị H1, anh T1, luật sư Trần Thị Ph trình
bày: quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, mặc dù trong thông báo thụ lý vụ
án đến trước khi có Quyết định đưa vụ án ra xét xử có tên anh T1 và chị H1 tham
gia tố tụng nhưng anh T1, chị H1 không được nhận bất cứ giấy tờ gì trong vụ án,
không có việc ủy quyền miệng cũng như bằng văn bản giữa bà T1 và anh T1, chị
H1. Mãi đến khi có giấy triệu tập của Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình thì anh chị
mới biết sự việc, anh T1 và chị H1 khẳng định là không được bà T1 thông báo sự
việc tranh chấp, anh chị cũng không nhất trí việc bà T1 trình bày “gia đình tôi và
các con nhất trí thửa đất số 21, tờ bản đồ số 08 này để xây dựng nhà thờ họ Trần”.
Tại cấp phúc thẩm, anh T1 và chị H1 có đơn yêu cầu độc lập đề nghị xác nhận
quyền hưởng di sản thừa kế theo pháp luật của anh chị và những đồng thừa kế
liên quan đồng thời phân chia di sản thừa kế đối với toàn bộ quyền sử dụng đất
tại thửa số 21, tờ bản đồ 08 tại tổ 6, phường P, thành phố H.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình phát biểu ý kiến: Về tố
tụng, việc chấp hành pháp luật của Hội đồng xét xử, Thẩm phán và Thư ký phiên
tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai
đoạn phúc thẩm được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án, căn cứ khoản 3 Điều 308, Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự,
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội. Chấp nhận kháng cáo của của ông Trần Văn T, bà Trần Thị H, ông Trần
Thành Th, bà Trần Thị T và bà Hoàng Thị T1, hủy bản án dân sự sơ thẩm số
20/2024/DS-ST ngày 20/11/2024 của Tòa án nhân dân thàn phố Hòa Bình. Về án
phí: những người kháng cáo không phải nộp án phí.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm;
kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên và những người tham
gia tố tụng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Nguyên đơn khởi kiện đề nghị công nhận thửa đất số 22, tờ bản đồ số 2,
diện tích 52,65m
2
tại phường P, thành phố H, tỉnh Hòa Bình là tài sản hợp pháp
của ông Trần Văn Th1; công nhận quyền thừa kế hợp pháp của chị Trần Thị Mai
A và anh Trần Duy K đối với di sản của ông Trần Văn Th1 để lại; Yêu cầu ông
Trần Văn T phải trả lại tài sản đang chiếm giữ bất hợp pháp cho chị Mai A, anh
Duy K. Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Bị đơn ông Trần Văn T và những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà H,
ông Th, bà T, bà T1 kháng cáo vì cho rằng thửa đất tranh chấp là di sản của bố là
10
cụ Trần Văn B để lại, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm do vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, việc đánh giá chứng cứ không đầy đủ, Hội
đồng xét xử xét thấy:
[1].Về tố tụng:
[1.1]. Ban đầu nguyên đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế là thửa đất
của cụ B và cụ H để lại, sau đó nguyên đơn đã thay đổi đơn khởi kiện đề nghị
công nhận quyền thừa kế xác định thửa đất tại tổ 6, phường P, thành phố H, tỉnh
Hòa Bình là tài sản của ông Th1 đã được chia khi còn sống nên nguyên đơn đã
thay đổi khởi kiện đề nghị xác định công nhận quyền sử dụng đất nêu trên là tài
sản hợp pháp của bố nguyên đơn, Tòa án nhân dân thành phố H đã ra Thông báo
số 31/TB - TA ngày 05/5/2025 về việc thay, bổ sung nội dung đơn khởi kiện, việc
thay đổi này không vượt quá yêu cầu khởi kiện. Tòa án thành phố H xác định quan
hệ pháp luật là Tranh chấp quyền sử dụng đất (kiện đòi tài sản) để thụ lý và giải
quyết vụ án theo đúng quy định tại Điều 5, Điều 26, Điều 35, khoản 1 Điều 39
của Bộ luật Tố tụng dân sự cũng như diễn biến sự việc tranh chấp xảy ra. Tuy
nhiên, theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án, không thể hiện việc giao nhận thông báo
thay đổi đơn khởi kiện cho các đương sự, mặc dù đã có thông báo thay đổi nội
dung khởi kiện nhưng quá trình giải quyết, các văn bản tố tụng đều thể hiện Tranh
chấp thừa kế tài sản (khi có Quyết định đưa vụ án ra xét xử mới ghi là Kiện đòi
tài sản) là vi phạm tố tụng, ảnh hưởng đến quyền lợi của các đương sự.
[1.2]. Về tư cách tham gia tố tụng của anh T1, chị H1, xét thấy theo thông
báo thụ lý vụ án số 167/ TB - TA ngày 21/5/2021 của Tòa án nhân dân thành phố
H thể hiện người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án có chị Trần Thị
Thanh Hoa và anh Trần Thanh T1, tại bút lục số 98, 99 thể hiện bà T1 (mẹ đẻ của
anh T1, chị H1) đã cam kết nhận thay và có trách nhiệm thông báo cho chị H1,
anh T1 về nội dung trên. Tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng theo quy định tại
khoản 5 Điều 177 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết
tiếp theo, mặc dù các văn bản tố tụng đều thể hiện chị H1, anh T1 tham gia tố tụng
với tư cách người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án nhưng không
thể hiện việc Tòa án cấp sơ thẩm tống đạt văn bản tố tụng hoặc triệu tập chị H1,
anh T1 để làm rõ sự việc tranh chấp. Nguyên đơn cho rằng, chị H1 và anh T1 đã
ủy quyền cho cho Tý là người đại diện, anh T1 và chị H1 cho biết không có sự
việc này, lời khai của anh T1, chị H1 phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ
án, cụ thể: trong hồ sơ vụ án không thể hiện việc ủy quyền miệng hay ủy quyền
bằng văn bản giữa bà T1 và anh T1, chị H1. Tại Quyết định đưa vụ án ra xét xử
sơ thẩm số 16/2024/QĐXXST - DS ngày 21/7/2024 cũng như phiên tòa xử ngày
20/11/2024, Tòa án cấp sơ thẩm không xác định chị H1 và anh T1 tham gia tố
11
tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Như
vậy, việc không được tham gia tố tụng đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi
của anh T1, chị H1.
[1.3]. Theo quy định tại khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự, đơn
kháng cáo của ông T, bà H, ông Th, bà T, bà T1 trong hạn luật định, hợp lệ nên
được chấp nhận để xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[1.4]. Chị Mai A, anh K, chị L, bà H, luật sư Ph, luật sư T, luật sư T2, ông
Ch, anh V có mặt. Ông T, ông Th, bà T1, bà T, bà Đ, anh Ph, chị H1, anh T1 vắng
mặt nhưng đã có người đại diện theo ủy quyền. Căn cứ khoản 3 Điều 296 Bộ luật
Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2]. Về nội dung:
Cụ Trần Văn B và cụ Bùi Thị H sinh được 08 người con là ông Trần Văn
Ch, ông Trần Thanh H, ông Trần Thành Th, ông Trần Văn B, ông Trần Văn Th1,
ông Trần Văn T, bà Trần Thị H và bà Trần Thị T, trong đó ông Trần Văn Th1 là
bố đẻ của chị Trần Thị Mai A và anh Trần Duy K.
Sinh thời, cụ B (đã chết năm 1998) và cụ H (đã chết năm 2002) có thửa đất
số 22, tờ bản đồ số 2 thuộc tổ 5, phường P, thị xã Hoà Bình sử dụng từ trước.
Ngày 10/02/1988, được Uỷ ban nhân dân thị xã H cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng thửa đất nêu trên, loại đất thổ cư với diện tích là 242,1m
2
mang tên cụ Trần
Văn B. Cùng năm 1988, cụ Trần Văn B đã có đơn xin nhượng đất cho các con với
nội dung, hai cụ sinh được 8 người con trong đó có 5 người con đã có gia đình
nhà cửa đất đai hợp pháp do các con tự lo. Hiện còn lại 3 con là Trần Văn B đã
có vợ và 2 con chưa có đất làm nhà; Trần Văn Th1 là cán bộ đồn công an thị xã
Hoà Bình; Trần Văn T sau khi hoàn thành nghĩa vụ về lấy vợ và có một con chưa
có đất làm nhà, theo sơ đồ phần chia, thửa đất chia làm 3 lô; lô đất được vợ chồng
cụ B chia cho ông T là 3m - 3.5m nhìn ra đê Đà Giang là nằm bên tay trái, tiếp
theo lô đất được vợ chồng chia cho ông B là 4.0m, còn lại là lô đất của vợ chồng
cụ B và ông Th1. Cấp có thẩm quyền chỉ xác nhận việc chia đất cho ông B và ông
T. Theo tài liệu có trong hồ sơ, sau khi được chia quyền sử dụng đất, năm 1988
ông B đứng ra kê khai cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng phần đất được chia,
đến năm 2002 chuyển nhượng lại cho ông Nguyễn Sỹ D, năm 2006 ông T mới
làm thủ tục kê khai để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Trước đó, năm 1991 cụ B có bán một phần (01 gian) cho bà Bùi Thị P với
diện tích 53,55m
2
, với số tiền là 1.200.000đ để lấy số tiền này tu sửa phần còn lại
thể hiện bằng Đơn xin phép bán nhà và quyền sử dụng đất do cụ B ký (BL401).
Sau khi bán cho chị P, ngày 05/8/1991 cụ B có đơn xin đăng ký quyền sử dụng
đất đối với diện tích còn lại là 52,65m
2
trong đó thể hiện nhân khẩu là 02 lao động
12
phụ, không sang tên cho ông Trần Văn Th1. Ngày 09/6/1994, Ủy ban nhân dân
thị xã Hcấp Giấy chứng nhận số 1235/ĐKĐĐ mang tên cụ Trần Văn B đối với
diện tích 52,65m
2
là diện tích hiện nay các đương sự tranh chấp.
Ngày 08/7/1997, cụ B lập di chúc trong đó có nội dung: “...Tôi có 08 người
con, lúc còn khỏe mới chia đất được cho ba người: Trần Văn B, Trần Văn T, Trần
Văn Th1. Vậy còn lại một lô đất 73m
2
này tôi giao quyền cho người con trai cả
tên là Trần Văn Ch được quyền bảo vệ lô đất nếu sau này thấy cần thiết đưa vào
sử dụng thì anh Ch có quyền giải quyết bán thành tiền để chia đều cho các em
chưa được đất để chánh tình trạng mâu thuẫn thiếu công bằng trong gia đình...”,
bản di chúc này được ông Ch thừa nhận là do anh Trần Văn D - con ông Ch và
là cháu nội của cụ B viết, phần cuối bản di chúc có chữ ký ghi tên Trần Văn B, có
xác nhận của ông Trần Văn C - Tổ trưởng, Ủy ban nhân dân phường xác nhận cụ
B được Nhà nước cấp đất năm 1997 tại tổ 13, phường P là đúng.
Ngày 22/4/2016 tại nhà ông T có 8 anh em (gồm: ông Ch, ông H, bà H,
ông Th, ông B, bà T, ông Th1, ông T) họp thống nhất: nhất trí bán mảnh đất bố
mẹ để lại cách nhà ông T, phần đất này chưa lập sổ, chưa sang tên ai. Sau khi bán
việc đầu tiên là chạy chữ cho ông Th1 đang lâm trọng bệnh, nếu không qua khỏi
tiếp tục lo phần hậu sự, mua căn hộ để hương khói, khắc phục phần nợ của cụ
Trần Văn B với ông Bùi Văn S....
Với Bản di chúc lập năm 1997 và những tài liệu nêu ở trên, Hội đồng xét
xử xét xét thấy: Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
để khẳng định việc cụ B chia đất cho ông Trần Văn Th1 là chưa đủ căn cứ bởi lẽ
cấp sơ thẩm chưa làm rõ quá trình ai là người sử dụng thửa đất đang tranh chấp
từ năm 1988 đến khi xảy ra tranh chấp, nếu ông Th1 được chia đất thì bắt đầu sử
dụng thửa đất trên từ thời điểm nào, khi sử dụng đất thì có xây dựng tài sản gì trên
đất không; theo đơn xin nhượng đất cho các con mới chỉ thể hiện nội dung chia
cho ông T và ông B còn lại là lô đất của vợ chồng cụ B và ông Th1 chưa thể hiện
rõ ý chí của cụ B và cụ H cho đất ông Th1; chưa làm rõ lý do gì sau khi bán cho
chị P, cụ B lại chỉ kê khai tên mình mà không sang tên cho ông Th1, thời điểm cụ
B kê khai chỉ ghi có 02 nhân khẩu. Ngoài ra, cấp sơ thẩm chưa làm rõ tại cơ quan
có thẩm quyền việc thay đổi số thửa đất đang tranh chấp, theo giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cấp năm 1994 mang tên Trần Văn B thể hiện thửa đất tranh
chấp là thửa số 22, tờ bản đồ 02 tại quyết định của bản án ghi nay là thửa số 21,
tờ bản đồ 08; chưa làm rõ nội dung trong biên bản di chúc năm 1997 còn liên quan
đến thửa đất số 73. Đại diện của nguyên đơn còn cho rằng cần giám định chữ ký
của ông Th1 trong biên bản họp gia đình năm 2016, nội dung này được đề nghị
tại cấp sơ thẩm nhưng chưa được giải quyết. Như vậy, việc xác minh thu thập tài
13
liệu, chứng cứ tại cấp sơ thẩm chưa đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể khắc
phục.
[3]. Về chi phí tố tụng: Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án, chi phí xem xét
thẩm định tại chỗ là 3.620.000đ. Tòa án cấp sơ thẩm chưa xem xét nội dung này,
dẫn đến ảnh hưởng đến quyền lợi của chị Mai A.
[4]. Từ những nhận định trên, thấy rằng cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng và việc xác minh thu thập tài liệu, chứng cứ tại cấp sơ thẩm
chưa đầy đủ mà Tòa án cấp phúc thẩm không thể khắc phục. Do đó, cần chấp
nhận kháng cáo của bị đơn ông Trần Văn T và người có quyền lợi và nghĩa vụ
liên quan bà Trần Thị H, ông Trần Thành Th, bà Trần Thị T, bà Hoàng Thị T1
hủy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố H. Chuyển hồ
sơ cho Tòa án nhân dân thành phố H để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
[5]. Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận nên những người
kháng cáo không phải nộp án phí theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 3 Điều 308; Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Trần Văn T và những người có quyền
lợi và nghĩa vụ liên quan ông Trần Thành Th, bà Trần Thị H, bà Trần Thị T và bà
Hoàng Thị T1.
Hủy bản dân sự sơ thẩm số 20/2024/DSST ngày 20 tháng 11 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Hòa Bình. Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa
án nhân dân thành phố H, tỉnh Hòa Bình để giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ
thẩm.
2. Về chi phí tố tụng, án phí: căn cứ khoản 3 Điều 29 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
- Án phí dân sự sơ thẩm và các chi phí tố tụng tại cấp sơ thẩm được xác
định khi Tòa án giải quyết lại vụ án.
- Án phí dân sự phúc thẩm: ông Trần Văn T, bà Trần Thị H, bà Trần Thị
T, ông Trần Thành Th và bà Hoàng Thị T1 không phải nộp án phí dân sự phúc
thẩm.
+ Hoàn trả lại cho ông Trần Văn T 300.000đ tiền tạm ứng án phí dân sự
phúc thẩm đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0004153 ngày
09/12/2024 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố H, tỉnh Hòa Bình.
14
+ Hoàn trả lại cho bà Trần Thị H 300.000đ tiền tạm ứng án phí dân sự phúc
thẩm đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số số 0004152 ngày 09/12/2024
tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố H, tỉnh Hòa Bình.
+ Hoàn trả lại cho ông Trần Thành Th 300.000đ tiền tạm ứng án phí dân sự
phúc thẩm đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số số 0004154 ngày
09/12/2024 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố H, tỉnh Hòa Bình.
+ Hoàn trả lại cho bà Trần Thị T 300.000đ tiền tạm ứng án phí dân sự phúc
thẩm đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số số 0004155 ngày 09/12/2024
tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố H, tỉnh Hòa Bình.
+ Hoàn trả lại cho bà Hoàng Thị T1 300.000đ tiền tạm ứng án phí dân sự
phúc thẩm đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0004157 ngày
10/12/2024 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố H, tỉnh Hòa Bình.
3. Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án (16/5/2025)./.
Nơi nhận:
- TANDCC tại Hà Nội;
- VKSNDCC tại Hà Nội;
- VKSND tỉnh Hòa Bình;
- VKSND thành phố H;
- TAND thành phố H;
- Chi cục THADS thành phố H;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu: HSVA; tổ HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
(Đã ký)
Hoàng Ngọc Liễu
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 13/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 12/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 05/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 01/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 31/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 29/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 25/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 25/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 24/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm