Bản án số 27/2022/HS-ST ngày 17/03/2022 của TAND TX. An Nhơn, tỉnh Bình Định về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 27/2022/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 27/2022/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 27/2022/HS-ST ngày 17/03/2022 của TAND TX. An Nhơn, tỉnh Bình Định về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ |
---|---|
Tội danh: | |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TX. An Nhơn (TAND tỉnh Bình Định) |
Số hiệu: | 27/2022/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 17/03/2022 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ AN NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 27/2022/HS-ST NGÀY 17/03/2022 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 17 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 29/2022/TLST-HS ngày 28/01/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 710/2022/QĐXXST-HS ngày 03/3/2022, đối với bị cáo:
Huỳnh Trường S sinh ngày 30/5/1978 tại huyện T S, tỉnh B Đ; nơi cư trú: Thôn Tr Đ, xã B H, huyện T S, tỉnh B Đ; nghề nghiệp: Phụ hồ; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Thế Nh sinh năm 1942 (chết) và bà Nguyễn Thị Ch sinh năm 1946 (chết); vợ Lê Thị H sinh năm 1983; có 02 người con tên Huỳnh Lê Việt Tr sinh năm 2004, Huỳnh Tấn Ph sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt, tạm giữ ngày 09/10/2021 chuyển tạm giạm từ ngày 15/10/2021 đến ngày 24/01/2022 cho bảo lĩnh. Bị cáo có mặt.
1. Người bị hại: Bà Hồ Thị Xuân T sinh năm 1938 (chết)
Người đại diện hợp pháp của bà Hồ Thị Xuân T: Ông Hồ Kim D sinh năm 1963; trú tại: Thôn M Th, xã Nh Ph, thị xã A Nh, tỉnh B Đ, là cháu của bà T, có mặt.
2. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Lê Thị H sinh năm 1983; trú tại: Thôn Tr Đ, xã B H, huyện T S, tỉnh B Đ, có mặt.
3. Người làm chứng:
3.1. Bà Trần Thị S sinh năm 1962; trú tại: Thôn M Th, xã Nh Ph, thị xã A Nh, tỉnh B Đ, vắng mặt;
3.2. Chị Võ Thị Tr sinh năm 1989; trú tại: Thôn M Th, xã Nh Ph, thị xã A Nh, tỉnh B Đ, vắng mặt;
3.3. Anh Nguyễn Thanh N sinh năm 2003; trú tại: Số nhà 100 An Th 1, xã Nh Ph, thị xã A Nh, tỉnh B Đ, vắng mặt;
3.4. Anh Phan Hoà Bình sinh năm 1975; trú tại: Thôn A Th, xã Nh Ph, thị xã A Nh, tỉnh B Đ, vắng mặt;
3.5. Anh Nguyễn Văn Ng sinh năm 1976; trú tại: Thôn Tr Đ, xã B H, huyện T S, tỉnh B Đ, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 17 giờ 20 phút ngày 01/10/2021, Huỳnh Trường S điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 53V8-5520, anh Nguyễn Văn Ng điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 36L9 – 5276 cùng xuất phát từ xã Nh H, thành phố Q Nh theo Quốc lộ 19 mới về thị xã A Nh, rồi tiếp tục chạy theo tuyến đường ĐT636 về nhà ở huyện T S. Đến khi trời tối, Ng điều khiển xe chạy trước để soi đèn cho S đi sau (xe S không có đèn chiếu sáng, Sơn bật đèn Led điện thoại di động cầm trên tay trái). Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, khi chạy qua thôn M Th, xã Nh Ph, thị xã A Nh, Ng điều khiển xe chạy trên phần đường bên phải theo hướng Đông – Tây, Sơn chạy phía sau lấn sang phần đường bên trái theo hướng Đông – Tây. Lúc này, bà Hồ Thị Xuân T điều khiển xe đạp đi ngược chiều với Sơn trên phần đường bên phải theo hướng Tây – Đông; bà Trần Thị S điều khiển xe đạp đi phía sau bà T khoảng 5 mét. Do chạy lấn sang phần đường bên trái hướng di chuyển của mình nên khi phát hiện bà T, S không xử lý kịp đã để phần phía trước xe của S va chạm vào phần phía trước xe đạp bà T làm xe đạp và bà T ngã xuống đường. Sau đó, xe của S tiếp tục va chạm vào xe đạp của bà S làm xe mô tô S ngã về phía bên phải nằm trên phần đường bên trái hướng di chuyển của S. Sau khi xảy ra tai nạn, S đỡ bà T dậy thì thấy bà T bị chảy máu mũi, miệng, mắt tỉnh và còn thở. Sợ bị xử lý, S điều khiển xe mô tô cùng với Ng bỏ trốn khỏi hiện trường. Về đến nhà, Sơn kể lại toàn bộ sự việc tai nạn giao thông cho vợ là chị Lê Thị H nghe và dặn không được nói với ai. Sau đó, Sơn đến nhà chị Đỗ Thị Tuyết Nh cùng địa phương khâu vết thương ở chân mày phải do tai nạn. Ngày 02/10/2021, S tháo biển kiểm soát 53V8–5520 gây tai nạn rồi cất giấu xe mô tô và biển kiểm soát để tránh phát hiện. Đến ngày 03/10/2021, S nhờ Ng qua nhà chở S đi làm tại công trình. Ngày 09/10/2021, sau khi được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã A Nh triệu tập làm việc, S thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Về phần bị hại, bà T được người dân đưa đi cấp cứu nhưng đã tử vong trên đường, bà Si bị xây xác nhẹ, không có yêu cầu giám định thương tích và không yêu cầu bồi thường dân sự.
Bản Kết luận giám định pháp y về tử thi số 288/2021/PY-TT ngày 15/10/2021 của Trung tâm pháp ý tỉnh B Đ kết luận: nguyên nhân bà Hồ Thị Xuân T tử vong là “chấn thương gây vỡ sọ, chảy máu nội sọ chèn ép não”.
* Vật chứng, tài liệu của vụ án:
- Viện KSND thị xã A Nh trả lại cho bị can Huỳnh Trường S 01 xe Honda Dream, màu nâu, BKS 53V8-5520; 01 Đăng ký xe mô tô, xe máy số A2075328 của Phòng CSGT Công an TP H C M mang tên Đào Kim Ng.
- Chi cục Thi hành án dân sự thị xã A Nh đang tạm giữ: 01 (Một) áo phản quang màu xanh lá, có 02 viền phản quang màu vàng chạy vòng ngang ngực và bụng từ trước ra sau, mặt lưng có in logo công ty Thanh Vinh và dòng chữ “THANH VINH CONSTRUSTION”, 01 (Một) nón bảo hiểm màu vàng, có lưỡi trai màu đen.
- Đang lưu tại hồ sơ vụ án: 01 (Một) Giấy phép lái xe hạng A1 số M928919 mang tên Huỳnh Trường Sơn.
* Về trách nhiệm dân sự:
Ông Hồ Kim D đã nhận bồi thường số tiền 20.000.000 đồng của vợ bị can là chị Lê Thị Hạnh, không yêu cầu gì khác nên không xem xét.
Tại bản Cáo trạng số 04/CT-VKSAN ngày 26/01/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã A Nh đã truy tố bị cáo Huỳnh Trường S về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm c khoản 2 Điều 260 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã A Nh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 54 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Huỳnh Trường S từ 15 đến 18 tháng tù.
- Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo, bị đơn dân sự, đại diện gia đình bị hại đã thoả thuận bồi thường xong, nên không xét.
- Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị tuyên trả 01 (Một) Giấy phép lái xe hạng A1 số M928919 mang tên Huỳnh Trường S cho bị cáo Sơn;
+ Đề nghị tuyên tịch thu, tiêu huỷ: 01 (Một) áo phản quang màu xanh lá, có 02 viền phản quang màu vàng chạy vòng ngang ngực và bụng từ trước ra sau, mặt lưng có in logo công ty Thanh Vinh và dòng chữ “THANH VINH CONSTRUSTION”, 01 (Một) nón bảo hiểm màu vàng, có lưỡi trai màu đen.
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội phù hợp với nội dung bản cáo trạng, tỏ ra ăn hăn hối cải về hành vi phạm tội. Bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên. Tại lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã A Nh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã A Nh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến, khiếu nại gì về hành vi, quyết định đó. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định pháp luật
[2] Tại phiên toà, bị cáo khai nhận: Khoảng 17 giờ 20 phút ngày 01/10/2021, bị cáo điều khiển xe mô tô 53V8-5520 và anh Nguyễn Văn Ng điều khiển xe mô tô 36L9 – 5276 từ thành phố Q Nh theo Quốc lộ 19 mới về thị xã A Nh, rồi tiếp tục chạy theo tuyến đường ĐT636 về nhà ở huyện T S. Khi trời tối, do xe bị cáo không có đèn nên Ngang điều khiển xe chạy trước để soi đường cho bị cáo. Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, khi chạy qua thôn M Th, xã Nh Ph, thị xã A Nh, Ng điều khiển xe chạy trên phần đường bên phải theo hướng Đông – Tây, bị cáo chạy phía sau lấn sang phần đường bên trái theo hướng Đông – Tây thì phát hiện bà Hồ Thị Xuân T điều khiển xe đạp đi ngược chiều với bị cáo trên phần đường bên phải theo hướng Tây – Đông; bà Trần Thị S điều khiển xe đạp đi phía sau bà T khoảng 5 mét, bị cáo không xử lý kịp đã va chạm xe đạp bà T làm xe đạp và bà T ngã xuống đường, xe của bị cáo tiếp tục va chạm vào xe đạp của bà Siêng gây tai nạn. Bị cáo đỡ bà T dậy thì thấy bà T bị chảy máu mũi, miệng, mắt tỉnh và còn thở, bị cáo sợ bị xử lý nên điều khiển xe bỏ trốn khỏi hiện trường. Bà T tử vong trên đường đi cấp cứu, bà Siêng bị xây xác nhẹ. Tại bản Kết luận giám định pháp y về tử thi số 288/2021/PY-TT ngày 15/10/2021 của Trung tâm pháp ý tỉnh Bình Định kết luận: Bà Hồ Thị Xuân T tử vong là do “Chấn thương gây vỡ sọ, chảy máu nội sọ chèn ép não”.
[3] Xét hành vi của bị cáo thấy rằng: Bị cáo là công dân có đầy đủ năng lực hành vi, được cơ quan có thẩm quyền sát hoạch cấp giấy phép lái xe hạng A1. Lẽ ra, khi điều khiển xe mô tô tham gia giao thông trên đường bị cáo phải đi bên phải theo chiều đi của mình, đi đúng làn đường, phần đường quy định nhưng bị cáo lại điều khiển xe mô tô chạy lấn sang phần đường bên trái trong khi đó xe không có đèn chiếu sáng nên khi phát hiện bà T bị cáo xử lý không kịp đã gây nên vụ tai nạn nói trên làm chết 01 người. Mặc khác, sau khi gây tai nạn, bị cáo đã bỏ trốn nhằm trốn tránh trách nhiệm. Hành vi của bị cáo đã vi phạm khoản 17 Điều 8, Khoản 1 Điều 9 của Luật Giao thông đường bộ, nên bị cáo đã phạm vào tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” với tình tiết định khung “Bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm” theo điểm c khoản 2 Điều 260 của Bộ luật Hình sự.
[4] Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng và lỗi thuộc về bị cáo là khi điều khiển xe mô tô đi không đúng phần đường. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm trực tiếp đến tính mạng của người bị hại, gây ra nỗi đau mất mát cho gia đình nạn nhân mà còn xâm phạm đến tình hình trật tự an toàn giao thông đường bộ. Do vậy, cần phải có mức hình phạt phù hợp với tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội bị cáo gây ra.
[5] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Sau khi tai nạn xảy ra, bị cáo đã tác động vợ của mình là chị Lê Thị H đến thoả thuận bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại 20.000.000 đồng được gia đình bị hại có đơn bãi nại trách nhiện dân sự cho bị cáo và tại phiên toà, đại diện gia đình bị hại đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự khi lượng hình HĐXX xem xét giảm nhẹ phần nào về hình phạt cho bị cáo.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại đã thỏa thuận xong và tại phiên toà đại diện hợp pháp của bị hại không có yêu cầu gì khác nên miễn xét.
[7] Về xử lý vật chứng:
[7.1] Căn cứ vào Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên trả cho bị cáo Huỳnh Trường S 01 Giấy phép lái xe hạng A1 số M928919 mang tên Huỳnh Trường S.
[7.2] Đối với 01 áo phản quang màu xanh lá, có 02 viền phản quang màu vàng chạy vòng ngang ngực và bụng từ trước ra sau, mặt lưng có in logo công ty Thanh Vinh và dòng chữ “THANH VINH CONSTRUSTION” và 01 nón bảo hiểm màu vàng, có lưỡi trai màu đen, là tài sản của bị cáo nên cần tuyên trả cho bị cáo. Nhưng tại phiên toà, bị cáo xác định số tài sản này không còn giá trị và bị cáo tự nguyện giao nộp để tiêu huỷ. Do đó, tuyên tịch thu tiêu huỷ số tài sản này là phù hợp.
[8] Về án phí: Căn cứ Điều 135; Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, bị cáo Huỳnh Trường S là cá nhân thuộc hộ gia đình cận nghèo nên được miễn nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Huỳnh Trường S phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”
2. Về hình phạt: Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 260, điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 54 của Bộ luật hình sự, Xử phạt bị cáo Huỳnh Trường S 15 (mười lăm) tháng tù được trừ vào thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/10/2021 đến ngày 24/01/2022. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
3. Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại đã thoả thuận bồi thường xong, nên không xét.
4. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, - Tuyên trả cho bị cáo Huỳnh Trường S 01 (một) Giấy phép lái xe hạng A1 số M928919 mang tên Huỳnh Trường S.
- Tuyên tịch thu, tiêu huỷ: 01 (một) áo phản quang màu xanh lá, có 02 viền phản quang màu vàng chạy vòng ngang ngực và bụng từ trước ra sau, mặt lưng có in logo công ty Thanh Vinh và dòng chữ “THANH VINH CONSTRUSTION”; 01 (một) nón bảo hiểm màu vàng, có lưỡi trai màu đen.
Số vật chứng này đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã A Nh, tỉnh B Đ theo biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 27/01/2022.
5. Về án phí: Bị cáo Huỳnh Trường S được miễn nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm do thuộc diện hộ cận nghèo.
6. Quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm công khai có mặt bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!