Bản án số 263/2024/QĐ-PT ngày 10/12/2024 của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 263/2024/QĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 263/2024/QĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 263/2024/QĐ-PT
Tên Bản án: | Bản án số 263/2024/QĐ-PT ngày 10/12/2024 của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu |
Số hiệu: | 263/2024/QĐ-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 10/12/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ông Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1983 và bà Phan Thị Hải Y, sinh năm 1988 khởi kiện ông Nguyễn Chiến H, sinh năm 1963 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1969 về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản, hợp đồng thế chấp QSD đất |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
Bản án số 263/2024/DS-PT
Ngày 10 - 12 - 2024
V/v “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản,
hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Cao Xuân Long
Các Thẩm phán: Bà Đào Thị Huệ
Bà Bùi Thị Thương
- Thư ký phiên tòa: Bà Hồ Thị Tâm – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa-
Vũng Tàu.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tham gia
phiên tòa: Ông Thái Quốc Bảo - Kiểm sát viên.
Ngày 10 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 169/2024/TLPT-
DS ngày 01/10/2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản và hợp đồng thế
chấp quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 20/2024/DS-ST ngày 03/6/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Long Điền bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 309/2024/QĐ-PT ngày
29/10/2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 286/2024/QĐ-PT ngày 18/11/2024
giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1983 (có mặt) và bà Phan
Thị Hải Y, sinh năm 1988 (có mặt).
Địa chỉ: số F khu phố H, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Đặng Văn
Q, luật sư thuộc Công ty L1, đoàn luật sư tỉnh B (có mặt).
- Bị đơn: Ông Nguyễn Chiến H, sinh năm 1963 (vắng mặt) và bà Nguyễn
Thị L, sinh năm 1969 (có đơn xin xét xử vắng mặt).
Địa chỉ: Tổ B, ấp H, xã P, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
2
Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Chiến H: Ông Vũ Văn Q1,
sinh năm 1964; địa chỉ: số E, tổ D, khu phố D, phường T, thành phố B, tỉnh
Đồng Nai (có mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Bà Trịnh Thị H1,
luật sư thuộc Công ty L2, đoàn luật sư tỉnh B (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1987 (vắng mặt);
Địa chỉ: Tổ B, ấp H, xã P, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
1. Văn phòng C1;
Người đại diện theo pháp luật: Ông Ngô Văn T1 - Trưởng Văn phòng.
Địa chỉ: Tổ B, ấp P, xã P, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (vắng mặt).
- Người kháng cáo: Ông Nguyễn Chiến H và bà Nguyễn Thị L; là bị đơn
trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Theo đơn khởi kiện và quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, nguyên
đơn – ông Nguyễn Văn T, bà Phan Thị Hải Y trình bày:
Do có mối quan hệ quen biết từ trước, nên ngày 24/02/2020 vợ chồng ông
T có cho vợ chồng ông Nguyễn Chiến H vay số tiền 2.000.000.000đ (Hai tỷ
đồng), mục đích vay để bổ sung vốn kinh doanh xăng dầu và hẹn 01 tháng sẽ trả,
không thỏa thuận lãi suất (trước đây ông T có khai hai bên có thỏa thuận lãi suất,
nhưng ông không nhớ). Ông H có viết giấy biên nhận đề ngày 24/02/2020 để
vay số tiền trên của vợ chồng ông T và đưa giấy biên nhận này cho ông T giữ.
Cùng lúc ông H có hỏi mượn thêm số tiền 100.000.000đ (một trăm triệu đồng)
và được vợ chồng ông T đồng ý cho mượn nhưng không lập giấy tờ gì mà vợ
chồng ông T đưa luôn số tiền 2.100.000.000đ cho ông H. Ông T giao số tiền
2.100.000.000 đồng bằng tiền mặt một lần tại nhà của ông T cho ông H. Đồng
thời ông H đưa cho vợ chồng ông T bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số R 438094 do Ủy ban nhân dân thị xã B (nay là thành phố B) cấp ngày
08/5/2001, đã đăng ký biến động sang tên ông Nguyễn Chiến H và bà Nguyễn
Thị L vào ngày 13/10/2017 đối với thửa đất số 232, tờ bản đồ số 15, tọa lạc tại
phường K, thành phố B. Thời điểm đưa giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên,
ông H đã thanh toán xong khoản vay tại Ngân hàng nhưng chưa làm thủ tục xóa
thế chấp. Ông T xác nhận giấy biên nhận ngày 24/02/2020 cũng chính là giấy
giao nhận tiền.
Sau khoảng 01 tháng, vợ chồng ông H không trả nợ cho vợ chồng ông T,
mặc dù ông T đã nhắc nhở nhiều lần. Đến đầu tháng 12/2021, vợ chồng ông H
có yêu cầu vợ chồng ông T đến Công an xã P để làm lại giấy vay tiền, tại buổi
làm việc tại Công an xã P, vợ chồng ông T không đồng ý làm lại giấy vay nợ vì
sợ ông H và bà L không trả tiền thì không có giấy tờ gì để bảo đảm.
3
Sau đó các bên có thỏa thuận, đến Văn phòng công chứng để ký hợp đồng
thế chấp quyền sử dụng đất đảm bảo cho khoản vay.
Ngày 08/12/2021, vợ chồng ông H và vợ chồng ông T đến Văn phòng C1;
địa chỉ: Tổ B, ấp L, xã P, huyện L để ký Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất
để bảo đảm cho khoản vay 2.100.000.000đ (Hai tỷ một trăm triệu đồng). Do
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chưa làm thủ tục xóa thế chấp. Nên ông T
cùng ông H đến Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B để làm thủ
tục xóa thế chấp. Lúc đó, theo thủ tục bốc số thì chỉ mình ông H vào phòng một
cửa của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B để làm thủ tục và
hẹn 2 ngày sau quay lại lấy giấy chứng nhận bản chính. Đến ngày 10/12/2021,
vợ chồng ông H và vợ chồng ông T mới quay trở lại Văn phòng C1 để ký hợp
đồng thế chấp quyền sử dụng đất. Tại đây, vợ chồng ông H đưa cho vợ chồng
ông T bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã xóa thế chấp và ông T
cung cấp giấy biên nhận vay tiền ngày 24/02/2020 để tiến hành ký kết Hợp
đồng. Hiện bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, vợ chồng ông T đang
giữ. Tuy nhiên, chưa đăng ký giao dịch bảo đảm tại cơ quan có thẩm quyền.
Nay nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:
1. Buộc bị đơn trả lại cho nguyên đơn số tiền nợ gốc 2.100.000.000đ và
tiền lãi tính từ ngày hết thời hạn thế chấp (ngày 11/6/2022) đến ngày Tòa án xét
xử sơ thẩm (ngày 29/5/2024) với lãi suất 0.83%/tháng; tương ứng số tiền lãi
2.100.000.000đ × 23 tháng × 0.83% = 400.000.000 đồng; tổng cộng là
2.500.000.000đ (Hai tỷ năm trăm triệu đồng).
2. Công nhận hiệu lực của Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số
3951, quyển số 01/2021/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 10/12/2021 tại Văn phòng
C1.
3. Trường hợp Tòa án tuyên bố hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất vô
hiệu, nguyên đơn đồng ý trả lại bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
nêu trên cho bị đơn khi bị đơn thanh toán khoản vay cho nguyên đơn.
Đối với ý kiến của bị đơn, nguyên đơn có ý kiến như sau:
- Giấy biên nhận ngày 24/02/2020 do ông H viết và ký tên tại nhà ông H.
Ngày 24/02/2020, ông H đến nhà ông T lấy tiền và đưa giấy biên nhận tiền cho
ông T. Ông T xác định là cho vay số tiền 2.000.000.000đ. Ông T không ghi
thêm ba số “0” như ông H trình bày.
- Việc cho vay tiền giữa vợ chồng ông T và vợ chồng ông H không có
người làm chứng, không có camera ghi lại, không liên quan gì đến ông Nguyễn
Văn C (con của ông H). Ngoài khoản vay trên, vợ chồng ông T và vợ chồng ông
H không còn bất kỳ khoản vay nào khác.
- Việc ký Hợp đồng thế chấp là đúng quy định pháp luật, hoàn toàn tự
nguyện, không bị ép buộc.
4
- Bản chính giấy biên nhận ngày 24/02/2020 nguyên đơn làm thất lạc
trong quá trình chuyển nhà nên không cung cấp được bản chính cho Tòa án để
giám định, thời điểm thất lạc giấy biên nhận là khoảng từ tháng 01 hoặc tháng
02/2023.
2. Quá trình tố tụng tại Tòa án, bị đơn:
- Ông Nguyễn Chiến H trình bày:
Ông H thừa nhận là người viết và ký tên người nhận trong giấy biên nhận
ngày 24/02/2020. Theo ông H, ông viết giấy biên nhận để vay số tiền
2.000.000đ (hai triệu đồng) của ông T, còn ba số “0” phía sau của số tiền
2.000.000.000đ (hai tỷ đồng) trong giấy biên nhận ngày 24/02/2020 là do ông T
tự ghi thêm. Ông H thừa nhận có đưa cho ông T bản chính giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số R 438094 do Ủy ban nhân dân thị xã B (nay là thành phố
B) cấp ngày 08/5/2001 để làm tin. Thời hạn vay là 01 tháng, không thỏa thuận
lãi suất. Mục đích viết giấy vay số tiền 2.000.000đ là phòng trường hợp con ông
Hữu tên Nguyễn Văn C có vay tiền của vợ chồng ông T thì ông H sẽ làm lại
giấy vay tiền với số tiền cụ thể và phải có ý kiến của ông C chứ không phải vay
tiền để bổ sung vốn kinh doanh xăng dầu như nguyên đơn trình bày. Việc vay
mượn tiền trên không có người làm chứng, không có camera ghi lại. Ông H cho
biết qua làm việc với ông C thì ông C xác nhận không có khoản vay nào đối với
vợ chồng ông T nên ông H không cung cấp thông tin và địa chỉ của ông C.
Việc vợ chồng ông T có đưa nhóm người đến nhà ông H đòi nợ, đe dọa gia đình
ông. Ông H có làm đơn trình báo Công an xã P, thời gian trình báo từ ngày
29/11/2021 đến ngày 03/12/2021 theo đơn xin xác nhận ngày 05/4/2023 của ông
H kèm theo một thiết bị lưu trữ dữ liệu điện tử “USB”.
Đối với thiết bị lưu trữ dữ liệu điện tử “USB” do nguyên đơn cung cấp có
chứa đựng nội dung buổi làm việc ngày 04/12/2021 tại Công an xã P, ông H xác
định có đến Công an xã P làm việc để giải quyết vấn đề vợ chồng ông T đưa
nhóm người xã hội đen đến nhà ông quậy phá chứ không phải giải quyết vấn đề
vay tiền.
Theo ông H trước ngày ký hợp đồng thế chấp một tuần, vợ chồng ông T
có yêu cầu vợ chồng ông H đến Văn phòng C1 để ký hợp đồng thế chấp quyền
sử dụng đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R 438094 do Ủy ban
nhân dân thị xã B (nay là thành phố B), tỉnh bà R - Vũng Tàu cấp ngày
08/5/2001, đã điều chỉnh biến động sang tên ông Nguyễn Chiến H và bà Nguyễn
Thị L ngày 13/10/2017. Ông H xác định giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thế
chấp trên cũng chính là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi trong trong giấy
biên nhận ngày 24/02/2020. Nhưng do ông H chưa làm thủ tục xóa thế chấp nên
không ký Hợp đồng thế chấp được. Ông T đưa bản chính giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất trên cho ông để liên hệ Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai
thành phố B làm thủ tục xóa thế chấp. Ngày 10/12/2021 vợ chồng ông H và vợ
chồng ông T đến Văn phòng C1 để ký Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để
đảm bảo cho khoản vay 2.100.000.000đ (Hai tỷ một trăm triệu đồng). Tuy
5
nhiên, theo ông H việc vợ chồng ông ký hợp đồng thế chấp là do phía nguyên
đơn ép buộc, đe dọa gia đình ông H, nhưng ông H không có chứng cứ chứng
minh về việc bị ép buộc này.
Cũng theo ông H xác nhận việc ký hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất ngày
10/12/2021 tại Văn phòng C1 là để đảm bảo cho khoản vay 2.000.000đ theo
giấy biên nhận ngày 24/02/2020. Ngoài ra, giữa vợ chồng ông H và vợ chồng
ông T không còn bất kỳ khoản vay nào khác và việc vay nợ trên không liên quan
đến ai, không liên quan đến ông Nguyễn Văn C.
Do đó, vợ chồng ông H không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn, đề nghị Tòa án bác toàn bộ đơn khởi kiện, đơn khởi kiện bổ sung của
nguyên đơn.
Trường hợp Tòa án tuyên bố hợp đồng thế chấp vô hiệu thì vợ chồng ông
H yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu như sau: Yêu cầu vợ chồng
ông T phải trả lại bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên cho vợ
chồng ông H.
Lý do ông H không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì: Tại
thời điểm ký hợp đồng thế chấp vợ chồng ông T không có tư cách pháp lý để
nhận thế chấp quyền sử dụng đất, vợ chồng ông T không cung cấp được giấy
giao nhận số tiền 2.100.000.000 đồng tại thời điểm thế chấp. Quá trình làm việc
tại Tòa án, ông H đã yêu cầu ông T phải cung cấp bản chính giấy biên nhận ngày
24/02/2020 và giấy vay số tiền 100.000.000đ để chứng minh có khoản nợ trên
nhưng phía nguyên đơn không cung cấp được.
- Bà Nguyễn Thị L trình bày:
Bà L không biết việc ông H viết giấy biên nhận ngày 24/02/2020 để vay
số tiền 2.000.000 đồng và thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của vợ
chồng bà L. Còn tại thời điểm ký hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất thì bà L
có biết và đi cùng với ông H đến Văn phòng C1 để ký hợp đồng thế chấp để đảm
bảo khoản vay theo giấy biên nhận ngày 24/02/2020. Theo bà L việc ký hợp
đồng thế chấp trên là bị ép buộc và để đảm bảo an toàn cho gia đình bà L nên
mới phải ký hợp đồng. Do vậy bà L thống nhất với ý kiến của ông H, đề nghị
Tòa án bác đơn khởi kiện của nguyên đơn.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ông Nguyễn Văn C trình bày:
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt văn bản tố tụng cho ông C
biết và tham gia tố tụng. Tuy nhiên ông C vắng mặt, không có ý kiến và cung
cấp tài liệu chứng cứ cho Tòa án.
- Văn phòng C1 trình bày:
Việc công chứng hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 3951, quyển số
01/2021/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 10/12/2021 được thực hiện đúng trình tự và
thủ tục theo quy định của pháp luật. Đối với các vấn đề khác theo yêu cầu của
6
Tòa án, Văn phòng C1 không có ý kiến. Đồng thời Văn phòng công chứng có
đơn xin xét xử vắng mặt.
4. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 20/2024/DS-ST ngày 03/6/2024 của Tòa
án nhân dân huyện Long Điền đã tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn
Văn T và bà Phan Thị Hải Y đối với bị đơn ông Nguyễn Chiến H và bà Nguyễn
Thị L về việc “Tranh chấp Hợp đồng vay tài sản”.
Buộc bị đơn có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn số tiền 2.500.000.000đ (Hai
tỷ, năm trăm triệu đồng). Trong đó, tiền nợ gốc là 2.100.000.000đ và tiền lãi là
400.000.000đ.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho
đến khi thi hành xong các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải
trả cho bên được thi hành án khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo
mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự tương ứng với
thời gian chưa thi hành án.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn về
việc yêu cầu công nhận hiệu lực Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 3951,
quyển số 01/2021/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 10/12/2021 tại Văn phòng C1.
Tuyên bố Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 3951, quyển số
01/2021/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 10/12/2021 tại Văn phòng C1 giữa ông
Nguyễn Văn T và bà Phan Thị Hải Y với ông Nguyễn Chiến H và bà Nguyễn
Thị L vô hiệu.
3. Buộc nguyên đơn trả lại bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số R 438094 do Ủy ban nhân dân thị xã B (nay là thành phố B), tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu cấp ngày 08/5/2001 đối với thửa đất 232 tờ bản đồ số 15 tại phường
K, thành phố B, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cho bị đơn.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các
bên đương sự theo quy định của pháp luật.
5. Nội dung kháng cáo:
Ngày 17/6/2024, Tòa án nhân dân huyện Long Điền nhận được đơn kháng cáo
của ông Nguyễn Chiến H và bà Nguyễn Thị L có nội dung yêu cầu Tòa án cấp
phúc thẩm giải quyết: Sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm số 20/2024/DS-ST
ngày 03/6/2024 của Tòa án nhân dân huyện Long Điền theo hướng: Bác toàn bộ
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; ông H, bà L tự nguyện trả lại cho vợ chồng
ông Nguyễn Văn T số tiền nợ gốc 2.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh theo mức
20%/năm từ ngày vay đến ngày trả hết nợ.
6. Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn giữ nguyên yêu cầu
kháng cáo. Các bên đương sự không thỏa thuận được việc giải quyết vụ án và
không cung cấp tài liệu, chứng cứ mới.
7
7. Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán,
thành viên Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng
quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ khoản 2 Điều
308, Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông
Nguyễn Chiến H, bà Nguyễn Thị L; sửa bản án dân sự sơ thẩm số 20/2024/DS-
ST ngày 03/6/2024 của Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu, theo hướng: Bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn – ông Nguyễn Văn T
và bà Phan Thị Hải Y; bị đơn - ông Nguyễn Chiến H, bà Nguyễn Thị L trả lại
cho vợ chồng ông Nguyễn Văn T số tiền nợ gốc 2.000.000 đồng và tiền lãi phát
sinh theo mức 20%/năm từ ngày vay đến ngày trả hết nợ. Các nội dung khác của
bản án sơ thẩm không bị kháng cáo nên có hiệu lực pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm
tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của kiểm sát
viên. Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Đơn kháng cáo của ông Nguyễn Chiến H, bà Nguyễn Thị L đảm bảo
đúng thủ tục, nội dung và nộp trong thời hạn theo quy định tại các Điều 272, 273
của Bộ luật Tố tụng dân sự nên hợp lệ. Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận
xem xét lại bản án sơ thẩm số 20/2024/DS-ST ngày 03/6/2024 của Tòa án nhân
dân huyện Long Điền theo trình tự phúc thẩm.
[1.2] Xét sự vắng mặt của đương sự tại phiên tòa: Các đương sự vắng mặt
đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa, nhưng vắng mặt tại phiên tòa
lần thứ hai không vì sự kiện bất khả kháng hay trở ngại khách quan, một số
đương sự có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; căn cứ vào Điều 296 Bộ luật Tố tụng
dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2] Xét nội dung kháng cáo của ông Nguyễn Chiến H, bà Nguyễn Thị L
thì thấy:
[2.1] Về yêu cầu khởi kiện: Nguyên đơn - ông Nguyễn Văn T, bà Phan
Thị Hải Y yêu cầu bị đơn – ông Nguyễn Chiến H, bà Nguyễn Thị L có trách
nhiệm trả số tiền nợ gốc 2.100.000.000đồng và tiền lãi tính từ ngày 11/6/2022
(ngày hết thời hạn thế chấp) đến ngày Tòa án xét xử sơ thẩm (ngày 29/5/2024)
với lãi suất 0.83%/tháng (tương đương 9,96%/năm) với số tiền lãi suất làm tròn
là 400.000.000 đồng và yêu cầu công nhận Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng
đất số 3951 ngày 10/12/2021 do Văn phòng C1 chứng nhận có hiệu lực.
[2.2] Xét chứng cứ do các đương sự cung cấp thì thấy:
8
[2.2.1] Xét chứng cứ là Giấy biên nhận ngày 24/02/2020 là bản phô tô do
nguyên đơn – ông T, bà Y cung cấp thì thấy:
Nội dung của Giấy biên nhận ngày 24/02/2020 “Tôi Nguyễn Chiến H
CMND số 273314323. Tôi thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số TC
438094 để vay số tiền là 2.000.000.000đ của anh Nguyễn Văn T. Thời hạn là 01
tháng”.
Bị đơn ông H thừa nhận Giấy biên nhận ngày 24/02/2020 là do ông H viết
và ký tên. Nhưng ông H không thừa nhận vay số tiền 2.000.000.000đ và khẳng
định ông H chỉ vay số tiền 2.000.000đ, ba số “0” phía sau của số tiền
2.000.000.000đ là do phía nguyên đơn tự ý ghi thêm.
Tuy nhiên, nguyên đơn – ông T xác định bản chính Giấy biên nhận ngày
24/02/2020 đã bị thất lạc, còn bị đơn – ông H không cung cấp được bản chính.
Phòng K - Công an tỉnh B không thực hiện giám định tuổi mực, giám định chữ
viết trên tài liệu là bản phô tô. Như vậy, bị đơn không chứng minh được chỉ vay
số tiền 2.000.000 đồng của nguyên đơn. Do đó, nội dung trong Giấy biên nhận
ngày 24/02/2020 không làm căn cứ để xác định ông H chỉ vay của ông T số tiền
2.000.000 đồng như lời trình bày của ông H.
Trong quá trình làm việc tại Tòa án cấp sơ thẩm và tại phiên tòa phúc
thẩm, bị đơn ông H thừa nhận đã giao bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số R 438094 do Ủy ban nhân dân thị xã B (nay là thành phố B), tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu cấp ngày 08/5/2001 cho ông H để đảm bảo cho khoản vay ngày
24/02/2020 vào ngày 24/02/2020. Đồng thời, nguyên đơn và bị đơn cùng xác
nhận ngoài số tiền vay ngày 24/02/2020 thì giữa vợ chồng ông T và vợ chồng
ông H không còn khoản vay nào khác. Như vậy, có căn cứ xác định ông T có
cho ông H vay tiền ngày 24/02/2020 và vợ chồng ông H đã giao giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số R 438094 do Ủy ban nhân dân thị xã B (nay là thành
phố B), tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cấp ngày 08/5/2001 cho ông T giữ từ ngày
24/02/2020 để đảm bảo cho khoản tiền vay theo giấy Biên nhận ngày
24/02/2020.
[2.2.2] Xét chứng cứ là Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 3951 do
Văn phòng C1 chứng nhận ngày 10/12/2021 do nguyên đơn – ông T, bà Y cung
cấp thì thấy:
Nội dung của Hợp đồng thế chấp số 3951 ngày 10/12/2021 thể hiện:
“Điều 1: Nghĩa vụ được bảo đảm:
1. Bên A đồng ý thế chấp quyền sử dụng đất của mình để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên B.
2. Nghĩa vụ được bảo đảm là: 2.100.000.000đ (Hai tỷ một trăm triệu
đồng).
Điều 2: Tài sản thế chấp:
9
Quyền sử dụng đất của bên A theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
R438094 do Ủy ban nhân dân thị xã B (cũ), tỉnh BR-VT cấp ngày 08/5/2001…”.
Trong quá trình giải quyết vụ án và tại đơn kháng cáo ông H, bà L cho
rằng: do nguyên đơn – ông T đưa giang hồ đến nhà và ép buộc phía bị đơn phải
ký hợp đồng thế chấp. Chứng cứ ông H, bà L cung cấp là đơn xin xác nhận của
Công an xã P ngày 05/4/2023 kèm theo thiết bị lưu trữ dữ liệu điện tử “USB” để
chứng minh rằng nguyên đơn đưa người đến nhà bị đơn ép buộc đòi nợ trong
khoảng thời gian từ ngày 29/11/2021 đến ngày 03/12/2021. Tòa án đã tiến hành
xác minh tại Công an xã P ngày 29/6/2023, Công an xã P cho biết: “Việc ông H
cung cấp Video phản ánh nhóm người của ông T quậy phá. Qua xác minh không
có tài liệu, chứng cứ chứng minh việc quậy phá nên công an xã tiến hành cho
làm cam kết...”. Như vậy, không có căn cứ để cho rằng ông H, bà L bị vợ chồng
ông T ép buộc để ký hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất.
Bị đơn - ông H, bà L xác nhận “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
R438094 do Ủy ban nhân dân thị xã B (cũ), tỉnh BR-VT cấp ngày 08/5/2001”
ghi trong hợp đồng thế chấp chính là “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
TC 438094” được ghi trong giấy biên nhận ngày 24/02/2020. Như vậy, mặc dù
nguyên đơn – ông T, bà Y không cung cấp được giấy biên nhận số tiền
2.100.000.000 đồng khi ký hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, bị
đơn thừa nhận ngày 10/12/2021 có thế chấp cho nguyên đơn quyền sử dụng đất
thuộc thửa đất số 232, tờ bản đồ số 15, tại phương K, thành phố B theo giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số R 438094 do Ủy ban nhân dân thị xã B (nay là
thành phố B) cấp ngày 08/5/2001, đây cũng chính là tài sản thế chấp để đảm bảo
cho số tiền vay theo giấy biên nhận ngày 24/02/2020. Theo hợp đồng thế chấp
quyền sử dụng đất số 3951 do Văn phòng C1 chứng nhận ngày 10/12/2021 thì
ông H, bà L thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R 438094 để đảm
bảo cho khoản vay 2.100.000.000 đồng, nhưng trên thực tế giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số R 438094 đã được vợ chồng bị đơn – ông H bàn giao cho
vợ chồng ông T từ ngày 24/02/2020. Đồng thời, theo xác nhận của bị đơn thì
đến thời điểm ký hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất ngày 10/12/2021, thì
phía bị đơn chưa thanh toán được cho phía nguyên đơn số tiền vay ngày
24/02/2020. Như vậy có thể thấy, nếu số tiền vay chỉ là 2.000.000 đồng (như bị
đơn xác nhận), nhưng trong khoảng thời gian dài (từ ngày 24/02/2020 đến ngày
10/12/2021) mà bị đơn không trả, dẫn đến việc ngày 10/12/2021, hai bên phải ra
ký kết hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất (giá trị của thửa đất thế chấp tương
đương 7.000.000.000 đồng) có công chứng chỉ nhằm đảm bảo cho khoản vay
2.000.000 đồng, với thời hạn thế chấp là 6 tháng như lời trình bày của bị đơn là
hoàn toàn không có căn cứ, là không hợp lý, không hợp tình.
Đồng thời, nếu không được nhận số tiền 2.100.000.000 đồng thì ông H, bà
L không thể giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông T, bà Y giữ.
Trường hợp, nếu không nhận được số tiền 2.100.000.000 đồng thể hiện trong
hợp đồng thế chấp thì vợ chồng ông H, bà L được quyền phản đối không ký tên
trong hợp đồng thế chấp hoặc tố cáo, khiếu nại ông T, bà Y ngay sau khi ký hợp
10
đồng thế chấp. Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn cho rằng việc giao nhận
tiền đã được các bên thực hiện từ năm 2020, khi lập hợp đồng thế chấp ngày
10/12/2021 đã xác định rõ số tiền vay nên không lập giấy giao nhận số tiền
2.100.000.000 đồng. Do đó, khi bị đơn yêu cầu nguyên đơn cung cấp bản chính
giấy giao nhận số tiền 2.100.000.000 đồng, nhưng nguyên đơn không thể thực
hiện được là phù hợp.
Như vậy, căn cứ vào thời gian vay mượn tiền từ năm 2020 theo xác nhận
của nguyên đơn, bị đơn, cùng việc giao bản chính giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số R 438094 và nội dung của hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất
ngày 10/12/2021 thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có đủ cơ sở để xác định: Tính
đến ngày 10/12/2021, ông H, bà L vay tiền của ông T, bà Y số tiền
2.100.000.000 đồng là có thật.
Nay, bị đơn – ông H, bà L xác nhận chưa trả được số tiền nợ gốc nào cho
ông T, bà Y; do đó Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn và buộc bị đơn phải có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn số tiền nợ gốc
2.100.000.000 đồng là có căn cứ.
Mặt khác, hợp đồng thế chấp hết hạn vào ngày 11/6/2022, điều này có
nghĩa bên vay (ông H, bà L) phải có trách nhiệm thanh toán số tiền vay gốc cho
ông T, bà Y. Tuy nhiên, từ ngày 11/6/2022, ông H, bà L chưa thanh toán số tiền
nợ gốc, nên Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ
luật dân sự để chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, theo đó buộc ông H, bà L
phải trả thêm khoản tiền lãi chậm trả với mức lãi suất là 0,83%/tháng tương
đương 9.96%/năm tính từ ngày 11/6/2022 (ngày hết thời hạn thế chấp) đến ngày
Tòa án xét xử sơ thẩm (29/5/2024), tương ứng số tiền 400.000.000 đồng là phù
hợp.
[2.3] Bà L cùng ông Hữu ký hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để đảm
bảo cho khoản vay ngày 24/02/2020. Nên Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định bà L
có liên quan và có trách nhiệm liên đới cùng ông H trả số tiền nợ trên cho ông T,
bà Y là có căn cứ.
[2.4] Về giải quyết yêu cầu của nguyên đơn công nhận tính hiệu lực của
hợp đồng thế chấp, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử, không có kháng cáo, kháng
nghị nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét giải quyết.
[2.5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Tòa án cấp sơ thẩm đã giải quyết đúng
quy định của pháp luật về án phí, lệ phí tòa án.
[2.6] Từ những phân tích và nhận định trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm
có đủ cơ sở để không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông H, bà L, giữ nguyên
bản án dân sự sơ thẩm.
[3] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo không được chấp
nhận nên ông H, bà L mỗi người phải chịu 300.000 đồng.
Ông H là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí nên được miễn toàn bộ
án phí.
11
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự;
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Chiến H, bà
Nguyễn Thị L;
Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 20/2024/DS-ST ngày 03/6/2024 của
Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Cụ thể:
Áp dụng: Điều 122, 317, 319, 321, 357, 463, 466, 468 Bộ luật dân sự năm
2015Điều 12, 26, 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14ngày 31/12/2016 của Ủy
ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn
Văn T và bà Phan Thị Hải Y đối với bị đơn ông Nguyễn Chiến H và bà Nguyễn
Thị L về việc “Tranh chấp Hợp đồng vay tài sản”.
Buộc ông Nguyễn Chiến H và bà Nguyễn Thị L phải có trách nhiệm trả
cho ông Nguyễn Văn T và bà Phan Thị Hải Y số tiền 2.500.000.000đ (Hai tỷ
năm trăm triệu đồng); trong đó: Tiền nợ gốc là 2.100.000.000đ (Hai tỷ một trăm
triệu đồng) và tiền lãi là 400.000.000đ (Bốn trăm triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho
đến khi thi hành xong các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải
trả cho bên được thi hành án khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo
mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự tương ứng với
thời gian chưa thi hành án.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn về
việc yêu cầu công nhận hiệu lực của Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số
3951, quyển số 01/2021/TP/CC-SCC/HĐGD do Văn phòng C1 chứng nhận
ngày 10/12/2021.
Tuyên bố Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 3951, quyển số
01/2021/TP/CC-SCC/HĐGD do Văn phòng C1 chứng nhận ngày 10/12/2021
giữa ông Nguyễn Văn T và bà Phan Thị Hải Y với ông Nguyễn Chiến H và bà
Nguyễn Thị L vô hiệu.
3. Buộc ông Nguyễn Văn T và bà Phan Thị Hải Y trả lại bản chính giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số R 438094 do Ủy ban nhân dân thị xã B (nay là
thành phố B), tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cấp ngày 08/5/2001 đối với thửa đất 232,
tờ bản đồ số 15, tại phường K, thành phố B, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cho ông
Nguyễn Chiến H và bà Nguyễn Thị L.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Nguyễn Chiến H được miễn toàn bộ án phí.
12
Bà Nguyễn Thị L phải chịu 41.000.000đ (Bốn mươi mốt triệu đồng).
Ông Nguyễn Văn T và bà Phan Thị Hải Y phải chịu 300.000đ (Ba trăm
ngàn đồng), được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 37.755.000 đồng
theo Biên lai thu số 0009226 ngày 09/11/2022 của Chi Cục thi hành án dân sự
huyện Long Điền; nên ông Nguyễn Văn T và bà Phan Thị Hải Y được hoàn trả
lại số tiền 37.455.000đ (Ba mươi bảy triệu bốn trăm năm mươi lăm ngàn đồng).
5. Về án phí dân sự phúc thẩm:
Ông Nguyễn Chiến H được miễn toàn bộ án phí.
Bà Nguyễn Thị L phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng), được khấu trừ
vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu số 0001529
ngày 17/6/2024 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện Long Điền. Bà L đã nộp
xong.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày
10/12/2024).
7. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b
và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định
tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- VKSND tỉnh BR-VT; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- TAND huyện Long Điền;
- VKSND huyện Long Điền;
- Chi cục THADS huyện Long Điền;
- Các đương sự;
- Lưu: Hồ sơ, Tòa DS, VP.
Cao Xuân Long
13
Tải về
Bản án số 263/2024/QĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 263/2024/QĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Bản án số 221/2024/DS-PT ngày 16/12/2024 của TAND tỉnh Bình Thuận về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm