Bản án số 25/2022/HS-PT ngày 17/01/2022 của TAND tỉnh Đồng Nai về tội bắt, giữ người trái pháp luật

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 25/2022/HS-PT

Tên Bản án: Bản án số 25/2022/HS-PT ngày 17/01/2022 của TAND tỉnh Đồng Nai về tội bắt, giữ người trái pháp luật
Tội danh:
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đồng Nai
Số hiệu: 25/2022/HS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 17/01/2022
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 25/2022/HS-PT NGÀY 17/01/2022 VỀ TỘI BẮT, GIỮ NGƯỜI TRÁI PHÁP LUẬT

Ngày 17 tháng 01 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai tiến hành xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 326/2021/TLPT-HS ngày 01 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo Trần Ngọc T và đồng phạm, do có kháng cáo của các bị cáo Trần Ngọc T, Lê Văn H, Trần Quốc H3 đối với bản án hình sự sơ thẩm số 05/2021/HS-ST ngày 19/10/2021 của Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai.

Các bị cáo có kháng cáo:

1. Bị cáo Trần Ngọc T (tên gọi khác: T Chó Con), sinh năm: 1990, tại thành phố Hồ Chí Minh; Nơi cư trú: phường Phước T, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 12/12; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Trần Văn G, sinh năm 1966 và bà Thiều Ngọc L, sinh năm 1969; Bị cáo là con thứ nhất trong gia đình có 02 anh em; có vợ Lê Thị T1, sinh năm 1990, có 02 người con sinh năm 2016 và năm 2020;

- Tiền án: có 03 tiền án: Ngày 22/5/2009, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt 04 năm tù về tội “Cướp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tại trại giam Xuân Lộc ngày 05/6/2012; Ngày 23/12/2014, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt 07 năm tù về tội “Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản” và “Không tố giác tội phạm”. Chấp hành xong hình phạt tù tại trại giam Xuân Lộc ngày 11/10/2018; Ngày 02/8/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt 06 tháng 28 ngày tù về tội “Bắt giữ người trái pháp luật”, trả tự do tại phiên tòa; Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/3/2021 cho đến nay - Có mặt.

2. Bị cáo Lê Văn H (tên gọi khác: H Đen), sinh năm: 1987, tại tỉnh Đồng Nai; Nơi cư trú: thị trấn Long G, huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 12/12; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Lê Văn H1, sinh năm 1954 và bà V Thị H2, sinh năm 1956; Bị cáo là con thứ ba trong gia đình có ba anh, chị, em; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: Có 01 tiền án: Ngày 20/10/2010, Tòa án nhân dân Quận 12, thành phố Hồ Chí Minh tổng hợp hình phạt buộc H phải chấp hành 11 năm tù về các tội “Cướp tài sản” và “Cưỡng đoạt tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù tại trại giam Xuân Lộc ngày 02/01/2019; Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 24/2/2021 đến nay – Có mặt.

3. Bị cáo Trần Quốc H3, sinh năm: 1996, tại thành phố Hồ Chí Minh; Nơi cư trú: phường Tân M, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 06/12; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn Văn N, sinh năm 1970 và bà Đặng Thị H4, sinh năm 1972; Bị cáo là con thứ hai trong gia đình có ba anh em; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 8/2/2021, Ủy ban nhân dân phường Phước T, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 2.500.000 đồng về hành vi “Tàng trữ các loại dao nhằm mục đích gây thương tích cho người khác”. Bị cáo đã chấp hành xong ngày 08/2/2021.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 24/2/2021 đến nay – Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng cuối năm 2020, bị cáo Trần Ngọc T, sinh năm 1990, ngụ tại phường Phước T, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai được một đối tượng tên V (chưa rõ nhân thân, lai lịch) nhờ tìm một người tên P, ngụ tại khu vực ngã ba Dầu Giây, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai để đòi nợ. Do không biết rõ về khu vực ngã ba Dầu Giây nên bị cáo T nhờ bị cáo Lê Văn H, sinh năm 1987, ngụ tại xã Long Giao, huyện Cẩm Mỹ tìm giúp và bị cáo H đồng ý. Ngày 22/2/2021, bị cáo H nói với bị cáo T là đã hẹn gặp được người tên P nên bị cáo T đã điều khiển xe ô tô hiệu Honda CR -VL biển kiểm soát 60A-xxx.xx chở bị cáo H và bị cáo Trần Quốc H3, sinh năm 1996, phường Tân M, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đi gặp P. Trên đường đi thì bị cáo T gặp anh Dương Ngọc T2, sinh năm 1976, ngụ tại phường Phước T, thành phố Biên Hòa đang điều khiển xe ô tô hiệu Mazda biển kiểm soát 60A-xxx.xx đi cùng chiều nên rủ anh T2 đi cùng với nhóm bị cáo H.

Khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, khi đến khu vực trước cổng chợ H, thuộc ấp Hưng H, xã Hưng L, huyện Thống Nhất thì nhóm của bị cáo T gặp anh Nguyễn Ngọc P, sinh năm 1988, xã Hưng L, huyện Thống Nhất nên xuống nói chuyện với anh P. Sau khi nói chuyện, thấy nhóm của bị cáo T đông, anh P bỏ chạy bộ vào quán bún của ông Huỳnh Văn T3, thì bị cáo H hô “Cướp, cướp” và cùng bị cáo T, bị cáo H3 chạy đuổi theo. Do chạy trước nên bị cáo T va vào cánh cửa kính nhà ông T4 làm kính bị vỡ, bị cáo T bị thương ở tay, thấy vậy bị cáo H và bị cáo H3 chạy vào dùng tay, chân đánh anh P, sau đó kẹp cổ, khóa tay dẫn anh P ra ngoài, lúc này bị cáo T nhờ T2 mở cửa sau xe ô tô biển kiểm soát 60A- xxx.xx để bị cáo H3 và bị cáo H đưa P lên xe. Do tay bị thương không lái xe được nên T nhờ anh T2 qua chở bị cáo T đến Trung tâm y tế huyện Thống Nhất để điều trị vết thương, trên đường đi, bị cáo H và bị cáo H3 tiếp tục dùng tay và túi đựng đinh vít đánh vào đầu, người anh P, đồng thời bị cáo T gọi điện thoại theo chế độ Facetime cho người tên V để nhận dạng P, sau khi V xác nhận người bị nhóm bị cáo T bắt không phải là người tên P cần tìm thì nhóm bị cáo T mới biết đã bắt nhầm người nên sau khi bị cáo T băng bó vết thương ở tay xong đã chở anh P đến gần Khu công nghiệp Dầu Giây và thả anh P xuống còn bị cáo T và đồng bọn bỏ đi.

Ngày 23/2/2021, anh Nguyễn Ngọc P đến Công an huyện Thống Nhất trình báo về hành vi bắt giữ người của bị cáo Lê Văn H, bị cáo Trần Quốc H3 và bị cáo Trần Ngọc T.

- Vật chứng thu giữ và xử lý gồm:

+ 01 áo thun màu đỏ sẫm, 01 quần jean màu xanh xám của bị cáo Lê Văn H;

01 áo thun màu đen, 01 quần jean màu đen, 01 đôi giày thể thao hiệu Adidas của bị cáo Trần Quốc H3, đề nghị Tòa án tuyên tịch thu tiêu hủy.

+ 01 điện thoại di động Iphone 8 plus màu đen của bị cáo Lê Văn H; 01 điện thoại di động Iphone 7 Plus màu đen của bị cáo Trần Quốc H3 không liên quan đến vụ án nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thống Nhất đã trả lại cho các bị cáo.

+ 01 xe ô tô hiệu Honda CR-VL, biển kiểm soát 60A-xxx.xx có số khung: RLHRW1878LY001254, số máy: L15BG233186 mà các bị cáo sử dụng làm phương tiện gây án là của ông Trần Văn G (cha ruột bị can T), khi bị cáo T sử dụng xe vào việc phạm tội thì ông G không biết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thống Nhất đã trả lại xe ô tô trên cho ông G.

- Về dân sự: Gia đình bị cáo Nguyễn Ngọc T đã bồi thường cho anh Nguyễn Ngọc P số tiền 50.000.000 đồng, anh P đã nhận đủ và không có yêu cầu gì khác.

Tại bản án sơ thẩm số 05/2021/HS-ST ngày 19/10/2021 của Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai áp dụng khoản 1 Điều 157; điểm b, s khoản 1, khoản 2, Điều 51; điểm h, khoản 1, Điều 52 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Ngọc T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật”, thời hạn tù tính từ ngày 26/3/2021; Áp dụng khoản 1 Điều 157; điểm s, khoản 1, khoản 2, Điều 51; điểm h, khoản 1, Điều 52 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Văn H 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật”, thời hạn tù tính từ ngày 24/02/2021; Áp dụng khoản 1, Điều 157; điểm i, s, khoản 1, khoản 2, Điều 51 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Quốc H3 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 24/02/2021.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 22/10/2021, các bị cáo Trần Ngọc T, bị cáo Lê Văn H và bị cáo Trần Quốc H3 có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo Trần Ngọc T, bị cáo Lê Văn H và bị cáo Trần Quốc H3 đã khai nhận tội khẳng định bản án sơ thẩm xử là đúng, các bị cáo đề nghị Hội động xét xử xem xét giảm án cho các bị cáo.

Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai:

Khẳng định bản án sơ thẩm xử các bị cáo về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” là đúng pháp luật. Các bị cáo có nhân thân xấu, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và xử các bị cáo với mức án trên là phù hợp. Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ đặc biệt nào mới nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng, các cơ quan tiến hành tố tụng sơ thẩm và phúc thẩm đều thực hiện đầy đủ, trình tự thủ tục theo quy định pháp luật. Kháng cáo của bị cáo trong hạn luật định nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Về nội dung vụ án:

Vào khoảng 15 giờ ngày 22/02/2021, tại khu vực chợ Hưng L thuộc ấp Hưng H, xã Hưng L, huyện Thống Nhất. tỉnh Đồng Nai các bị cáo Trần Ngọc T, Lê Văn H và Trần Quốc H3 đã có hành vi bắt giữ trái pháp luật và đánh đập đối với anh Nguyễn Ngọc P nhằm mục đích để đòi nợ cho một người tên V (chưa rõ nhân thân, lai lịch). Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” được quy định tại khoản 1, Điều 157 của Bộ luật hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm xử là đúng người, đúng tội.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo:

Bị cáo T và bị cáo H có nhân thân xấu, phạm tội lần này là tái phạm nguy hiểm và tái phạm; Tòa án cấp sơ thẩm xử bị cáo T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù; xử phạt bị cáo H 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù và bị cáo H3 01 (một) năm tù là không nặng mà tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo. Các bị cáo kháng cáo nhưng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ đặc biệt nào khác nên không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai.

[4] Về quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại phiên tòa phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[5] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ điểm a, khoản 1, Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự;

1. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Trần Ngọc T, bị cáo Lê Văn H và bị cáo Trần Quốc H3, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 05/2021/HS-ST ngày 19/10/2021 của Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai.

2. Căn cứ khoản 1, Điều 157; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 58 và Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Căn cứ khoản 2, Điều 106; khoản 2, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự tuyên bố các bị cáo Trần Ngọc T, Lê Văn H, Trần Quốc H3 phạm tội “Bắt, giữ người trái pháp luật”.

- Áp dụng khoản 1, Điều 157; điểm b, s khoản 1, khoản 2, Điều 51; điểm h, khoản 1, Điều 52 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Bị cáo Trần Ngọc T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 26/3/2021.

- Áp dụng khoản 1, Điều 157; điểm s, khoản 1, khoản 2, Điều 51; điểm h, khoản 1, Điều 52 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Bị cáo Lê Văn H 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 24/02/2021.

- Áp dụng khoản 1, Điều 157; điểm i, s, khoản 1, khoản 2, Điều 51 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Bị cáo Trần Quốc H3 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 24/02/2021.

3. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016; Các bị cáo phải nộp 200.000đ án phí Hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Tải về
Bản án số 25/2022/HS-PT Bản án số 25/2022/HS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất