Bản án số 24/2024DS-PT ngày 18/07/2024 của TAND tỉnh Thừa Thiên Huế về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 24/2024DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 24/2024DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 24/2024DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 24/2024DS-PT ngày 18/07/2024 của TAND tỉnh Thừa Thiên Huế về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Thừa Thiên Huế |
Số hiệu: | 24/2024DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 18/07/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Vụ án về việc tranh chấp quyền sử dụng đất |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
Bản án số: 24/2024/DS-PT
Ngày: 18-7-2024
V/v Tranh chấp quyền sử dụng
đất.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Ông Trần Ngọc Tú.
Các Thẩm phán: Ông Trần Hưng Bính và ông Bùi Văn Thanh.
- Thư ký phiên toà: Ông Nguyễn Hoàng Anh, Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Đi din Vin kim st nhân dân tnh Tha Thiên Hu: Ông Trần
Quang Hòa, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Trong các ngày 15 tháng 7 năm 2024 và ngày 15 tháng 7 năm 2024, tại
trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế (số A đường T, phường P, thành
phố H) mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số:
08/2024/TLPT-DS ngày 11 tháng 4 năm 2024 về việc “Tranh chấp quyền sử
dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 03/2024/DS-ST ngày 31/01/2024 ca Tòa
án nhân thành phố H bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 88/2024/QĐ-PT ngày
01 tháng 7 năm 2024, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đình M, sinh năm 1957; địa chỉ: số A đường
H, phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; có mặt.
Bị đơn: Ông Đỗ Văn T, sinh năm 1961; địa chỉ: số A đường H, phường
A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; có mặt.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
- Bà Phan Thị D (vợ ca ông M), sinh năm 1956; địa chỉ: số A đường H,
phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; có mặt.
- Người đại diện theo uỷ quyền của bà D: Anh Nguyễn Hồng S, sinh năm
1984; địa chỉ: số A đường H, phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; có
mặt.
- Bà Huỳnh Thị L (vợ ca ông T), sinh năm 1964; địa chỉ: số A đường H,
phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; có mặt.
Người kháng cáo: Bị đơn là ông Đỗ Văn T.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án sơ thẩm và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì nội
dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyên đơn - ông Nguyễn Đình M trình bày:
2
Nguồn gốc thửa đất số 64, tờ bản đồ số 36, diện tích 64,3 m
2
tại số A Kiệt
D đường H, phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế là do ông Nguyễn
Đình M được Công ty C1 phân lô cấp thửa đất này vào ngày 23/12/1995. Sau
được phân lô, vào năm 1996, vợ chồng ông M bà D đã xây dựng nhà cấp 4 và
sinh sống ổn định cho đến nay, hàng năm gia đình đóng thuế đầy đ. Thời điểm
vợ chồng ông M bà D xây dựng nhà thì cả khu đất này chỉ có gia đình ông M bà
D ở, còn lại là đất trống. Ngôi nhà cấp 4 này gia đình ông M bà D vẫn giữ
nguyên hiện trạng như hiện nay, chỉ có sửa chữa thêm chứ không thay đổi kết
cấu ngôi nhà cũ.
Việc ông Đỗ Văn T cho rằng năm 1996 gia đình ông T nhận lại lô đất ca
bà Đậu Thị L1 rồi tiến hành xây dựng phần móng, xây nhà tạm trên phần móng
đó và được nhiều người chứng kiến và đến năm 2000 gia đình ông Đỗ Văn T
tiến hành xây dựng nhà ở kiên cố trên phần móng đó thì phía hộ gia đình ông M
không đồng ý. Vì qua Bản xác nhận lời khai ca những người làm chứng (gồm
ông Lê Ngọc P, ông Đặng Đình C, bà Phạm Thị K) được Ủy ban nhân dân
phường A, thành phố H xác thực thể hiện tại thời điểm năm 1996 gia đình ông
Đỗ Văn T không xây dựng công trình nào trên thửa đất được cấp và đến năm
2000, gia đình ông T tiến hành xây dựng nhà đã bị chính quyền địa phương xử
phạt vì xây dựng trái phép. Tại thời điểm năm 1996, chính quyền địa phương
không cho phép xây dựng các công trình kiên cố trên 29 lô đất được cấp, nên khi
gia đình ông M đã tiến hành xây dựng nhà vào đầu năm 1996 và đã bị chính
quyền xử phạt, nên không có việc gia đình ông T là xây dựng trước nhà ông M.
Ngoài ra, ông Đỗ Văn T cho rằng việc xây dựng nhà có phần be tầng 1,
tầng 2 không lấn chiếm sang nhà ông M là không đúng. Theo bản vẽ cấp đất cho
29 hộ gia đình ca Công ty C1 thì lô đất ca gia đình ông Đỗ Văn T được cấp có
bề ngang phía trước là 5.0m, phía sau là 5.0m. Tuy nhiên, ông T xây dựng bề
ngang phía trước là 5.1m, ở phía sau là 5.0m và xây thêm 2 đường be tầng 1,
tầng 2 có bề rộng 0.2m. Do đó chiều rộng thực tế ngôi nhà mà ông T xây dựng
có bề ngang phía trước là 5.3m, phía sau là 5.2m, vượt quá bề ngang khuôn viên
được cấp và chồng lấn phần be tầng 1, tầng 2 lên phần đất gia đình ông M. Bản
thân gia đình ông T biết rõ điều đó nên dù được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất vào năm 2010 nhưng không được công nhận phần diện tích các be này
vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Mặt khác, trong quá trình gia đình ông
T xây dựng nhà, do đặc thù công việc và sinh hoạt gia đình nên vợ chồng ông M
bà D không nắm rõ quá trình xây dựng nhà ca gia đình ông T. Bên cạnh đó, do
kết cấu ngôi nhà có kiến trúc xây dựng hình chữ L nên khi vào nhà bếp có hành
lang đi vào nên ông T nhầm tưởng đây là phần đất trống. Thực tế không có phần
đất trống nào cả, diện tích đất gia đình ông M sử dụng là 72m
2
. Do đó, việc ông
T xây dựng phần be tầng 1, tầng 2 lấn chiếm sang nhà ông M là ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích hợp pháp trong việc quản lý sử dụng nhà đất ca ông.
Năm 2015, gia đình ông M làm th tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, chính ông Đỗ Văn T đã ký vào biên bản xác định ranh giới. Do ngôi
nhà hiện nay xuống cấp, gia đình ông M khi xây dựng lại nhà mới thì ông M
mới biết gia đình ông T, bà L đã lấn chiếm một phần diện tích ca gia đình ông.
Do đó, ông M khởi kiện yêu cầu ông T và bà L trả lại diện tích đất đã lấn chiếm
3
là 2,6 m
2
và tháo dỡ các công trình trái phép trên phần diện tích này, gồm 08
công trình sau:
Be bê tông tầng 1; Be bê tông tầng 2; Ô văng cửa sổ; Tôn chống thấm
vách nhà; 02 giàn nóng điều hòa; Ống thoát nước từ tầng 2 xuống; 02 mái ca
am thờ; Ống nước sắt phục vụ cấp nước.
Bị đơn - ông Đỗ Văn T trình bày:
Nguồn gốc thửa đất số 65, tờ bản đồ số 36, diện tích 67m2, địa chỉ tại số
A kiệt D đường H, phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế là do Công ty
C1 cấp cho bà Đậu Thị L1, nhưng sau đó bà L1 và ông T đã tự thỏa thuận miệng
để thay đổi vị trí lô đất cho nhau và được sự đồng ý ca Công ty C1. Năm 2010,
vợ chồng ông T được Ủy ban nhân dân thành phố H cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đối với thửa đất nêu trên.
Vào năm 1996, gia đình ông T xây phần móng và một phòng để ở trên
thửa đất được cấp. Tháng 8/2000, vợ chồng ông T bà L xây dựng nhà ở 01 tầng
gồm phần móng và phần be. Số tiền bỏ ra xây dựng ngôi nhà trên thửa đất là tiền
ca vợ chồng ông bỏ ra chứ không có sự đóng góp ca bất cứ ai khác. Tuy nhiên
việc xây dựng nhà ở ca gia đình ông không lấn chiếm gì đến diện tích đất ca
gia đình ông M, khi xây dựng gia đình ông T có chừa ra 01 khoảng đất trống
chữ V diện tích khoảng 5m
2
ở phía trước thửa đất. Đến tháng 3/2003, gia đình
ông tiếp tục xây tầng 2, phần be tầng 2 có bề ngang là 20cm đúng với phần be
ca tầng 1 và móng nhà. Do khi vợ chồng ông T xây dựng thì công trình không
được cấp phép xây dựng nên lợi dụng điểm yếu này nên ông M mới gây khó dễ
và cho rằng ông lấn chiếm không gian đất nhà ông M. Để được tiếp tục hoàn
thiện công trình xây dựng thì ông T đã viết giấy xác nhận với nội dung có lấn
chiếm phần be ở khu vực nhà bếp ông M.
Gia đình ông T đã xây dựng đúng với phần đất ca vợ chồng ông được
nhà nước cấp và việc xây dựng này hoàn thành trước khi gia đình ông M được
tin cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất. Ông T không đồng ý với bản vẽ
nhà, đất do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố H lập ngày
12/4/2022 thể hiện gia đình ông lấn chiếm đất nhà ông M.
Ông T cho rằng quy trình cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho gia đình ông Nguyễn Đình M
và bà Phan Thị D là sai nhưng quá trình giải quyết vụ án, ông không có yêu cầu
huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này.
Việc năm 2015, ông T ký vào biên bản xác định ranh giới cho gia đình
ông M là do ông T tin tưởng là đo đạc đúng, không có chuyện tranh chấp hay
lấn chiếm gì xảy ra, ông cứ nghĩ phần be và các tài sản là thuộc về phần đất ca
gia đình chứ không nghĩ lại nằm trong phần diện tích đất cấp cho gia đình ông
M năm 2019. Năm 2003, khi vợ chồng ông T bà L xây nhà thì ông M mới có ý
kiến; vì sợ ồn ào, nên ông T đã làm văn bản xác nhận việc vợ chồng ông xây
dựng nhà có lấn chiếm phần diện tích phần sau nhà ông M. Đối với phần xác
nhận này do không có sự đồng ý ca bà L nên không có giá trị pháp lý. Đối với
phần diện tích phía trước nhà thì đó là phần đất trống mà tại thời điểm gia đình
ông T, bà L xây dựng thì phần đất này chưa cấp cho ai nên ông T bà L đã sử
dụng phần đất này để xây dựng tài sản dưới lòng đất và tạo lập các tài sản như
4
ống nước dẫn từ tầng 2, be, mái am thờ, ống nước sắt. Do đó, ông T không đồng
ý yêu cầu khởi kiện ca nguyên đơn, đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy
định pháp luật.
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là bà Phan Thị D (vợ ca ông
M) thống nhất với phần trình bày ca ông Nguyễn Đình M, không bổ sung ý
kiến gì khác.
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là bà Huỳnh Thị L (vợ ca
ông T) thống nhất ý kiến với phần trình bày ca ông Đỗ Văn T, không bổ sung ý
kiến gì khác
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 03/2024/DS-ST ngày 31/01/2024, Tòa án
nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế đã quyết định:
Căn cứ khoản 9 Điều 26, khoản 1 Điều 35, Điều 39, Điều 147 ca Bộ luật
Tố tụng Dân sự năm 2015;
Áp dụng khoản 2 Điều 164, khoản 2 Điều 175, khoản 1 Điều 176 ca Bộ
luật Dân sự năm 2015; khoản 7 Điều 166, khoản 1 Điều 170, Điều 203 Luật đất
đai năm 2013; Điều 12, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14
ngày 30/12/2016 ca Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện ca nguyên đơn. Buộc ông Đỗ
Văn T và bà Huỳnh Thị L phải tháo dỡ phần lấn chiếm như sau:
Be bê tông tầng 01 có kích thước 2,6m
2
xây dựng (chiều dài 13,1m, chiều
rộng 0,2m); Be bê tông tầng 02 có kích thước 2,6m
2
xây dựng (chiều dài 13,1m,
chiều rộng 0,2m); Ô văng tầng 02 có kích thước 0,32m
2
xây dựng (chiều dài
1,29m, chiều rộng 0,25m); Tôn chống thấm vách nhà tầng 02; Ống thoát nước từ
tầng 02 xuống mặt đất; 02 mái am thờ ở tầng 02; Ông nước sắt nằm dưới lòng
đất sử dụng làm đường dẫn nước phục vụ sinh hoạt; 02 giàn nóng điều hoà tầng
02. Để trả lại diện tích quyền sử dụng đất lấn chiếm là 2,6m
2
có chiều ngang
0,2m, chiều dài 13,1m cho ông Nguyễn Đình M, bà Phan Thị L2.
(Vị trí, kích thước ca phần diện tích cũng như phần tài sản trên phần diện
tích lấn chiếm thể hiện tại Bản vẽ kèm theo Bản án).
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, lãi suất do chậm thi
hành án, quyền và nghĩa vụ thi hành án, án phí và quyền kháng cáo cho các
đương sự theo luật định.
Ngày 02/02/2024, bị đơn là ông Đỗ Văn T có đơn kháng cáo toàn bộ Bản
án dân sự sơ thẩm số 03/2024/DS-ST ngày 31/01/2024 ca Tòa án nhân dân
thành phố H và đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm tỉnh Thừa Thiên Huế hy toàn bộ
Bản án nêu trên với lý do: Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm Tố tụng; không khách
quan trong việc xét xử và đánh giá chứng cứ, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến
quyền lợi ích hợp pháp ca gia đình ông.
Sau khi thụ lý vụ án theo th tục phúc thẩm, ngày 26/4/2024 ông Đỗ Văn
T có ý kiến trình bày: “Nay, tại cấp phúc thẩm tôi muốn Tòa án tạo điều kiện
cho hai bên, giữa hộ gia đình tôi với hộ gia đình ông Nguyễn Đình M ngồi lại
thỏa thuận với nhau. Nếu được tôi sẽ bồi thường lại giá trị bằng tiền cho phía hộ
ông M mà không cần phải tháo dỡ các công trình phụ be, mái xối, hệ thống ống
dẫn nước,... ca nhà tôi đi. Vì các công trình này nhà tôi đã xây dựng từ rất lâu
5
rồi, ảnh hưởng đến kết cấu nhà. Việc ký biên bản ranh giới hồi đó vào ngày
15/4/2015 là do tôi không để ý, do ch trương ca P1 làm thẻ đỏ đồng loạt nên
tôi mới ký; việc họ dùng bản vẽ năm 2015 để làm thẻ đỏ năm 2019 là không
đúng, vì nếu làm thẻ đỏ năm 2019 thì phải đo vẽ lại, xác định biên bản ranh giới
lại mới đúng quy định”.
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Đỗ Văn T và vợ là bà Huỳnh Thị L đề nghị
được bồi thường cho hộ gia đình ông Nguyễn Đình M số tiền 50.000.000 đồng
để được giữ lại các kết cấu xây dựng gắn liền với nhà ở không bị tháo dỡ theo
bản án dân sự sơ thẩm mà Tòa án nhân dân thành phố H đã tuyên. Trong trường
hợp phía nguyên đơn không chấp nhận thì đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận
đơn kháng cáo ca bị đơn để hy bản án dân sự sơ thẩm ca Tòa án nhân dân
thành phố H.
Đối với phía nguyên đơn ông Nguyễn Đình M, người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan là bà D (vợ ca ông M) và người đại diện theo y quyền ca bà D
là anh Nguyễn Hồng S (con trai ca ông M, bà D) có Đơn trình bày ý kiến với
Tòa án ngày 27/5/2024 với nội dung: “Không đồng ý, không chấp nhận ý kiến
ca bị đơn ông Đỗ Văn T và đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xét
xử vụ án theo bản án sơ thẩm”.
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông M, bà D và người đại diện theo y quyền
ca bà D (anh S) đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận đơn kháng cáo ca
bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế phát biểu ý kiến:
Về tố tụng, từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi nghị án, Thẩm phán, Hội
đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong vụ án đều
tuân theo đúng các quy định ca Bộ luật Tố tụng dân sự, không có vi phạm gì
cần phải kiến nghị, khắc phục.
Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 148,
khoản 1 Điều 308 ca Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số Nghị
quyết 326/2016/UBTVQH 14 ca Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức
thu, miễn, giảm, thu, nộp và quản lý án phí và lệ phí Tòa án để giải quyết theo
hướng không chấp nhận kháng cáo ca bị đơn, giữ nguyên quyết định ca bản
án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại
phiên toà, lời trình bày ca các đương sự, kết quả tranh luận tại phiên toà, ý kiến
ca đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, Hội đồng xét xử phúc
thẩm nhận định:
[1] Về tố tụng: Tòa án cấp sơ thẩm xác định đúng quan hệ tranh chấp và
thẩm quyền giải quyết. Người kháng cáo đã thực hiện đầy đ th tục kháng cáo
và kháng cáo đúng thời hạn theo quy định ca Bộ luật Tố tụng dân sự nên thuộc
thẩm quyền xem xét, giải quyết ca Tòa án cấp phúc thẩm.
Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn không rút đơn khởi kiện và bị đơn
không rút đơn kháng cáo, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc
giải quyết vụ án nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử theo quy định pháp luật.
6
[2] Về nội dung: Xét kháng cáo ca ông Đỗ Văn T, Hội đồng xét xử phúc
thẩm nhận thấy:
[2.1] Về nguồn gốc ca hai thửa đất tranh chấp:
Theo các tài liệu thể hiện tại hồ sơ và qua xác minh tại chính quyền địa
phương thì nguồn gốc ca thửa đất số 64, tờ bản đồ số 36 và thửa đất số 65, tờ
bản đồ số 36 là do Ủy ban nhân dân tỉnh B trước đây cấp đất cho Công ty X
thuộc Xí nghiệp L3 giao thông theo Quyết định cấp đất xây dựng ngày
21/9/1983 để xây dựng khu xưởng sản xuất với diện tích 8000 m
2
. Sau đó, Công
ty C1 đã phân chia cho các cán bộ công ty để xây dựng nhà ở, trong đó có ông
Nguyễn Đình M (thể hiện là Lô số 09 nay là thửa đất số 64, tờ bản đồ số 36 tại
số A kiệt D đường H, phường A, thành phố H); còn Lô số 08 (nay là thửa đất số
65, tờ bản đồ 36 tại số A kiệt D đường H, phường A, thành phố H) ca bà Đậu
Thị L1 (sau đó giữa bà Đậu Thị L1 để lại lô này cho ông Đỗ Văn T, việc sang
nhượng này được sự đồng ý ca Công ty C1.
[2.1.1] Theo Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản gắn liền với đất số BC 297433 do Ủy ban nhân dân thành phố H cấp cho
ông Đỗ Văn T, bà Huỳnh Thị L vào ngày 25/9/2010 chỉ chứng nhận quyền sử
dụng về đất với diện tích 67m
2
không chứng nhận quyền sở hữu về tài sản (đối
với ngôi nhà xây dựng trên đất).
Tại biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất ca ông T, bà L lập
ngày 08/02/2009 (BL 84) đối với thửa đất số 65, tờ bản đồ số 36 tại số A đường
H, phường A, thành phố H, có hoạ đồ vị trí thửa đất, ghi rõ kích thước từng cạnh
ca thửa đất thể hiện hiện trạng sử dụng là 70m
2
, có chữ và ch sử dụng đất (ông
T) ký xác nhận ca các ch sử dụng đất tiếp giáp (có ông Nguyễn Đình M tiếp
giáp). Sau khi được Ủy ban nhân dân thành phố H cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho mình thì chính ông T, bà L không có ý kiến gì về diện tích và
hiện trạng thửa đất đã được cấp 67m
2
(trừ đi 03m
2
trong chỉ giới quy hoạch).
[2.1.2] Theo Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất số CL 360156 do Ủy ban nhân dân thành phố H cấp
cho ông Nguyễn Đình M, bà Phan Thị D vào ngày 14/5/2019, chứng nhận quyền
sử dụng đất với diện tích 64,3 m
2
, quyền sở hữu tài sản là nhà ở với diện tích
xây dựng 55,6m
2
.
Tại Bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất ca ông M, bà D lập ngày
15/4/2015 (BL 117) đối với thửa đất số 64, tờ bản đồ số 36 tại số A đường H,
phường A, thành phố H có hoạ đồ vị trí thửa đất, ghi rõ kích thước từng cạnh
ca thửa đất thể hiện hiện trạng sử dụng là 72,9m, có chữ ký xác nhận ca các
ch sử dụng đất tiếp giáp (có ông Đỗ Văn T tiếp giáp) và ch sử dụng đất (ông
M).
Như vậy, việc ông T ký vào Bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất ca hộ
ông M đã thể hiện ông T đồng ý với hiện trạng và diện tích mà nhà nước đang
xem xét cấp cho ông M, bà D; thời điểm ông T ký vào biên bản thì ông hoàn
toàn minh mẫn, có đầy đ năng lực hành vi dân sự. Do đó, việc ông T khai nại
cho rằng ông ký vào Bản mô tả vì tin tưởng chuyện đo đạc và nghĩ phần be và
các tài sản khác vẫn thuộc về phần đất ca gia đình Ông là không có căn cứ.
7
[2.2] Vào giai đoạn năm 2000 - 2003 khi ông T, bà L đang tiến hành hoàn
thiện ngôi nhà 02 tầng cùng be 02 tầng thì chính ông T đã có Giấy xác nhận đề
ngày 12/11/2003 (BL 13) thể hiện nội dung phía Hộ ông T đã làm nhà lấn chiếm
phần không gian phía sau nhà bếp ca nhà ông M (văn bản này có xác nhận
UBND phường A, thành phố H).
[2.3] Theo Bản vẽ hiện trạng nhà, đất do Chi nhánh Văn phòng Đăng ký
đất đai thành phố H lập ngày 12/4/2023 và sửa đổi, bổ sung ngày 27/5/2023 thể
hiện: Ranh giới thửa đất theo hiện trạng sử dụng và ranh giới thửa đất theo Giấy
chứng nhận Quyền sử dụng đất được cấp đối với thửa đất số 64, tờ bản đồ số 36
cấp cho ông M, bà D và thửa đất số 65, tờ bản đồ số 36 cấp cho ông T, bà L đã
có sự thay đổi về diện tích giữa các bên. Phần diện tích đang tranh chấp 2,6m
2
thuộc phần diện tích Nhà nước cấp cho ông Nguyễn Đình M bà Phan Thị D
nhưng hiện nay nằm trong thửa đất ca ông T bà L.
Theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 10/11/2023 (BL 319 - 322)
đã xác định trên phần diện tích đang tranh chấp 2,6m
2
có công trình xây dựng và
vật dụng cụ thể như sau: Be bê tông tầng 01 có kích thước 2,6m
2
xây dựng
(chiều dài 13,1m, chiều rộng 0,2m); Be bê tông tầng 02 có kích thước 2,6m
2
xây
dựng (chiều dài 13,1 m, chiều rộng 0,2m); Ô văng tầng 02 có kích thước 0,32m
2
xây dựng (chiều dài 1,29m, chiều rộng 0,25m); Tôn chống thấm vách nhà tầng
02; Ống thoát nước từ tầng 02 xuống mặt đất có chiều cao 7,5m; 02 mái am thờ
ở tầng 02 vươn ra khoảng 10cm; Ống nước sắt nằm dưới lòng đất sử dụng làm
đường dẫn nước phục vụ sinh hoạt; 02 giàn nóng điều hoà tầng 02. Tất cả các
công trình xây dựng và vật dụng này nằm trên thửa đất số 64, tờ bản đồ số 36 do
ông M, bà D đang quản lý, sử dụng.
Mặt khác, cũng theo kết quả xem xét thẩm định tại chỗ thể hiện các công
trình xây dựng nêu trên có thể tháo dỡ di dời bình thường mà không ảnh hưởng
gì. Điều này cũng phù hợp với lời khai nhận tại phiên tòa sơ thẩm ca ông T (BL
388):
“Hỏi: Giả sử buộc ông tháo dỡ phần be có ảnh hưởng đến kết cấu ngôi
nhà ông không?
Đáp: Thực tế việc cắt gọt bê tông thì hiện nay đã có máy móc hiện đại
nên không ảnh hưởng gì đn ngôi nhà nhưng tôi lo sợ đến những ảnh hưởng
khác như trời mưa sẽ thấm nước…”
[2.4] Theo quy định tại khoản 2 Điều 175 ca Bộ luật Dân sự năm 2015
thì: “Người sử dụng đất được sử dụng không gian và lòng đất theo chiều thẳng
đứng từ ranh giới của của thửa đất phù hợp với quy định pháp luật và không
được làm ảnh hưởng đến việc sử dụng đất của người khác”.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 170 ca Luật Đất đai năm 2013 quy định
về nghĩa vụ chung ca người sử dụng đất thì: “…Sử dụng đất đúng mục đích,
đúng ranh giới thửa đất, đúng quy định về sử dụng độ sâu lòng đất và chiều cao
trên không, bảo vệ các công trình công cộng trong lòng đất và tuân theo các quy
định khác của pháp luật có liên quan”.
Như vậy, qua kết quả đo đạc phần diện tích trên Giấy chứng nhận Quyền
sử dụng đất và trên thực tế hiện trạng đang sử dụng thì thấy phần diện tích 2,6m
2
nằm trong phần diện tích mà nguyên đơn còn thiếu nên có cơ sở khẳng định phía
8
Hộ gia đình ông Đỗ Văn T đã lấn chiếm ca nguyên đơn. Tại phiên tòa ông T
cũng thừa nhận là lấn chiếm diện tích 2,6 m
2
đất. Do đó, việc Tòa án cấp sơ
thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện ca nguyên đơn để buộc bị đơn phải trả lại
phần diện tích đất lấn chiếm là 2,6m
2
(chiều ngang 0,2m, chiều dài 13,1m) cho
ông Nguyễn Đình M, bà Phan Thị L2 và buộc tháo dỡ 08 công trình hạng mục
xây dựng trái phép trên phần diện tích này là có căn cứ, đúng quy định ca pháp
luật.
[3] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy không có cơ sở
chấp nhận Đơn kháng cáo ca bị đơn ông Đỗ Văn T, mà cần giữ nguyên Bản án
sơ thẩm như ý kiến đề nghị ca Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa
Thiên Huế tại phiên tòa là phù hợp với quy định pháp luật.
[4] Về án phí phúc thẩm: Do bị đơn ông Đỗ Văn T là người cao tuổi (63
tuổi), theo quy định tại Điều 12, Điều 14 ca Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH
14 ca Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, thì ông Đỗ Văn T được miễn án phí
theo luật định.
[5] Các quyết định khác ca bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 148; khoản 1 Điều 308 ca Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015; Điều 12, Điều 14 ca Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ca
Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý
và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Tuyên xử:
1. Không chấp nhận kháng cáo ca bị đơn ông Đỗ Văn T, giữ nguyên Bản
án dân sự sơ thẩm số 03/2024/DS-ST ngày 31/01/2024 ca Tòa án nhân dân
thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế về “Tranh chấp quyền sử dụng đất”, giữa:
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đình M, sinh năm 1957; địa chỉ: số A đường
H, phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Bị đơn: Ông Đỗ Văn T, sinh năm 1961; địa chỉ: số A đường H, phường
A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
- Bà Phan Thị D (vợ ca ông M), sinh năm 1956; địa chỉ: số A đường H,
phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Người đại diện theo uỷ quyền của bà D: Anh Nguyễn Hồng S, sinh năm
1984; địa chỉ: số A đường H, phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Bà Huỳnh Thị L (vợ ca ông T), sinh năm 1964; địa chỉ: số A đường H,
phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế.
2. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Đỗ Văn T được miễn, không phải
chịu án phí dân sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác ca bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
9
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại Đà Nẵng;
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- VKSND tỉnh TT Huế;
- TAND thành phố H;
- Chi cục THADS thành phố H;
- Các đương sự (theo địa chỉ);
- Lưu: hồ sơ vụ án; Tòa Dân sự;
Phòng kiểm tra nghiệp vụ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký và đóng dấu)
Trần Ngọc Tú
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 14/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 09/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Bản án số 422/2025/DS-PT ngày 08/05/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Bản án số 398/2025/QĐ-PT ngày 28/04/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Bản án số 360/2025/DS-PT ngày 23/04/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 22/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 22/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 22/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 18/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm