Bản án số 227/2024/KDTM-PT ngày 29/08/2024 của TAND TP. Hà Nội về tranh chấp về cung ứng dịch vụ
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 227/2024/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 227/2024/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 227/2024/KDTM-PT
Tên Bản án: | Bản án số 227/2024/KDTM-PT ngày 29/08/2024 của TAND TP. Hà Nội về tranh chấp về cung ứng dịch vụ |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về cung ứng dịch vụ |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Hà Nội |
Số hiệu: | 227/2024/KDTM-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 29/08/2024 |
Lĩnh vực: | Kinh doanh thương mại |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp đòi tiền phát sinh từ hợp đồng thuê nhà xưởng. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Bản án số: 227/2024/KDTM-PT
Ngày: 29/8/2024
V/v: Tranh chấp đòi tiền phát sinh từ
hợp đồng thuê nhà xưởng.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
- Thành phần hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán- Chủ tọa phiên tòa: Ông Bùi Đức Bằng
Các Thẩm phán : Bà Dương Tuyết Mai
Ông Nguyễn Xuân Tuấn
- Thư ký phiên toà: Ông Nguyễn Trung Kiên - Thư ký Tòa án nhân dân
Thành phố Hà Nội.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội tham gia phiên toà:
Bà Đào Thị Mai Phương - Kiểm sát viên.
Ngày 29/8/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xét xử phúc
thẩm công khai vụ án Kinh doanh thương mại thụ lý số 71/TLPT-KDTM ngày
02/02/2024 về việc “Tranh chấp đòi tiền phát sinh từ hợp đồng thuê nhà xưởng”.
Do Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 55/2023/KDTM-ST ngày
28/9/2023 của Tòa án nhân dân quận HBT, thành phố Hà Nội bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 275/2024/QĐXX-PT ngày 09/5/2024 và
Quyết định hoãn phiên tòa số 352/2024/QĐ-HPT ngày 05/6/2024 giữa các
đương sự:
1.Nguyên đơn: Công ty TNHH A1.
Trụ sở: Số E, đường Đ, khu phố Đ, phường D, thành phố D, tỉnh Bình
Dương.
Đại diện theo pháp luật: Ông Hà Hữu T – Giám đốc (Có mặt)
2. Bị đơn: Công ty cổ phần T2.
Trụ sở: số A M, phường V, quận H, Hà Nội.
Đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Danh D – Chủ tịch HĐQT.
Đại diện theo ủy quyền: Ông Đỗ Tuấn A – Tổng Giám đốc (Theo Giấy ủy
quyền số 54/UQ-TPMB ngày 03/5/2024). (Có mặt)
Địa chỉ: Số F M, phường N, quận H, Hà Nội.
2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, đại diện
theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
1.1 Ngày 15/6/2006, Công ty TNHH A1 (sau đây gọi là Công ty A1) và
Công ty T2, nay là Công ty Cổ phần T2 (sau đây gọi là Công ty T2) ký kết Hợp
đồng cho thuê nhà xưởng số 01-06/AP-TDM, theo đó Công ty A1 cho Công ty
T2 thuê một nhà xưởng để lắp đặt một nhà máy chế biến tiêu sạch tại: phường
C, thị xã T, tỉnh Bình Dương với thời hạn thuê: 09 năm kể từ ngày ký biên bản
bàn giao; giá thuê là 20.000 đồng/m
2
/tháng (đã bao gồm 10% VAT), giá thuê
không thay đổi trong suốt 9 năm. Hình thức thanh toán: Thanh toán trả trước
một năm một lần bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản. Ngoài ra, các bên còn thỏa
thuận về trách nhiệm, quyền hạn của mỗi bên.
Ngày 01/9/2006, Công ty A1 đã ký Biên bản bàn giao nhà xưởng nêu trên
cho Công ty T2, cụ thể: diện tích cho thuê: 42,0 m x 21,7 m = 911,4 m
2
; thời hạn
thuê từ ngày 01/9/2006 đến 01/9/2015. Sau khi nhận bàn giao, Công ty T2 đã lắp
đặt dây chuyền chế biến tiêu và thanh toán tiền thuê nhà xưởng cho Công ty A1
đúng như thoả thuận trong những năm đầu.
Ngày 18/7/2012, hai bên đã ký Biên bản thanh lý Hợp đồng số 01-
2012/AP-TPMB, theo đó cùng xác định Hợp đồng cho thuê nhà xưởng số 01-
06/AP-TDM ngày 15/6/2006 không còn hiệu lực kể từ ngày 18/7/2012. Hai bên
thống nhất thời gian thuê làm tròn để thanh toán là 30 tháng, tổng giá trị thuê là:
20.000 đồng x 911,4 m
2
x 30 tháng = 546.840.000 đồng. Mặc dù Hợp đồng cho
thuê nhà xưởng số 01-06/AP-TDM có thời hạn là 9 năm (kể từ ngày 01/9/2006
đến 01/9/2015) nhưng do Công ty T2 dừng hoạt động kinh doanh, bán dây
chuyền sản xuất tiêu cho bên thứ ba và thông báo trả lại kho xưởng trước thời
hạn cho Công ty A1 nên hai bên đã thống nhất ký Biên bản thanh lý và thỏa
thuận chấm dứt hợp đồng như trên.
Cùng ngày 18/7/2012, Công ty A1 đã xuất hóa đơn giá trị gia tăng số
0000015 cho Công ty T2 để thanh toán tiền thuê nhà xưởng với số tiền hai bên
đã thống nhất là 546.840.000 đồng (đã bao gồm thuế VAT). Tuy nhiên sau khi
thanh lý hợp đồng và xuất hóa đơn thì Công ty T2 không thực hiện nghĩa vụ
thanh toán. Công ty A1 đã nhiều lần gửi văn bản thông báo đòi nợ nhưng Công
ty T2 đều đưa ra các lý do khác nhau như: Công ty đang trong quá trình kiểm
soát đặc biệt, Công ty trong giai đoạn cổ phần hóa,…để không thực hiện nghĩa
vụ trả tiền.
Đến ngày 31/12/2019, Công ty T2 đã gửi Công ty A2 xác nhận công nợ và
đề nghị Công ty A1 xác nhận nội dung: “Công ty T2 còn nợ Công ty A1 số tiền
là 546.840.000 đồng” để Công ty T2 tiến hành kiểm toán Báo cáo tài chính tính
đến ngày 31/12/2019. Công ty A1 đã xác nhận và gửi lại Công ty T2. Tuy nhiên
từ đó đến nay, Công ty T2 vẫn không trả tiền thuê nhà xưởng cho Công ty A1.
3
Vì vậy, Công ty A1 đã khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết: Buộc Công ty T2
phải trả cho Công ty A1 số tiền thuê nhà xưởng chưa thanh toán phát sinh từ
Hợp đồng thuê nhà xưởng số 01-06/AP-TPMB ngày 15/6/2006, bao gồm:
- Nợ gốc: 546.840.000 đồng;
- Nợ lãi chậm thanh toán: 551.079.882 đồng;
Tổng cộng: 1.097.919.882 đồng (Một tỷ, không trăm chín mươi bảy triệu,
chín trăm mười chín nghìn, tám trăm tám mươi hai đồng).
1.2 Quá trình giải quyết vụ án, Công ty T2 cho rằng khoản tiền thuê nhà
xưởng mà Công ty A1 đòi đã được đối trừ vào khoản nợ khác phát sinh từ các
hợp đồng mua bán cà phê giữa hai bên trong khoảng thời gian từ năm 2007 đến
năm 2009. Về việc này, Công ty A1 có ý kiến:
Ngày 18/7/2012, sau khi Công ty A1 và Công ty T2 thỏa thuận chấm dứt,
thanh lý hợp đồng và xuất hóa đơn, Công ty T2 không thực hiện thanh toán ngay
cho Công ty A1 số tiền 546.840.000 đồng vì Công ty T2 cho rằng Công ty A1
đang nợ số tiền 139.750.360.731 đồng theo các Hợp đồng mua bán cà phê được
ký kết giữa hai bên trong khoảng thời gian từ năm 2007 đến năm 2009 nên hai
bên dự kiến đối trừ hai khoản nợ cho nhau. Do đó, hai bên đã ký một số văn bản
như: Biên bản làm việc ngày 17/7/2012, ngày 12/8/2013 và Công ty A1 có Văn
bản số 48-2013/AP-CV ngày 10/8/2013 thể hiện nội dung hai bên dự kiến sẽ đối
trừ các khoản nợ cho nhau. Tuy nhiên thực tế từ khi ký các văn bản trên cho đến
nay, hai bên không có bất kì sự đối trừ nợ nào cho nhau.
Sau đó, Công ty T2 đã khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại đòi Công ty
A1 trả số tiền phát sinh từ các Hợp đồng mua bán cà phê ký kết trong khoảng
thời gian từ năm 2007 đến năm 2009 tại Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình
Dương. Vụ án trên đã được giải quyết qua các cấp Tòa án tỉnh Bình Dương và
đến bản án sau cùng có hiệu lực pháp luật là Bản án kinh doanh thương mại
phúc thẩm số 11/2015/KDTM-PT ngày 25/6/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Dương. Bản án này xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty T2
đòi Công ty A1 số tiền phát sinh theo các hợp đồng mua bán cà phê. Do đó,
Công ty A1 tiếp tục yêu cầu Công ty T2 trả số tiền thuê nhà xưởng 546.840.000
đồng. Tuy nhiên Công ty T2 luôn lấy lý do đang có đơn khiếu nại giám đốc
thẩm, vụ án chưa được giải quyết xong để không thực hiện nghĩa vụ trả số tiền
thuê kho xưởng cho Công ty A1. Để xác định rõ sự việc, Công ty A1 đã liên hệ
với Toà án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh và được biết ngày
23/4/2019, Toà án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh có Văn bản số
23/TB-DS trả lời không có căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối
với Bản án số 11/2015/KDTM-PT ngày 25/6/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Dương. Như vậy, Công ty A1 không nợ Công ty T2 số tiền
139.750.360.731 đồng như Công ty T2 đã khởi kiện và cũng không có việc đối
trừ nợ nào giữa hai bên. Do đó, Công ty T2 có nghĩa vụ phải trả Công ty A1 số
4
tiền 546.840.000 đồng phát sinh từ Hợp đồng cho thuê nhà xưởng và tiền lãi
chậm trả kể từ ngày 18/7/2012 đến ngày xét xử sơ thẩm theo lãi suất cơ bản là
9%/năm.
1.3 Về việc Công ty T2 cho rằng hiện không có hồ sơ gốc về khoản nợ,
người đại diện theo uỷ quyền mới tiếp nhận vị trí Giám đốc Công ty nên không
biết về khoản nợ, về việc tố cáo ông Lê Văn B nguyên Tổng giám đốc Công ty
T2 đã làm thất thoát tài sản công ty, Công ty A1 có ý kiến:
Công ty Cổ phần T2 là đơn vị kế thừa toàn bộ các quyền và nghĩa vụ pháp
lý của Công ty T2 theo quy định của pháp luật. Việc lưu trữ hồ sơ và tố cáo cá
nhân ai đó là vấn đề nội bộ của Công ty T2, không liên quan tới Công ty A1 và
không phải là cơ sở để từ chối nghĩa vụ trả nợ.
1.4 Khi nộp đơn khởi kiện, Công ty TNHH A1 đã nộp đơn tại Tòa án nhân
dân tỉnh Bình Dương theo thỏa thuận tại Điều V của Hợp đồng thuê nhà xưởng
số 01-06/AP-TDN ngày 15/6/2006. Do thỏa thuận này của các bên về việc lựa
chọn Tòa án giải quyết tranh chấp là không đúng quy định của pháp luật nên
Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đã chuyển đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân
thành phố Thủ Dầu Một để thụ lý giải quyết vì nơi thực hiện hợp đồng thuê nhà
xưởng là ở thành phố T, tỉnh Bình Dương. Tuy nhiên do các bên đã thanh lý và
chấm dứt hợp đồng thuê nhà xưởng, hiện nay nhà xưởng không còn. Công ty A1
xác định chỉ khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công ty T2 phải thanh toán số tiền
546.840.000 đồng và lãi chậm thanh toán. Đối với yêu cầu khởi kiện này thì
thẩm quyền giải quyết vụ án là nơi bị đơn có trụ sở theo Điều 39 Bộ luật tố tụng
dân sự. Do đó, cả hai Công ty đều đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu
Một chuyển vụ án đển Tòa án nơi bị đơn có trụ sở là Tòa án nhân dân quận HBT
để giải quyết.
Công ty A1 được biết Tòa án nhân dân tối cao đã có Quyết định số
223/2022/QĐ-TANDTC-KDTM ngày 15/12/2022 xác định thẩm quyền giải
quyết vụ án thuộc Tòa án nhân dân quận HBT , thành phố Hà Nội. Công ty A1
với thẩm quyền đã xác định nêu trên và xác nhận hiện nhà xưởng không còn nên
không yêu cầu Tòa án xem xét thẩm định. Công ty A1 cũng không tranh chấp
hợp đồng mà chỉ đòi Công ty T2 thanh toán số tiền thuê nhà xưởng mà hai bên
đã chốt với nhau tại Biên bản thanh lý ngày 18/7/2012.
2. Công ty T2 do người đại diện theo ủy quyền trình bày:
- Tại Văn bản trình bày ý kiến ngày 24/7/2023, đại diện Công ty T2 xác
nhận ngày 15/6/2006, Công ty T2 và Công ty A1 có ký Hợp đồng thuê nhà
xưởng số 01-06/AP-TPMB theo đó Công ty T2 thuê của Công ty A1 nhà xưởng
để lắp đặt nhà máy chế biến tiêu sạch với tổng diện tích 1000m
2
tại: phường C,
thị xã T, tỉnh Bình Dương, thời gian thuê là 09 năm. Quá trình thuê kéo dài hơn
06 năm. Đến ngày 17/7/2012, Công ty T2 với Công ty A1 đã có buổi làm việc
5
tại văn phòng Công ty T2 cùng nhau thống nhất thanh lý Hợp đồng thuê nhà
xưởng số 01-06/AP-TPMB nêu trên.
- Theo Biên bản hoà giải ngày 22/8/2023 tại Tòa án, đại diện Công ty T2
trình bày:
Công ty T2 hiện nay không có tài liệu gốc về giao dịch thuê nhà xưởng
theo Hợp đồng thuê nhà xưởng số 01-06/AP-TPMB ngày 15/6/2006 và các tài
liệu như Công ty A1 đã khởi kiện. Do đó, đến thời điểm hiện tại, Công ty T2
không có đủ cơ sở xác nhận có hay không có giao dịch thuê nhà xưởng. Hơn
nữa, do người đại diện theo uỷ quyền mới tiếp nhận lại vị trí Tổng Giám đốc
Công ty, chưa nắm bắt được toàn bộ sự việc nên cần thời gian để rà soát lại hệ
thống sổ sách, tài liệu liên quan tới giao dịch này. Do đó, Công ty T2 không
đồng ý với yêu cầu khởi kiện của Công ty A1.
Ngoài ra, trước đây Công ty A1 có nợ Công ty T2 số tiền 139.750.360.731
đồng theo các hợp đồng mua bán hàng hoá hai bên ký kết từ năm 2008 đến
2009. Công ty T2 đã khởi kiện Công ty A1 tại Toà án nhân dân thị xã Dĩ An,
tỉnh Bình Dương. Vụ án đã được giải quyết qua các cấp Toà án tỉnh Bình Dương
và đến Bản án phúc thẩm số 11/2015/KDTM-PT ngày 25/6/2015 của Toà án
nhân dân tỉnh Bình Dương là bản án sau cùng. Bản án này đã không chấp nhận
nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty T2 nên Công ty T2 đã có đơn đề nghị kháng
nghị giám đốc thẩm đối với bản án trên gửi tới Toà án nhân dân cấp cao thành
phố Hồ Chí Minh. Do đó, vụ án trên vẫn đang trong tiến trình xem xét theo thủ
tục giám đốc thẩm. Vì vậy, khoản nợ của Công ty A1 tại Công ty T2 nêu trên
vẫn đang treo, chưa được xử lý trong hệ thống sổ sách tài chính của Công ty T2.
Hơn nữa, từ năm 2012, Công ty A1 đã có quan điểm đối trừ công nợ của
Hợp đồng thuê nhà xưởng số 01-06/AP-TPMB ngày 15/6/2006 vào công nợ của
Công ty A1 tại Công ty T2. Điều này được thể hiện tại các văn bản như sau:
- Tại Biên bản thanh lý, hai bên thoả thuận: “Công ty T2 căn cứ vào hoá
đơn do Công ty A1 xuất để làm cơ sở thanh toán hoặc bù trừ công nợ với Công
ty A1”;
- Tại Biên bản làm việc ngày 17/7/2012 thể hiện: “Công ty T2 căn cứ vào
hoá đơn do Công ty TNHH A1 xuất để làm cơ sở thanh toán (hoặc bù trừ công
nợ) với Công ty TNHH A1. Hai bên thống nhất thanh lý hợp đồng thuê nhà
xưởng số 01-06/AP TDM ngày 15/6/2006”.
- Tại Biên bản làm việc ngày 12/8/2013 thể hiện: “Công ty TNHH A1 cam
kết dùng tất cả những nguồn tài sản, nguồn tiền có được để trả cho Công ty
T2”;
- Ngày 10/8/2013, Công ty A1 có Văn bản số 48-2013/AP-CV gửi Công ty
T2, trong đó Công ty A1 có khẳng định rõ: “Công ty A1 đã làm việc và xuất hoá
đơn giá trị gia tăng và chấp thuận cấn trừ công nợ với Công ty T2 toàn bộ số
tiền 546.840.000 đồng thuê kho xưởng để góp phần trả nợ Công ty T2”.
6
Theo các văn bản trên thì số tiền thuê nhà xưởng đã được giải quyết bằng
việc đối trừ công nợ. Tuy nhiên việc đối trừ vào khoản nợ cụ thể nào thì đến nay
Công ty T2 chưa xác định được vì cần phải rà soát để kiểm tra lại việc đối trừ
công nợ, cũng như xem xét việc tố cáo ông Lê Văn B - nguyên Giám đốc Công
ty T2 đã làm thất thoát tài sản của Công ty T2. Ngoài ra bị đơn hiểu rằng thanh
lý là không còn nghĩa vụ gì đối với nhau. Do đó Công ty T2 xác định không có
nghĩa vụ phải trả cho Công ty A1 số tiền 546.840.000 đồng và lãi chậm trả.
3. Tại phiên toà sơ thẩm:
1. Đại diện nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và các ý kiến trình
bày như nêu trên, yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Công ty Cổ phần T2 phải trả
cho Công ty A1 số tiền còn nợ phát sinh từ Hợp đồng cho thuê nhà xưởng số 01-
06/AP-TDM ngày 15/6/2006 là:
- Nợ gốc: 546.840.000 đồng;
- Nợ lãi chậm thanh toán: 551.079.882 đồng;
Tổng cộng: 1.097.919.882 đồng.
2. Đại diện bị đơn trình bày:
- Khi tiếp nhận lại vị trí Tổng Giám đốc Công ty T2, ông đã cho rà soát lại
toàn bộ vấn đề tài chính liên quan đến Công ty A1 thì ông không thấy có khoản
nợ như Công ty A1 khởi kiện và không có tài liệu gốc về giao dịch thuê nhà
xưởng. Do đó, ông không biết về khoản nợ này nên không thể khẳng định có
giao dịch thuê nhà xưởng này hay không.
- Thực tế Công ty A1 còn nợ Công ty T2 số tiền 139.750.360.731 đồng
theo các hợp đồng mua bán cà phê giữa hai bên ký từ năm 2007 đến năm 2009.
Khoản nợ này hiện vẫn treo trên hệ thống sổ sách của Công ty T2. Năm 2010,
Công ty T2 đã khởi kiện đòi Công ty A1 số tiền nêu trên tại Tòa án nhân dân thị
xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Vụ án trên đã được giải quyết qua các cấp Tòa án
tỉnh Bình Dương và tại Bản án số 11/2015/KDTM-PT ngày 25/6/2015 của Tòa
án nhân dân tỉnh Bình Dương đã tuyên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
Công ty T2 về việc yêu cầu Công ty A1 thanh toán nợ gốc và lãi cho Công ty T2
là 208.408.940.260 đồng. Sau đó Công ty T2 đã gửi đơn đề nghị xem xét kháng
nghị giám đốc thẩm nên vụ án trên vẫn đang trong quá trình xem xét lại theo thủ
tục giám đốc thẩm. Trong vụ án trên, tài sản bảo lãnh cho khoản nợ của Công ty
A1 tại Công ty T2 (là hai quyền sử dụng đất) có dấu hiệu bị các bên cấu kết định
giá cao hơn thực tế, gây thiệt hại cho Công ty T2 nên Công ty T2 đang cho rà
soát lại nội dung trên.
- Hơn nữa tại Biên bản thanh lý ngày 18/7/2012 và các Biên bản làm việc
giữa hai bên đều thể hiện nội dung: khoản nợ trên đã được đối trừ vào khoản nợ
139.750.360.731 đồng và các khoản nợ khác của Công ty A1 tại Công ty T2
phát sinh từ các hợp đồng mua bán hàng hóa giữa hai bên trong khoảng thời
7
gian từ năm 2007-2009. Tuy nhiên đối trừ vào khoản nợ cụ thể nào thì Công ty
T2 không xác định được và đến nay Công ty T2 cũng không có tài liệu thể hiện
việc đối trừ này để nộp cho Tòa án.
Với những lý do, Công ty T2 không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện
của Công ty A1.
Tại Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 55/2023/KDTM-ST ngày
28/9/2023, Toà án nhân dân quận HBT quyết định:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH A1 đối với Công ty
Cổ phần T2.
2. Buộc Công ty Cổ phần T2 phải trả cho Công ty TNHH A1 số tiền còn
nợ phát sinh từ Hợp đồng cho thuê nhà xưởng số 01-06/AP-TDM ngày
15/6/2006 giữa Công ty Cổ phần T2 và cho Công ty TNHH A1 số tiền là:
1.097.919.882 đồng, trong đó:
- Nợ gốc: 546.840.000 đồng;
- Nợ lãi chậm thanh toán: 551.079.882 đồng;
Kể từ 27/9/2023 cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn
phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định
tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền thi hành án và
kháng cáo theo quy định của pháp luật.
4. Sau khi xét xử sơ thẩm:
Không đồng ý với bản án sơ thẩm, ngày 11/10/2023, Công ty Cổ phần T2
có đơn kháng cáo đối với toàn bộ Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số
55/2023/KDTM-ST ngày 28/9/2023, Toà án nhân dân quận HBT , đề nghị Tòa
án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm.
Ngoài đơn kháng cáo, người kháng cáo không cung cấp kèm theo tài liệu,
chứng cứ nào khác.
5. Tại cấp phúc thẩm:
5.1 Trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm và tại phiên tòa
phúc thẩm, Công ty Cổ phần T2 trình bày:
Công ty T2 giữ nguyên trình bày tại đơn kháng cáo, cho rằng Tòa án cấp sơ
thẩm đã không xem xét đến thỏa thuận bù trừ công nợ được Công ty A1 và
Công ty T2 đã thỏa thuận tại biên bản làm việc ngày 17/7/2012, Biên bản làm
việc ngày 12/8/2013. Hai Bên đã thống nhất toàn bộ số tiền 546.840.000 đồng
Công ty A1 xuất hóa đơn và Công ty T2 giữ lại để bù trừ công nợ. Sau khi thống
nhất các nội dung hai bên đã ký Biên bản thanh lý Hợp đồng. Do đó, Công ty T2
không còn nghĩa vụ phải trả tiền thuê kho cho Công ty A1 kể từ ngày thanh lý
8
Hợp đồng. Công ty T2 kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy toàn
bộ Bản án sơ thẩm.
Tại cấp phúc thẩm, Công ty T2 trình bày và đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm
tạm đình chỉ giải quyết vụ án, với lý do: Trong giai đoạn từ ngày 22/8/1996 đến
ngày 01/5/2011, ông Lê Văn B, Giám đốc Công ty T2 đã có hành vi vi phạm
pháp luật Tham nhũng và hành vi gây thất thoát tài sản của Doanh nghiệp có
vốn chủ sở hữu Nhà nước khi ký kết các Hợp đồng kinh tế (trong đó bao gồm cả
việc ký kết Hợp đồng thuê nhà xưởng số 01-06/AP-TPMB ngày 15/6/2006 với
Công ty A1). Công ty T2 đã có đơn tố giác ông Lê Văn B và các cá nhân, tổ
chức có liên quan đến Công an thành phố H. Hiện nay, Phòng C - Công an T
đang xác minh, điều tra (theo Công văn số 277/CSĐT-Đ5 ngày 30/01/2024) nên
đề nghị Tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ án cho đến khi có kết quả điều tra.
5.2 Công ty A1 trình bày:
Công ty A1 không đồng ý với lý do kháng cáo của Công ty T2 cho rằng số
tiền thuê kho 546.840.000 đồng đã được các bên đối trừ công nợ và ký biên bản
thanh lý Hợp đồng nên Công ty T2 không còn nghĩa vụ phải trả tiền thuê kho
cho Công ty A1. Vì các lý do sau đây:
Ngày 18/7/2012, sau khi Công ty A1 và Công ty T2 thỏa thuận chấm dứt,
thanh lý hợp đồng và xuất hóa đơn, Công ty T2 không thực hiện thanh toán ngay
cho Công ty A1 số tiền 546.840.000 đồng vì Công ty T2 cho rằng Công ty A1
đang nợ số tiền 139.750.360.731 đồng theo các Hợp đồng mua bán cà phê được
ký kết giữa hai bên trong khoảng thời gian từ năm 2007 đến năm 2009 nên hai
bên dự kiến đối trừ hai khoản nợ cho nhau. Do đó, hai bên đã ký một số văn bản
như: Biên bản làm việc ngày 17/7/2012, ngày 12/8/2013 và Công ty A1 có Văn
bản số 48-2013/AP-CV ngày 10/8/2013 thể hiện nội dung hai bên dự kiến sẽ đối
trừ các khoản nợ cho nhau. Tuy nhiên thực tế từ khi ký các văn bản trên cho đến
nay, hai bên không có bất kì sự đối trừ nợ nào cho nhau.
Sau đó, Công ty T2 đã khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại đòi Công ty
A1 trả số tiền phát sinh từ các Hợp đồng mua bán cà phê ký kết trong khoảng
thời gian từ năm 2007 đến năm 2009 tại Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình
Dương. Vụ án trên đã được giải quyết qua các cấp Tòa án tỉnh Bình Dương và
đến bản án sau cùng có hiệu lực pháp luật là Bản án kinh doanh thương mại
phúc thẩm số 11/2015/KDTM-PT ngày 25/6/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Dương. Bản án này xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty T2
đòi Công ty A1 số tiền phát sinh theo các hợp đồng mua bán cà phê. Do đó,
Công ty A1 tiếp tục yêu cầu Công ty T2 trả số tiền thuê nhà xưởng 546.840.000
đồng.
Tuy nhiên Công ty T2 luôn lấy lý do đang có đơn khiếu nại giám đốc thẩm,
vụ án chưa được giải quyết xong để không thực hiện nghĩa vụ trả số tiền thuê
kho xưởng cho Công ty A1. Ngày 23/4/2019, Toà án nhân dân cấp cao tại thành
9
phố Hồ Chí Minh có Văn bản số 23/TB-DS trả lời không có căn cứ kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án số 11/2015/KDTM-PT ngày
25/6/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương. Như vậy, Công ty A1 không
nợ Công ty T2 số tiền 139.750.360.731 đồng như Công ty T2 đã khởi kiện và
cũng không có việc đối trừ nợ nào giữa hai bên.
Mặt khác, ngày 31/12/2019, Công ty T2 đã gửi Công ty A2 xác nhận công
nợ và đề nghị Công ty A1 xác nhận nội dung: “Công ty T2 còn nợ Công ty A1
số tiền là 546.840.000 đồng” để Công ty T2 tiến hành kiểm toán Báo cáo tài
chính tính đến ngày 31/12/2019. Công ty A1 đã xác nhận và gửi lại Công ty T2.
Tuy nhiên từ đó đến nay, Công ty T2 vẫn không trả tiền thuê nhà xưởng cho
Công ty A1.
Như vậy, Công ty T2 có nghĩa vụ phải trả Công ty A1 số tiền 546.840.000
đồng phát sinh từ Hợp đồng cho thuê nhà xưởng và tiền lãi chậm trả kể từ ngày
18/7/2012 đến ngày xét xử sơ thẩm theo lãi suất cơ bản là 9%/năm. Đề nghị Hội
đồng xét xử không chấp nhận đơn kháng cáo của bị đơn và giữ nguyên bản án
sơ thẩm.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội trình bày quan điểm
và đề xuất hướng giải quyết vụ án:
- Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy
định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án từ thủ tục thụ lý vụ án, mở
phiên tòa và tại phiên tòa xét xử phúc thẩm. Tại phiên tòa, đương sự đã thực
hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung kháng cáo:
Theo tài liệu trong hồ sơ vụ án thể hiện hai bên có ký Hợp đồng thuê nhà
xưởng số 01-06/AP-TPMB ngày 15/6/2006. Quá trình thực hiện hợp đồng, đến
ngày 18/7/2012, các bên thỏa thuận chấm dứt việc thực hiện hợp đồng và chốt
lại số tiền thuê kho 30 tháng là 546.840.000 đồng. Công ty A1 đã xuất hóa đơn
giá trị gia tăng cho Công ty T2.
Quá trình giải quyết vụ án Công ty T2 không đồng ý trả số tiền nêu trên với
lý do: khoản nợ nhà xưởng 546.840.000 đồng đã đối trừ vào khoản nợ
139.750.360.731 đồng của Công ty A1 tại Công ty T2 phát sinh từ các hợp đồng
mua bán hàng hóa giữa hai bên vào năm 2007-2009. Tuy nhiên căn cứ các tài
liệu có trong hồ sơ vụ án thấy rằng: Ngày 31/12/2019, Công ty T2 đã gửi T1 xác
nhận công nợ thuê nhà xưởng để đề nghị Công ty A1 xác nhận Công ty T2 còn
nợ số tiền 546.840.000 đồng để phục vụ công tác kiểm toán báo cáo tài chính
của Công ty T2; Khoản nợ 139.750.360.731 đồng đã được giải quyết bằng bản
án có hiệu lực pháp luật quyết định Công ty A1 không có nghĩa vụ nợ đối với
Công ty T2; Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã thông báo Công ty T2 trình
bày ý kiến, quan điểm, yêu cầu liên quan đến việc đối trừ công nợ, giao nộp
chứng cứ chứng minh việc đối trừ nợ (nếu có). Tuy nhiên Công ty T2 không
10
chứng minh được có việc đối trừ và cũng không có yêu cầu nào khác nên không
có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của Công ty T2 cho rằng khoản nợ tiền thuê
nhà xưởng đã được hai bên đối trừ.
Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty A1 về
việc buộc Công ty T2 phải thanh toán số tiền thuê nhà xưởng chưa thanh toán là
546.840.000 đồng và tiền lãi chậm trả là đúng quy định của pháp luật.
Từ những căn cứ trên, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu
kháng cáo của Công ty T2 và căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự
giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Về án phí: Các đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, căn cứ kết quả hỏi và
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Xét về thủ tục kháng cáo:
Ngày 11/10/2023, Toà án nhân dân quận HBT nhận được đơn kháng cáo đề
ngày 09/10/2023 của Công ty T2 kháng cáo đối với Bản án kinh doanh thương
mại sơ thẩm số 55/2023/KDTM-ST ngày 28/9/2023 của Toà án nhân dân quận
HBT . Đơn kháng cáo và biên lai nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm của Công
ty T2 làm và nộp trong thời hạn luật định.
Tuy nhiên, đơn kháng cáo do ông Đỗ Tuấn A, là người đại diện theo ủy
quyền của ông Nguyễn Anh D1 – Chủ tịch HĐQT, người đại diện theo pháp luật
của Công ty T2 ký. Theo Giấy ủy quyền số 99/UQ-TPMB ngày 20/7/2023 thì
ông Đỗ Tuấn A được ủy quyền: “Ông Đỗ Tuấn A đại diện cho Công ty Cổ phần
T2 được tham gia tố tụng trong vụ án kinh doanh thương mại số 36/2023/TLST-
KDTM ngày 03/7/2023 giữa nguyên đơn Công ty TNHH A1 và Bị đơn Công ty
Cổ phần T2”, không có nội dung ông Đỗ Tuấn A được Công ty T2 ủy quyền lập
và ký đơn kháng cáo. Tòa án cấp sơ thẩm không kiểm tra đơn kháng cáo và
phạm vi ủy quyền của ông Đỗ Tuấn A mà chấp nhận đơn kháng cáo và thực
hiện thủ tục kháng cáo là không đúng với quy định tại khoản 4 Điều 272, Điều
274 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tại cấp phúc thẩm, theo Giấy ủy quyền số 54/UQ-TPMB ngày 03/5/2024
thì ông Đỗ Tuấn A tiếp tục được ủy quyền được tham gia tố tụng trong vụ án
kinh doanh thương mại số 71/2024/TLST-KDTM ngày 03/5/2024 giữa nguyên
đơn Công ty TNHH A1 và Bị đơn Công ty Cổ phần T2. Đồng thời, tại Văn bản
trình bày số 120/BCBDA-TPMB ngày 28/8/2024, ông Nguyễn Anh D1 – Chủ
tịch HĐQT, người đại diện theo pháp luật của Công ty T2 không có ý kiến phản
đối và đồng ý ủy quyền cho ông Đỗ Tuấn A được đại diện cho Công ty T2 lập
và ký đơn kháng cáo. Do đó, có cở xác định ông Đỗ Tuấn A được người đại
diện theo pháp luật của Công ty ủy quyền lập, ký đơn kháng cáo và tham gia tố
11
tụng giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm. Sau khi xem xét, Hội đồng xét xử chấp
nhận đơn kháng cáo của Công ty T2. Tòa án cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm
trong việc kiểm tra đơn kháng cáo và thực hiện thủ tục kháng cáo.
Về người tham gia tố tụng: Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng
của Tòa án cho các đương sự trong vụ án. Tại phiên tòa hôm nay, các đương sự
có mặt theo Giấy triệu tập nên Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo quy định của
Bộ luật tố tụng dân sự.
[2].Về nội dung kháng cáo:
Ngày 15/6/2006, Công ty TNHH A1 (bên A) và Công ty T2, nay là Công ty
Cổ phần T2 (bên B) đã ký Hợp đồng cho thuê nhà xưởng số 01-06/AP-TDM với
nội dung cơ bản: Công ty A1 cho Công ty T2 thuê một nhà xưởng 1.000m
2
tại
phường C, thị xã T, tỉnh Bình Dương để lắp đặt một nhà máy chế biến tiêu sạch
với thời hạn thuê 09 năm, kể từ ngày ký biên bản bàn giao.
Ngày 01/9/2006, Công ty A1 đã bàn giao nhà xưởng nêu trên cho Công ty
T2 với tổng diện tích 911,4 m
2
; thời hạn thuê: từ ngày 01/9/2006 đến 01/9/2015.
Ngày 18/7/2012, Công ty A1 và Công ty T2 đã thỏa thuận thanh lý chấm
dứt hợp đồng trước thời hạn, thể hiện tại Biên bản thanh lý hợp đồng ngày
18/7/2012. Hai bên thống nhất thời gian thuê làm tròn để thanh toán là 30 tháng,
tổng giá trị thuê là: 20.000 đồng x 911,4 m
2
x 30 tháng = 546.840.000 đồng (đã
bao gồm thuế giá trị gia tăng). Ngoài ra, hai bên còn thỏa thuận: “Công ty TNHH
A1 xuất hoá đơn tiền thuê kho đối với Công ty T2 ngày sau khi ký kết biên bản
thanh lý hợp đồng”. Cùng ngày 18/7/2012, Công ty A1 đã xuất hoá đơn giá trị
gia tăng với số tiền hai bên thống nhất là: 546.840.000 đồng cho Công ty T2,
đồng thời hai bên đã lập Biên bản bàn giao kho theo đó Công ty T2 đã bàn giao
cho Công ty A1 nhà xưởng nêu trên.
Công ty T2 xác nhận ngày 15/6/2006, hai Công ty có ký Hợp đồng thuê
nhà xưởng số 01-06/AP-TPMB và khẳng định quá trình thuê kéo dài hơn 06
năm, từ ngày 01/9/2006 đến ngày 18/7/2012 theo Biên bản thanh lý Hợp đồng
số 01-2012/AP-TPMB ngày 18/7/2012.
Hội đồng xét xử nhận thấy: Hợp đồng cho thuê nhà xưởng số 01-06/AP-
TDM ngày 15/6/2006 và Biên bản bàn giao nhà xưởng ngày 01/9/2006 đã được
các bên ký kết trên cơ sở tự nguyện, không vi phạm điều cấm của pháp luật,
không trái đạo đức xã hội, phù hợp với quy định tại Điều 117, Điều 480, Điều
481, Điều 489 Bộ luật Dân sự 2005 nên giao dịch thuê nhà xưởng có hiệu lực
pháp luật. Đồng thời, việc thỏa thuận chấm dứt, thanh lý hợp đồng theo Biên
bản thanh lý Hợp đồng số 01-2012/AP-TPMB ngày 18/7/2012 cũng được các
bên thực hiện trên cơ sở tự nguyện, phù hợp với khoản 2 Điều 422 Bộ luật dân
sự 2005 nên Công ty T2 có nghĩa vụ phải thanh toán cho Công ty A1 số tiền
thuê nhà xưởng hai bên đã thống nhất tại Biên bản thanh lý và Hoá đơn giá trị
gia tăng ngày 18/7/2012 là 546.840.000 đồng. Các bên không kháng cáo về tính
12
pháp lý của Hợp đồng thuê nhà xưởng và số tiền thuê nhà xưởng 546.840.000
đồng nên có hiệu lực pháp luật.
Hiện nay, Công ty T2 kháng cáo cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã không
xem xét đến thỏa thuận bù trừ công nợ được Công ty A1 và Công ty T2 đã thỏa
thuận tại Biên bản làm việc ngày 17/7/2012 và Biên bản làm việc ngày
12/8/2013. Theo thỏa thuận thì khoản nợ tiền thuê nhà xưởng 546.840.000 đồng
đã được đối trừ vào khoản nợ mà Công ty A1 còn nợ Công ty T2 theo các Hợp
đồng mua bán cà phê được ký giữa hai bên trong khoảng thời gian từ năm 2007
đến năm 2009 nên Công ty T2 không còn nghĩa vụ phải trả tiền thuê kho cho
Công ty A1 kể từ ngày thanh lý Hợp đồng.
Hội đồng xét xử nhận thấy:
- Về số tiền 139.750.360.731 đồng Công ty T2 cho rằng Công ty A1 đang
nợ theo các Hợp đồng mua bán cà phê được ký kết giữa hai bên trong khoảng
thời gian từ năm 2007 đến năm 2009:
Năm 2010, Công ty T2 đã khởi kiện Công ty A1 tại Toà án nhân dân thị xã
Dĩ An (nay là thành phố D), tỉnh Bình Dương để đòi tiền theo các Hợp đồng
mua bán bán cà phê được ký trong thời gian từ năm 2007 đến năm 2009. Vụ
kiện trên đã được giải quyết qua các cấp Tòa án tỉnh Bình Dương và đến bản án
cuối cùng có hiệu lực pháp luật là Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số
11/2015/KDTM-PT ngày 25/6/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương. Tại
Bản án này đã quyết định: “…3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn Công ty T2 về việc yêu cầu Công ty TNHH A1 thanh toán số tiền nợ gốc và
lãi là 208.408.940.260 đồng”. Ngày 23/4/2019, Toà án nhân dân cấp cao thành
phố Hồ Chí Minh đã có Văn bản số 23/TB-DS trả lời Công ty T2 không có căn
cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án số 11/2015/KDTM-PT
ngày 25/6/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.
Quyết định nêu trên của Bản án số 11/2015/KDTM-PT ngày 25/6/2015 của
Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương là tình tiết sự kiện không cần chứng minh quy
định tại điểm b khoản 1 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự. Do đó, không có cơ sở
xác định Công ty A1 nợ Công ty T2 số tiền 139.750.360.731 đồng phát sinh
theo các Hợp đồng mua bán cà phê được ký trong thời gian từ 2007 - 2008 giữa
hai Công ty.
- Về thỏa thuận đối trừ công nợ:
Ngày 18/7/2012, sau khi Công ty A1 và Công ty T2 thỏa thuận chấm dứt,
thanh lý hợp đồng và xuất hóa đơn, Công ty T2 không thực hiện thanh toán ngay
cho Công ty A1 số tiền 546.840.000 đồng vì Công ty T2 cho rằng Công ty A1
đang nợ số tiền 139.750.360.731 đồng theo các Hợp đồng mua bán cà phê được
ký kết giữa hai bên trong khoảng thời gian từ năm 2007 đến năm 2009 nên hai
bên dự kiến đối trừ hai khoản nợ cho nhau. Do đó, hai bên đã ký một số văn bản
như: Biên bản làm việc ngày 17/7/2012, ngày 12/8/2013 và Công ty A1 có Văn
13
bản số 48-2013/AP-CV ngày 10/8/2013 thể hiện nội dung hai bên dự kiến sẽ đối
trừ các khoản nợ cho nhau.
Tại Bản án số 11/2015/KDTM-PT ngày 25/6/2015 của Tòa án nhân dân
tỉnh Bình Dương đã xác định Công ty A1 không nợ Công ty T2 số tiền
139.750.360.731 đồng nên Công ty A1 không phải đối trừ số tiền 546.840.000
đồng để thanh toán nợ cho Công ty T2.
Công ty T2 cho rằng khoản nợ thuê nhà xưởng 546.840.000 đồng đã được
đối trừ vào khoản nợ 139.750.360.731 đồng mà Công ty A1 còn nợ Công ty T2
nhưng Công ty T2 không xuất trình được tài liệu, chứng cứ nào chứng minh có
việc đối trừ nợ và có đơn yêu cầu liên quan đến việc đối trừ nợ (nếu có).
- Ngày 31/12/2019, Công ty T2 đã gửi “Thư xác nhận công nợ thuê kho để
dây chuyền hạt tiêu” cho Công ty A1 và đề nghị Công ty A1 như sau: “Công ty
Cổ phần T2 tiến hành kiểm toán Báo cáo tài chính đến ngày 31/12/2019, kính đề
nghị Q Công ty vui lòng xác nhận số dư công nợ của Q Công ty với Công ty Cổ
phần T2 tại ngày 31/12/2019 trong đó: Số tiền chúng tôi phải trả là 546.840.000
đồng. Đề nghị Quý Công ty đối chiếu số dư trên, ký xác nhận vào phần cuối thư
và fax trước khi gửi lại thư xác nhận này theo địa chỉ liên hệ dưới đây…”.
Hội đồng xét xử nhận thấy: Theo Điều 4 Luật Kiểm toán độc lập quy
định:“Hoạt động kiểm toán độc lập nhằm góp phần công khai, minh bạch thông
tin kinh tế, tài chính của đơn vị được kiểm toán và doanh nghiệp, tổ chức khác”.
Khoản 1 Điều 39 Luật Kiểm toán độc lập quy định về nghĩa vụ của đơn vị được
kiểm toán như sau:“Cung cấp đầy đủ, chính xác, trung thực, kịp thời, khách
quan thông tin, tài liệu cần thiết theo yêu cầu của kiểm toán viên hành nghề và
doanh nghiệp K, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam và
chịu trách nhiệm trước pháp luật về thông tin, tài liệu đã cung cấp”. Căn cứ các
quy định trên thì “Thư xác nhận nợ tính đến 31/12/2019” là một trong những
chứng cứ khách quan và có tính liên quan xác định Công ty T2 có nghĩa vụ hoàn
trả đối với Công ty A1 số tiền 546.840.000 đồng.
Việc Công ty T2 có quan điểm hiện Công ty không có tài liệu gốc, không
biết về giao dịch cho thuê nhà xưởng nhưng lại gửi T1 đề nghị Công ty A1 xác
nhận công nợ và khẳng định có việc đối trừ công nợ cho thấy sự không thống
nhất và khách quan trong lời khai, không phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có
trong hồ sơ vụ án.
Như vậy, có cơ sở xác định Công ty A1 không nợ Công ty T2 số tiền
139.750.360.731 đồng như Công ty T2 bày và cũng không có tài liệu, chứng cứ
nào chứng minh có việc đối trừ nợ nào giữa hai bên.
* Về yêu cầu đòi số tiền lãi chậm thanh toán của nguyên đơn
Ngày 18/7/2012, các bên ký biên bản thanh lý hợp đồng, thống nhất số tiền
thuê còn nợ là: 546.840.000 đồng và Công ty A1 đã xuất hoá đơn giá trị gia tăng
số tiền 546.840.000 đồng cho Công ty T2. Do đó, Công ty T2 phải có nghĩa vụ
14
trả cho Công ty A1 số tiền trên từ ngày 18/7/2012 theo quy định tại khoản 1
Điều 489 Bộ luật Dân sự 2005. Công ty T2 không thực hiện nghĩa vụ trả nợ nên
phải chịu lãi chậm thanh toán.
Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn đề nghị tính lãi chậm trả theo lãi
suất cơ bản 9%/năm là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 305 Bộ luật dân
sự 2005 và Lãi suất cơ bản của Ngân hàng N công bố tại Quyết định số
2868/QĐ-NHNN ngày 29/11/2010 của Ngân hàng N.
Do đó số tiền lãi chậm thanh toán Công ty T2 phải thanh toán cho Công ty
A1 tạm tính từ ngày 18/7/2012 cho đến ngày xét xử sơ thẩm 26/9/2023 là (4087
ngày): (546.840.000 đồng x 9%/năm/365) x 4087 ngày = 551.079.882 đồng.
* Về yêu cầu của Công ty T2 đề nghị Tạm đình chỉ giải quyết vụ án để đợi
kết quả xác minh, điều tra Phòng C - Công an T đối với nội dung đơn tố giác
ông Lê Văn B và các cá nhân, tổ chức có liên quan:
Tại Công văn số 119/CV-TKT ngày 03/6/2024 và Công văn số 192/CV-
TKT ngày 14/8/2024, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã đề nghị Phòng
Cảnh sát kinh tế Công an thành phố H cung cấp thông tin về việc giải quyết đơn
tố giác tội phạm của Công ty Cổ phần T2 và cho biết Hợp đồng cho thuê nhà
xưởng số 01-06/AP-TDM ngày 15/6/2006 giữa Công ty TNHH A1 và Công ty
T2, nay là Công ty Cổ phần T2 có liên quan đến đơn tố giác tội phạm hay
không?
Phòng Cảnh sát kinh tế Công an thành phố H cho biết: “Ngày 01/11/2023,
Phòng Cảnh sát kinh tế Công an thành phố H nhận được đơn của Công ty Cổ
phần T2. Ngày 03/11/2023, Công ty Cổ phần T2 nộp đơn xin hủy bỏ nội dung tố
giác, rút đơn tố giác tội phạm đã gửi trên. Căn cứ quy định của pháp luật,
Phòng Cảnh sát kinh tế Công an thành phố H không thụ lý giải quyết đơn của
Công ty Cổ phần T2”.
Như vậy, không có cơ sở xác định Công ty Cổ phần T2 đã tố cáo đối với
ông Lê Văn B liên quan đến Hợp đồng cho thuê nhà xưởng số 01-06/AP-TPMB
ngày 15/6/2006. Mặt khác, do đơn tố giác không có tài liệu, chứng cứ chứng
minh và Công ty Cổ phần T2 đã nộp đơn xin hủy bỏ nội dung tố giác, rút đơn tố
giác tội phạm nên Phòng Cảnh sát kinh tế Công an thành phố H đã không thụ lý
giải quyết đơn. Do đó, đề nghị tạm đình chỉ giải quyết vụ án của Công ty T2 là
không có cơ sở.
Từ những lập luận trên thấy, Hội đồng xét xử nhận thấy Tòa án cấp sơ
thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty A1 về việc đòi Công ty T2 số
tiền còn nợ phát sinh từ Hợp đồng cho thuê nhà xưởng số 01-06/AP-TDM ngày
15/6/2006 số tiền 546.840.000 đồng là có căn cứ. Do đó, yêu cầu kháng cáo của
Công ty T2 là không có cơ sở.
[3]. Các nội dung khác liên quan đến quyết định của bản án sơ thẩm:
15
Tại phần quyết định của bản án, Tòa án cấp sơ thẩm quyết định về phần lãi
suất chậm thi hành án không đúng với hướng dẫn tại điểm a khoản 1 Điều 13
Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về
lãi, lãi suất, phạt vi phạm. Để đảm bảo thi hành án, xét thấy cần sửa một phần
bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm về phần lãi suất chậm thi hành án như
sau: “Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án
xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành
án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015
tương ứng với thời gian chậm thanh toán”.
Căn cứ phân tích trên, không chấp nhận nội dung kháng cáo của Công ty
T2, tuy nhiên sửa một phần bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm về phần lãi
suất chậm thi hành án để đảm bảo thi hành án.
Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên Công ty T2 phải chịu
án phí phúc thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ các Điều 117, khoản 1 Điều 166, khoản 2 Điều 305, khoản 2 Điều
422, Điều 480, Điều 481, Điều 489 Bộ luật Dân sự 2005;
- Căn cứ Khoản 1 điều 30; điểm b khoản 1 Điều 35; điểm a, khoản 1 Điều
39; Khoản 1 Điều 147; Điều 271; Điều 273; Điều 278; Điều 280, khoản 2 Điều
308; Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Căn cứ Điều 13 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của
Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy
định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm
- Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án
phí và lệ phí tòa án.
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Công ty Cổ phần T2; sửa một
phần bản án sơ thẩm. Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH A1 đối với Công ty
Cổ phần T2.
2. Buộc Công ty Cổ phần T2 phải trả cho Công ty TNHH A1 số tiền còn
nợ phát sinh từ Hợp đồng cho thuê nhà xưởng số 01-06/AP-TDM ngày
15/6/2006 giữa Công ty Cổ phần T2 và cho Công ty TNHH A1 là:
- Nợ gốc: 546.840.000 đồng;
- Nợ lãi chậm thanh toán: 551.079.882 đồng;
16
Tổng cộng: 1.097.919.882 đồng (Một tỷ, không trăm chín mươi bảy triệu,
chín trăm mười chín nghìn, tám trăm tám mươi hai đồng).
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án
xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành
án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015
tương ứng với thời gian chậm thanh toán.
3. Về án phí:
- Án phí sơ thẩm:
Công ty Cổ phần T2 phải chịu 44.937.596 đồng (bốn mươi bốn triệu, chín
trăm ba mươi bẩy nghìn, năm trăm chín mươi sáu đồng) án phí kinh doanh
thương mại sơ thẩm.
Công ty TNHH A1 được trả lại số tiền 20.847.000 đồng (hai mươi triệu
tám trăm bốn mươi bẩy nghìn đồng) tạm ứng án phí kinh doanh thương mại sơ
thẩm đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0056356 ngày
26/5/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh Bình Dương.
- Án phí phúc thẩm:
Công ty Cổ phần T2 phải nộp án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm số
tiền là 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) (đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí
số AA/2020/0013986 ngày 18/10/2023 tại Chi Cục Thi hành án dân sự quận
HBT , thành phố Hà Nội).
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi
hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 Luật Thi
hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND TP Hà Nội;
- TAND Q. HBT ;
- Chi cục THADS Q. HBT ;
- Các Đương sự;
- Lưu Hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN
Bùi Đức Bằng
17
Thành viên Hội đồng xét xử
Nguyễn Xuân Tuấn Dương Tuyết Mai
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
Bùi Đức Bằng
Nơi nhận:
-VKSND TP Hà Nội;
- TAND Q.HBT;
- Chi cục THADS Q.HBT;
- Các Đương sự;
- Lưu Hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN
Bùi Đức Bằng
Tải về
Bản án số 227/2024/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 227/2024/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 28/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 25/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 18/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 09/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Bản án số 08/2024/KDTM-PT ngày 29/08/2024 của TAND tỉnh Bình Thuận về tranh chấp về cung ứng dịch vụ
Ban hành: 29/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 23/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 23/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 21/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 15/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Bản án số 07/2024/KDTM-PT ngày 13/08/2024 của TAND tỉnh Quảng Bình về tranh chấp về cung ứng dịch vụ
Ban hành: 13/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 12/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 08/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 05/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 05/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 02/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 31/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 31/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm