Bản án số 22/2025/DS-PT ngày 21/01/2025 của TAND tỉnh Hậu Giang về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 22/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 22/2025/DS-PT ngày 21/01/2025 của TAND tỉnh Hậu Giang về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Hậu Giang
Số hiệu: 22/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 21/01/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và quyền sử dụng đất giữa bà L và ông K
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH HẬU GIANG
Bản án số 22/2025/DS-PT
Ngày: 21-01-2025
V/v: “tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất quyền
sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẬU GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Trịnh Thị Bích Hạnh.
Các Thẩm phán: Bà Lê Thị Thọ.
Ông Phạm Văn Hùng.
- Thư phiên tòa: Nguyễn Thị Hồng Chúc Thư Tòa án, Tòa án
nhân dân tỉnh Hậu Giang.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang: Nguyễn Thị Hồng
Thắm - Kiểm sát viên trung cấp tham gia phiên tòa.
Ngày 21 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số: 252/2024/TLPT-DS ngày 12 tháng 11
năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
quyền sử dụng đất”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 15/2024/DS-ST ngày 26 tháng 4 năm 2024 của
Tòa án nhân dân L, tỉnh Hậu Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 262/2024/QĐPT-DS
ngày 19 tháng 11 năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 233/2024/QĐ-PT ngày
18 tháng 12 năm 2024, Thông báo dời phiên tòa số 55/TB-TA ngày 02 tháng 01
năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:
1.1. Ông Lâm Văn L, sinh năm: 1959.
1.2. Bà Nguyễn Hồng H, sinh năm: 1964.
Cùng địa chỉ: Ấp B, thị trấn V, huyện L, tỉnh Hậu Giang.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Ông Thanh T.
Địa chỉ: Ấp B, xã V, huyện V, tỉnh Hậu Giang, có mặt.
2. Bị đơn:
2.1. Ông Trần Văn K, sinh năm: 1949.
2.2. Ông Trần Văn B, sinh năm: 1984.
Cùng địa chỉ: Ấp B, thị trấn V, huyện L, tỉnh Hậu Giang.
Người đại diện theo ủy quyền của bđơn ông Trần Văn K, ông Trần Văn B
là: Ông Trần Thanh T1.
Địa chỉ: Ấp B, thị trấn V, huyện L, tỉnh Hậu Giang, có mặt.
2.3. Ông Phan Văn N, sinh năm: 1969.
2
Địa chỉ: Ấp C, thị trấn V, huyện L, tỉnh Hậu Giang.
2.4. Ông Phan Văn D, sinh năm: 1939.
Địa chỉ: Ấp A, thị trấn V, huyện L, tỉnh Hậu Giang.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Phan Văn D, ông Phan Văn N
là: Ông Nguyễn Văn K1, sinh năm: 1982.
Địa chỉ: Số A đường N, khu V, phường D, TP ., tỉnh Hậu Giang, có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Bà Lâm Thị L1, sinh năm: 1968.
Địa chỉ: Ấp B, thị trấn V, huyện L, tỉnh Hậu Giang.
3.2. Bà Lâm Thị H1, sinh năm: 1968.
Địa chỉ: Ấp A, xã T, huyện L, tỉnh Hậu Giang.
3.3. Bà Nguyễn Thị Kiều T2, sinh năm: 1987.
Địa chỉ: Ấp B, thị trấn V, huyện L, tỉnh Hậu Giang.
3.4. Bà Nguyễn Thu T3, sinh năm: 1975.
Địa chỉ: Ấp C, thị trấn V, huyện L, tỉnh Hậu Giang, có mặt.
3.5. Ông Nguyễn Ngọc B1.
Địa chỉ: Ấp B, thị trấn V, huyện L, tỉnh Hậu Giang.
3.6. Ông Nguyễn Ngọc M, sinh năm: 1973.
Địa chỉ: Ấp B, thị trấn V, huyện L, tỉnh Hậu Giang.
3.7. Bà Phạm Thị M1, sinh năm: 1954.
Địa chỉ: Ấp B, thị trấn V, huyện L, tỉnh Hậu Giang.
3.8. Bà Lê Thị C, sinh năm: 1949.
Địa chỉ: Ấp B, thị trấn V, huyện L, tỉnh Hậu Giang.
3.9. Bà Nguyễn Thị Kim S, sinh năm: 1947.
Địa chỉ: Ấp A, thị trấn V, huyện L, tỉnh Hậu Giang.
3.10. Bà Lâm Thị T4, sinh năm: 1970.
Địa chỉ: Ấp I, xã T, huyện L, tỉnh Hậu Giang.
3.11. Ông Lâm Quang N1, sinh năm: 1930.
Địa chỉ: Ấp B, thị trấn V, huyện L, tỉnh Hậu Giang.
3.12. Bà Lâm Thị L2, sinh năm: 1965.
Địa chỉ: Ấp A, thị trấn N, huyện V, tỉnh Hậu Giang.
4. Người kháng cáo: Ông Lâm Văn L, Nguyễn Hồng H nguyên đơn
trong vụ án; ông Phan Văn N, ông Phan Văn D là bị đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án thẩm các tài liệu trong hồ thì nội dung vụ án như
sau:
Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án Bà Quách Thảo N2 (gọi tắt
N2) người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn ông Lâm Văn L,
Nguyễn Hồng H (gọi tắt là ông L, bà H) trình bày:
Ông L, H được sở hữu các phần đất tại các thửa 261, 424, 515 đất tọa lạc
tại ấp B, thị trấn V, huyện L, tỉnh Hậu Giang. Các phần đất nêu trên được Ủy ban
nhân dân huyện L cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 25/11/1993 cho
Nguyễn Hồng H.
3
Năm 2001, do vợ chồng H, ông L thường xuyên đi làm ăn xa không trực
tiếp sử dụng đất (đi về thường xuyên, vẫn nhà tại địa phương), nên cho chị
ruột Lâm Thị L1 ợn phần đất tại thửa 261, diện tích 3.957m
2
canh tác,
đến năm 2015 thì vợ chồng ông L yêu cầu L1 trả lại đất thì bà L1 cũng đồng ý
trả đất nhưng đất thì do ông K và ông D đang sử dụng. Vợ chồng ông L hỏi bà
L1 nguyên nhân sao ông D ông K được sử dụng đất, thìL1 nói do
L1 bị bệnh không có khả năng canh tác, bên cạnh đó phần đất này nằm phía trong
bị bao bọc bởi các phần đất khác bên ngoài nên L1 không thể canh tác được
nên L1 đã bỏ đất trống không canh tác, bà L1 bỏ đất trống từ thời gian nào thì
L1 không nhớ.
Khi vợ chồng ông L H vyêu cầu L1 trả lại đất đã mượn thì L1
mới phát hiện là phần đất này đã bị ông Trần Văn K và ông Phan Văn D chiếm sử
dụng, được biết thì ông Trần Văn K con ông Trần Văn B sdụng phần đất
của vợ chồng ông L diện tích 1897,9m
2
tại một phần thửa 261, ông D con
Phan Văn N sử dụng phần đất diện tích 1499,1m
2
tại một phần thửa 261 (diện tích
thực tế theo lược đồ đo đạc ngày 21/4/2023). Vợ chồng ông L, H nhiều lần
yêu cầu ông D ông K trả lại đất nhưng cả hai đều không đồng ý nên phát sinh
tranh chấp vào cuối năm 2021 cho đến nay.
Nay ông Lâm Văn L, Nguyễn Hồng H khởi kiện yêu cầu Toà án giải
quyết buộc ông Trần Văn K, ông Trần Văn B trả lại phần đất diện tích
1.783,9m
2
tại một phần thửa 261, buộc ông Phan Văn Dcon là Phan Văn N trả
lại phần đất diện tích 1.905,9m
2
tại một phần thửa 261, cả hai phần đất đều toạ lạc
tại ấp B, thị trấn V, huyện L, tỉnh Hậu Giang. Ngoài ra, nguyên đơn không có yêu
cầu gì thêm.
Ông Nguyễn Văn K1 (gọi tắt ông K1) đại diện ủy quyền của các bị đơn
ông Trần Văn K (gọi tắt ông K), ông Trần Văn B (gọi tắt ông B), ông Phan
Văn N (gọi tắt là ông N), ông Phan Văn D (gọi tắt là ông D) trình bày:
- Đối với phần đất bị đơn ông Trần Văn K ông Trần Văn B đang quản
sử dụng:
Ông K1 không thống nhất với lời trình bày của nguyên đơn, nguồn gốc phần
đất ông K1 thừa nhận của vợ chồng ông L, H. m 1992 vchồng ông L,
H đã chuyển nhượng cho ông Trần Văn K vợ Thị C phần đất diện
tích 02 công tầm nhỏ với giá 06 chỉ vàng 24k, khi chuyển nhượng 2 bên làm
giấy tay, có vợ chồng ông L, bà H ký tên, nhưng thời gian lâu quá nên giấy tay đã
bị mối ăn mất không còn, vợ chồng ông K đã giao đủ vàng, vợ chồng ông L, bà H
đã giao đủ đất, vợ chồng ông K canh tác đất tnăm 1992 đến năm 2009 thì cho
lại con trai Trần Văn B canh tác, sử dụng đến nay. Lúc giao đất không đo
đạc thực tế chranh cặm trụ đá để sử dụng. Sau khi sang đất khoảng 2
năm sau vợ chồng ông K, C nhiều làn qua gặp để yêu cầu vợ chồng ông L,
bà H làm thủ tục sang tên quyền sử dụng đất, nhưng vợ chồng ông L, bà H cứ hẹn
lần rồi không thực hiện. Vợ chồng ông K sử dụng canh tác phần đất này từ
năm 1992 đến nay thì các hộ dân canh tác đất xung quanh đều biết, gia đình
ông L, bà H cũng ở tại địa phương nhưng cũng không ngăn cản hay tranh chấp gì.
Đến năm 2022, thì vợ chồng bà H khởi kiện đòi lại đất nên phát sinh tranh chấp.
4
Nay vợ chồng ông L, bà H khởi kiện yêu cầu ông K và ông B trả lại phần đất
diện tích 1.783,9m
2
tại một phần thửa 261 thì ông K ông B không đồng ý, ông
K có đơn phản tố yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa ông K với vợ chồng ông L và bà H theo diện tích đo đạc thực tế.
- Đối với phần đất ông Phan Văn N ông Phan Văn D đang quản lý, sử
dụng:
Nguồn gốc phần đất đang tranh chấp do ông Phan Văn D nhận chuyển
nhượng từ ông Nguyễn Ngọc B1 vào ngày 16/9/2003. Phần đất nhận chuyển
nhượng diện tích 11.700m
2
với giá 71,5 chỉ vàng 24k, khi chuyển nhượng
hai bên làm giấy tay chính quyền địa phương xác nhận, hiện nay giấy tay
ông D vẫn đang giữ. Sau khi giao đủ vàng thì ông B1 đã thực hiện thủ tục sang
tên quyền sử dụng đất cho ông D, ông D đã được Ủy ban nhân dân huyện L cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00309 ngày 16/12/2003 với diện tích là
10.682m
2
tại thừa 262, tờ bản đồ số 3, đất toạ lạc tại ấp B, thị trấn V, huyện L,
tỉnh Hậu Giang. Sau khi ông D được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì
phát hiện phần đất mình được cấp giấy bị thiếu diện ch 1.018m
2
so với giấy tay
đã lập trước đó. Lúc này ông D liên hệ với ông B1 thì ông B1 thừa nhận phần
đất thiếu này do con ông B1 ông Nguyễn Ngọc M nhận chuyển nhượng của
vợ chồng ông L và bà H nhưng chưa làm thủ tục sang tên từ ông L, bà H sang cho
ông M, nên ông M chưa sang tên cho ông D được, ông D cũng không giữa
ông M vợ chồng ông L, H lúc thỏa thuận chuyển nhượng làm giấy tờ
không giá chuyển nhượng như thế nào. Đến năm 2005, thì ông D mới cho lại
con là ông Phan Văn N phần đất này ông N canh tác sử dụng đến nay, khi ông
D cho đất ông N thì có làm giấy tay.
Vào năm 2020, ông N liên hvới vợ chồng ông L, H, để yêu cầu làm
thủ tục sang tên quyền sử dụng đất đối với phần đất này thì vợ chồng ông L, bà H
cũng thừa nhận hứa sẽ sang tên quyền sử dụng đất cho ông N, nhưng do giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất vợ chồng ông L, H thế chấp vay tiền Ngân
hàng, chưa khả năng trả nợ nên chưa lấy giấy về tách cho ông N được. Vợ
chồng ông L, H hứa hẹn nhiều lần còn khẳng định với gia đình ông N s
không nói ngược nhưng ông vẫn không thực hiện thủ tục sang tên quyền sử
dụng đất cho gia đình ông N, phần đất này gia đình ông N sử dụng liên tục từ khi
nhận chuyển nhượng của ông B1 vào năm 2003 đến năm 2021 thì không ai tranh
chấp hay có ý kiến gì. Đến đầu năm 2022 thì bà H lên gặp vợ ông N là bà Nguyễn
Thu T3 nói lấy đất lại từ đó hai bên mới phát sinh tranh chấp.
Nay vợ chồng ông L, bà H khởi kiện yêu cầu ông D ông N trả lại đất thì
ông N ông D không đồng ý. Nay ông D đơn phản tố yêu cầu Tòa án công
nhận cho ông D quyền sở hữu đối với phần đất diện tích theo đo đạc thực tế
1.905,9m
2
tại một phần thửa 261 theo quy định.
Tại biên bản ghi lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lâm Thị
L1 (gọi tắt là L1) trình bày:
Vào khoảng năm 1992-1993 bà ly hôn chồng nên về sống chung với cha mẹ
là ông Lâm Quang N1 và bà Phạm Thị S1. Lúc đó hoàn cảnh khó khăn nên bà S1
mới cho mượn phần đất khoảng 03 công để canh tác, nhưng bà canh tác được
khoảng 1 năm thì trả lại, sau khi bà trả đất lại cha mẹ đã cho đất ai hay cho ợn
5
thì không biết, cũng không biết phần đất này ai đang đứng tên quyền sử
dụng đất hay đất giấy tờ hay không. n việc ông L, H cho rằng đã cho
mượn đất năm 2001 không đúng, vợ chồng ông L, H thường xuyên đi
buôn bán trên ghe nên cũng không gặp để đòi đất gì. Lúc còn sống cha mẹ
cho 01 nền nhà 03 công đất ruộng để canh tác, cũng đã sang tên
quyền sử dụng đất xong đang sử dụng ổn định, nên không liên quan đến phần
đất vợ chồng ông L, bà H đang tranh chấp với ông K, ông B, ông N và ông D. Bà
không yêu cầu gì trong vụ kiện này.
Tại biên bản ghi lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn
Ngọc M (gọi tắt là ông M) trình bày:
Phần đất ông D đang tranh chấp với vợ chồng H, ông L của ông đã
sang cho ông D cụ thể nguồn gốc đất như sau:
Khoảng năm 1997 ông sang của Lâm Thị H1 phần đất ruộng 1,5 công
với giá 7 chỉ vàng 24k, bà H1 là em gái của ông Lâm Văn L, bà H1 cho rằng phần
đất này là đất gốc của cha bà H1 là ông Lâm Quang N1 đã cho bà H1 sử dụng, lúc
sang đất ông cũng không biết giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay không
ông là nông dân nên cũng không hiểu biết vấn đề này, lúc ông sang đất thì ông
N1 vợ là bà Phạm Thị S1 còn sống, cũng đồng ý việc H1 sang đất cho ông.
S1 nói đất đai đã chia cho các con rõ ràng, phần đất này là bà S1 đã cho bà
H1, H1 không sử dụng nên mới sang lại cho ông, không phải đất của vợ chồng
ông L, bà H.
Ông sử dụng đất ổn định được khoảng vài năm thì do hoàn cảnh gia đình
khó khăn nên vào năm 2003 ông đã chuyển nhượng lại cho ông Phan Văn D phần
đất này, đồng thời cũng cùng năm đó cha ruột ông ông Nguyễn Ngọc B1 cũng
sang đất cho ông D diện tích khoảng 10 công tầm nhỏ, nên ông cha là ông B1
đã cùng nhau sang cho ông D các phần đất này, ông ông B1 đã giao đất cho
ông D, ông D đã giao đủ tiền cho ông ông B1 đã hoàn tất thủ tục sang tên
quyền sử dụng đất.
Nay khi Tòa án mời thì mới biết được ông D chưa làm thủ tục tách giấy
được phần đất đã sang nhượng của ông và đang tranh chấp với vợ chồng ông Lâm
Văn L Nguyễn Hồng H. Nếu ông D thông báo việc không sang tên quyền
sử dụng đất được phần đất này cho ông biết sớm, thì lúc vợ chồng ông N1, S1
còn sống thì chắc không xảy ra tranh chấp.
Nay vợ chồng ông L, H kiện ông D yêu cầu trả lại đất, ông cũng yêu cầu
Tòa án giải quyết theo quy định, xem xét quyền lợi cho ông D đất không phải
của vợ chồng ông L, bà H. Ngoài ra, ông không có yêu cầu gì thêm.
Tại biên bản ghi lời khai người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phạm
Thị M1 (gọi tắt là bà M1) trình bày:
vợ của ông Nguyễn Ngọc B1, cho rằng hiện tại ông B1 đang bệnh
tai biến không thể trình bày ng như cung cấp ý kiến cho Tòa án các vấn đề
liên quan đến vụ án tranh chấp này, nhưng cũng hiểu rsự việc nên trình
bày như sau: Vào khoảng năm năm 1990, bà cũng không nhớ chính xác, ông Lâm
Quang N1 cho Lâm Thị H1 con gái của ông N1 phần đất bỏ hoang
khoảng 1,5 công, H1 không sử dụng mới chuyển nhượng lại cho con trai của
bà là ông Nguyễn Ngọc M, bà cũng không nhớ là giá bao nhiêu và có làm giấy t
6
không. Ông M sử dụng đất được một thời gian thì do hoàn cảnh khó khăn nên
khi M thấy vợ chồng bà chuyển nhượng đất cho ông Phan Văn D nên ông M mới
thỏa thuận chuyển nhượng cho ông D luôn phần đất này, sang đất cho ông D
năm nào thì không nhớ nhưng đã hơn 20 năm, vchồng đã m thủ tục sang
tên quyền sdụng đất cho ông D xong, còn phần đất ông M chuyển nhượng thì
ông M đã sang tên chưa thì bà không biết. Phần đất ông M sang cho ông D không
liên quan gì đến ông L, bà H, lúc đó đất do bà H1 canh tác sử dụng không phải vợ
chồng ông L, H sử dụng. Nay vợ chồng ông L, H tranh chấp với ông D
ông N thì bà không có ý kiến gì, yêu cầu giải quyết theo quy định.
Tại biên bản ghi lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lâm Thị
H1 (gọi tắt là bà H1) trình bày:
Bà là con gái của ông Lâm Quang N1Phạm Thị S1, là em gái của ông
Lâm Văn L. Nguồn gốc phần đất ông L đang tranh chấp của cha mẹ bà, trước
năm 1988 lúc bà chưa chồng thì sử dụng chung phần đất này cùng cha mẹ,
lúc đó đất líp ng để trồng khóm, đến năm 1988 chồng về T
chuyển khẩu về T sinh sống từ đó đến nay nên đất này giao lại cho cha mẹ quản
lý sử dụng, bà không có sang bán đất cho ông M, còn cha mẹ có sang bán đất cho
ông M hay không hoặc tặng cho đất ông L hay cho L1 ợn đất hay
không thì bà không biết, vì lúc đó bà đã sống bên nhà chồng, còn L1ông L
thì còn sống chung với cha mẹ nên sử dụng chung.
Lúc chồng thì cha mẹ cho 02 công đất ruộng, nhưng sau đó do
không nhu cầu sử dụng nên cũng đã trả đất lại cho cha mẹ năm 1990, đến
nay thì cha mẹ cũng không có cho bà phần đất nào khác.
Còn phần đất ông L đang tranh chấp với ông M, ông B1 thì cha mẹ cho
ông L hay không thì cũng không được biết, hơn nữa cha mẹ chmình
ông L là con trai nên toàn bộ đất đai của cha mẹ ông L cùng sử dụng chung đến
nay.
Tại biên bản ghi lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lâm Thị
T4 (gọi tắt là T4) trình bày:
là con ruột của ông Lâm Quang N1 và Phạm Thị S1, từ nhỏ đến trước
khi có chồng không canh tác đất nên bà không biết đất đai của cha mẹ gồm
những phần nào, do đó phần đất ông vợ chồng ông L tranh chấp với các bị đơn bà
không biết rỏ nguồn gốc của ai. Khi chồng về T thì bà được mcho 01
công đất ruộng, nhưng do không điều kiện canh tác nên đã nhận tiền, phần
đất mẹ cho không liên đến phần đất tranh chấp. Còn đất đai của cha mẹ tặng cho
hay sang bán cho ai thì hoàn toàn không biết. Nên không yêu cầu
trong vụ án này.
Tại biên bản ghi lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lâm Thị
L2 (gọi tắt là L2) trình bày:
con ruột của ông Lâm Quang N1 Phạm Thị S1, trước đây lúc
chưa có chồng còn sống chung với gia đình thì ng ông L, L1, T4 canh
tác phần đất này, đến năm 1989 chồng về V thì nghe L1 nói lại
Phạm Thị S1 mẹ cho L1 ợn phần đất này canh tác sử dụng khoảng 2
năm thìL1 trả lại cho mẹ, sau đó cha mẹ cho đất ai thì bà không biết. Bà cũng
không nghe ông L nói cho bà L1 mượn đất và cũng không nghe bà S1 nói có sang
7
đất cho ông B1 ông M, lúc có chồng bà S1 cho bà 04 công đất nhưng bà
không nhận, phần đất ông L đang tranh chấp không liên quan đến nên
không có yêu cầu gì trong vụ án này.
Tại biên bản ghi lời khai người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lâm
Quang N1 (gọi tắt là ông N1) trình bày:
Ông chồng của Phạm Thị S1, lúc S1 còn sống ông không nghe
S1 nói sang bán đất cho ai, do ông lớn tuổi hay đau bệnh nên mọi việc giao
cho vợ con quản lý, ông không có sang bán đất gì cho ông M và ông B1. Ông L
con trai duy nhất trong nhà nên sống cùng quản tài sản chung cùng vợ
chồng ông từ nhỏ đến nay, nay bà S1 chết hương quả cũng do ông L lo liệu, nên
đất đai ông cũng giao cho vợ chồng ông L quản lý. Ông không có yêu cầu gì, mọi
quyết định tùy thuộc vào vợ chồng ông L.
Tại biên bản ghi lời khai người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn
Thị Kiều T2 (gọi tắt là bà T2) trình bày:
vợ ông Trần Văn B, thống nhất với lời trình bày của ông B đại
diện y quyền của ông B, phần đất này vợ chồng đã được ông K cho sử dụng
từ năm 2009 đến nay, nay vợ chồng ông L, bà H tranh chấp yêu cầu trả lại đất thì
cũng yêu cầu Tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng đất cho ông K theo
quy định.
Tại bản tự khai người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ThC (gọi tắt
là bà C) trình bày:
vợ của ông Trần Văn K, cho rằng nguồn phần đất vợ chồng ông L,
H đang tranh chấp là của vợ chồng đã chuyển nhượng của vợ chồng ông L,
H từ năm 1992, phần đất diện tích 02 công tầm nhỏ với giá 06 chỉ vàng 24k,
khi chuyển nhượng 2 bên có làm giấy tay, có vợ chồng ông L, bà H ký tên, nhưng
thời gian lâu quá nên giấy tay đã bị mối ăn mất không còn, vợ chồng bà đã giao
đủ vàng, vợ chồng ông L, H đã giao đủ đất, vợ chồng bà canh tác đất từ năm
1992 đến năm 2009 thì cho lại con trai Trần Văn B canh tác, sử dụng đến nay.
Lúc giao đất không đo đạc thực tế mà chỉ ranh cặm trụ đá để sử dụng.
Sau khi sang đất khoảng 2 năm sau vợ chồng bà nhiều lần qua gặp để yêu cầu
vợ chồng ông L, H làm thủ tục sang tên quyền sử dụng đất, nhưng vợ chồng
ông L, bà H cho rằng giấy quyền sử dụng đất đang vay tiền ngân hàng nên không
sang tên được rồi kéo dài đến nay.
Nay vợ chồng ông L, H khởi kiện yêu cầu ông K ông B trả lại đất thì
bà không đồng ý vì đất đã chuyển nhượng rồi, yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy
định.
Tại bản tự khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Kim S
(gọi tắt là bà S) trình bày:
vợ của ông Phan Văn D, thống nhất với lời trình bày của ông D
không có ý kiến nào khác, yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định.
Tại bản tự khai người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thu T3
(gọi tắt là bà T3) trình bày:
vợ của ông Phan Văn N, thống nhất với lời trình bày của ông N,
không có ý kiến nào khác, yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định.
Tại phiên tòa sơ thẩm:
8
Quách Thảo N2 đại diện ủy quyền của nguyên đơn yêu cầu: Yêu cầu
Toà án giải quyết buộc ông Trần Văn K, ông Trần Văn B trả lại phần đất diện
tích theo đo đạc thực tế 1.783,9m
2
tại một phần thửa 261. Buộc ông Phan Văn D
con Phan Văn N trả lại phần đất diện tích theo đo đạc thực tế 1.905,9m
2
tại
một phần thửa 261, cả hai phần đất đều toạ lạc tại ấp B, thị trấn V, huyện L, tỉnh
Hậu Giang. Ngoài ra, nguyên đơn không có yêu cầu gì thêm.
Ông Nguyễn Văn K1 là đại diện ủy quyền của ông Trần Văn K, Trần Văn B,
ông Phan Văn D ông Phan Văn N yêu cầu: Ông K ông B không đồng ý trả
lại phần đất diện tích là 1.783,9m
2
tại một phần thửa 261 theo yêu cầu khởi kiện
của vợ chồng ông L, H. Ông K đơn phản tố yêu cầu công nhận hợp đồng
chuyển nhượng đất giữa ông Trần Văn K và vợ chồng ông L H theo diện
tích đo đạc thực tế.
Ông N và ông D không đồng ý trả lại phần đất diện tích là 1.905,9m
2
tại một
phần thửa 261 theo yêu cầu khởi kiện của vợ chồng ông L, H. Nay ông D yêu
cầu phản tố yêu cầu Toà án công nhận cho ông D quyền sở hữu đối với phần đất
trên và làm thủ tục sang tên cho ông N theo quy định.
Tại bản án thẩm số 15/2024/DS-ST ngày 26 tháng 4 năm 2024 của Tòa
án nhân dân huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang tuyên xử như sau:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với các bị đơn
về yêu cầu đòi lại quyền sử dụng đất.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lâm Văn L, bà
Nguyễn Hồng H đối với bị đơn Trần Văn K, Trần Văn B việc yêu cầu đòi lại
quyền sử dụng đất.
3. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông Trần Văn K và Trần Văn B đối
với nguyên đơn Lâm Văn L Nguyễn Hồng H. Công nhận hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Trần Văn K ông Lâm Văn L, Nguyễn
Hồng H.
Công nhận quyền sử dụng đất cho ông Trần Văn K phần đất vị trí II diện
tích 1.783,9m
2
, loại đất BHK (CNm), tại một phần thửa 261 tờ bản đồ số 3, thuộc
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 000148 cấp ngày 25/11/1993 cho
Nguyễn Hồng H. Kích thước các cạnh theo mảnh trích đo địa chính số 74/SHC
ngày 17/10/2023.
Ông Trần Văn K được quyền liên hệ quan thẩm quyền làm thủ tục
điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định.
4. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lâm Văn L, bà Nguyễn
Hồng H đối với bị đơn Phan Văn D và Phan Văn N về việc yêu cầu đòi lại quyền
sử dụng đất.
Buộc Phan Văn D Phan Văn N giao lại cho nguyên đơn ông Lâm Văn L
Nguyễn Hồng H phần đất tại vị trí I diện tích 1.905,9m
2
, loại đất BHK
(CNm), tại một phần thửa 261, tờ bản đồ s3, thuộc giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số 000148 ngày 25/11/1993 cho bà Nguyễn Hồng H. Kích thước các
cạnh theo mảnh trích đo địa chính số 74/SHC ngày 17/10/2023.
5. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông Phan Văn D đối với
nguyên đơn ông Lâm Văn L, Nguyễn Hồng H về việc yêu cầu công nhận
quyền sử dụng đất.
9
Dành quyền khởi kiện cho bị đơn ông Phan Văn D đối với ông Nguyễn
Ngọc M về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Phan Văn D
ông Nguyễn Ngọc M theo quy định.
Ngoài ra, bản án thẩm còn tuyên về án phí dân sự thẩm, chi phí tố
tụng, quyền yêu cầu thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 04 tháng 5 năm 2024, nguyên đơn ông Lâm Văn L, bà Nguyễn Hồng
H đơn kháng cáo đối với bản án dân sự thẩm. Yêu cầu cấp phúc thẩm giải
quyết theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc bị đơn ông
K, ông B trả lại phần đất bao chiếm diện tích 1.783.9m
2
tọa lạc tại ấp B, thị trấn
V, huyện L, tỉnh Hậu Giang.
Ngày 09 tháng 5 năm 2024, bị đơn ông Phan Văn D, ông Phan Văn N
đơn kháng cáo đối với bản án dân sự sơ thẩm. Yêu cầu cấp phúc thẩm giải quyết
theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chấp nhận toàn
bộ yêu cầu phản tố của bị đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: Phía bđơn ông K
cho rằng mua đất của nguyên đơn nhưng không cung cấp được chứng cứ
chứng minh. Mặt khác, quá trình sử dụng đất nguyên đơn nộp thuế đầy đủ với
diện tích 3.957m
2
phù hợp với tổng diện tích nguyên đơn được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Bên cạnh đó, ông K trình bày có người làm chứng
ông Trần Văn P em ruột của bị đơn ông L3 thời điểm năm 1992 thì ông
L3 mới chỉ 12 tuổi thì không thể chứng kiến việc ông K sử dụng đất từ năm 1992
đến nay, những người làm chứng này không khách quan. Đồng thời, lời khai của
L1 đều xác định không sử dụng đất tnăm 1994 đến năm 1995 thì không thể
có việc bị đơn sử dụng đất từ năm 1992 đến nay.
Đối với việc ông N ông D sử dụng đất này không căn cứ, không
chứng minh được việc nhận chuyển nhượng với nguyên đơn ông L, H nên yêu
cầu buộc hai bị đơn ông N, ông D phải trả đất lại cho nguyên đơn.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông K, ông B trình bày: Bị đơn ông
K, ông B giấy mua bán đất nhưng do lâu quá đã bị mối ăn nên không còn.
Năm 1994 yêu cầu ông L tách thửa nhưng không được. Việc mua bán giao
vàng không ai chứng kiến nhưng việc bị đơn ông K, ông B s dụng đất từ năm
1992 thì có ông P và ông L3 chứng kiến.
Người đại diện theo ủy quyền của ông D, ông N cho rằng việc sdụng đất
của ông D, ông N không bị nguyên đơn ngăn cản nên yêu cầu công nhận quyền
sử dụng đất cho ông D, ông N.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang phát biểu quan điểm từ giai
đoạn thụ đến khi đưa ván ra xét xử, Tòa án đã tiến hành đúng các quy định
của pháp luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án, đề nghị áp dụng khoản 2 Điều
308 của Bộ luật tố tụng dân sự, sửa bản án dân sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét kết quả tranh tụng tại
phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
10
[1]. Sau khi xét xử thẩm, nguyên đơn, bị đơn kháng cáo trong thời hạn
luật định nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2]. Đối với kháng cáo của nguyên đơn, ông Lâm Văn L, bà Nguyễn Hồng H
đơn kháng cáo đối với bản án dân sthẩm. u cầu cấp phúc thẩm giải
quyết theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc bị đơn ông
K, ông B trả lại phần đất bao chiếm diện tích 1.783,9m
2
tọa lạc tại ấp B, thị trấn
V, huyện L, tỉnh Hậu Giang, Hội đồng xét xử xét thấy:
Nguồn gốc đất tranh chấp của ông N1, bà S1 tặng cho ông L, bà H và ông
L, bà H đã đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 1993.
Bị đơn ông K ông B cho rằng phần đất này nhận chuyển nhượng của vợ
chồng ông L, bà H năm 1992, khi chuyển nhượng làm giấy tay nhưng bthất
lạc, giá chuyển nhượng 06 chỉ vàng 24K, diện ch 4 công đất. Khi giao đất
nguyên đơn không đo đạc, cắm cọc ranh cho bị đơn, trên đất không công trình
của bị đơn. Thời điểm nhận chuyển nhượng không ai chứng kiến, bị đơn sử
dụng đất từ năm 1992 có ông Trần Văn P, ông Trần Vũ L3 ở gần chứng kiến. Tuy
nhiên, xét thấy tại phiên tòa bị đơn thừa nhận ông Trần Văn P là anh, em ruột của
ông Trần Văn K, đối với ông L3 sinh năm 1980 thì thời điểm năm 1992 khi bị
đơn sử dụng đất ông L3 chỉ mới 12 tuổi. Do vậy, chứng cứ này không khách
quan, việc ông K ông B cho rằng sử dụng đất từ năm 1992 chưa đủ căn cứ.
Mặt khác, xét lời khai của Lâm Thị L1 cho rằng sử dụng đất tnăm 1994
đến năm 1995 thì không sử dụng nữa. Như vậy, có cơ sở xác định bà L1 không sử
dụng đất từ năm 1995, trước đó năm 1993 thì nguyên đơn bà H đã được nhà nước
công nhận quyền sử dụng đất đóng thuế theo quy định. Việc Tòa án cấp
thẩm cho rằng ông K, ông B sử dụng phần đất tranh chấp trên 30 năm để công
nhận quyền sử dụng đất cho ông K, ông B không căn cứ, do vậy cần buộc
ông K, ông B trả lại phần đất tranh chấp cho nguyên đơn.
[3]. Đối với phần đất tranh chấp giữa ông Lâm Văn L, Nguyễn Hồng H
và ông Phan Văn D, ông Phan Văn N.
Ông D ông N cho rằng phần đất này ông D nhận chuyển nhượng của ông
Nguyễn Ngọc B1 ông Nguyễn Ngọc M vào năm 2003. Theo lời trình bày của
ông M thể hiện ông M thừa nhận chuyển nhượng đất cho ông D tại thửa 262
của ông Nguyễn Ngọc B1, cùng thời điểm y ông M chuyển nhượng thêm
cho ông D một phần đất có diện tích 1.905.9m
2
thuộc một phần thửa 261 đứng tên
ông L H, do ông M nhận chuyển nhượng của Lâm Thị H1 vào năm
1997. Tuy nhiên, H1 không thừa nhận việc chuyển nhượng đất cho ông M,
mặt khác, H1 không phải chủ sử dụng phần đất này năm 1993 ông L,
H đã được nhà nước công nhận quyền sử dụng đất thửa 261.
Do đó, yêu cầu phản tố của ông Phan Văn N yêu cầu công nhận hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông D và ông M không căn cứ đ
chấp nhận, nên cấp thẩm buộc ông Phan Văn N và ông Phan Văn D trách
nhiệm trả lại phần đất này cho vợ chồng ông L, H. Dành quyền khởi kiện cho
ông Phan Văn D đối với ông Nguyễn Ngọc M về việc tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với phần đất này theo quy định là căn
cứ.
11
Từ những căn cứ trên, xét thấy kháng cáo của nguyên đơncăn cứ chấp
nhận. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Phan Văn N ông Phan n
D. Chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa. Sửa bản án dân sự
sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
[4]. Án phí dân sự thẩm chi phí tố tụng: Do sửa án thẩm, nên Hội
đồng xét xử phúc thẩm xác định lại nghĩa vụ chịu án phí dân sự thẩm và chi
phí tố tụng.
[4.1]. Về án phí dân sự thẩm: Do yêu cầu của nguyên đơn ông Lâm Văn
L Nguyễn Hồng H được chấp nhận nên buộc bị đơn ông Trần Văn B, ông
Trần Văn K, ông Phan Văn N, ông Phan Văn D phải chịu án phí dân sự thẩm
theo quy định mỗi người 300.000đồng. Tuy nhiên, ông K, ông D là người cao
tuổi nên được miễn theo quy định.
Nguyên đơn ông Lâm Văn L, bà Nguyễn Hồng H được nhận lại tiền tạm ứng
án phí đã nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu số 0006533
phiếu lập ngày 18/10/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Mỹ.
[4.2]. Về chi phí tố tụng: Áp dụng Điều 157 Điều 165 Bộ luật tố tụng
dân sự. Tổng chi phí đo đạc thẩm định, định giá tài sản trích lục hồ
13.268.000 đồng (mười ba triệu hai trăm sáu mươi tám ngàn đồng) các bị đơn
ông Trần Văn B, ông Trần Văn K, ông Phan Văn N, ông Phan Văn D phải chịu.
Do nguyên đơn ông Lâm Văn L Nguyễn Hồng H đã nộp tạm ứng nên các
bị đơn ông Trần Văn B, ông Trần Văn K, ông Phan Văn N, ông Phan Văn D
nghĩa vụ nộp số tiền 13.268.000 đồng (mười ba triệu hai trăm sáu ơi tám ngàn
đồng) tại Chi cục THADS thị xã L, tỉnh Hậu Giang để trả lại cho ông L và bà H.
[5]. Về án pdân sự phúc thẩm: Do sửa án thẩm nên đương sự không
phải chịu.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ: Khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự;
Điều 693, 695 Bộ luật Dân sự năm 1995;
Điều 133 Bộ luật Dân sự năm 2015;
Điều 26; Điều 202 và Điều 203 Luật đất đai năm 2013;
Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường
vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản sử dụng án
phí, lệ phí Tòa án.
Chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, không chấp nhận kháng cáo của bị đơn
ông Phan Văn Nông Phan Văn D. Sửa bản án dân sự sơ thẩm.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với các bị đơn về yêu cầu
đòi lại quyền sử dụng đất.
2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông Trần Văn K Trần Văn
B đối với nguyên đơn Lâm Văn LNguyễn Hồng H.
3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông Phan Văn D đối với
nguyên đơn ông Lâm Văn L, bà Nguyễn Hồng H về việc yêu cầu công nhận quyền
sử dụng đất.
12
Buộc bị đơn ông Trần Văn K, ông Trần Văn B phải trả lại cho nguyên đơn
ông Lâm Văn L Nguyễn Hồng H phần đất vị trí II diện tích 1.783,9m
2
, loại
đất BHK (CNm), tại một phần thửa 261 tờ bản đồ số 3, thuộc giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số 000148 cấp ngày 25/11/1993 cho Nguyễn Hồng H. Kích
thước các cạnh theo mảnh trích đo địa chính số 74/SHC ngày 17/10/2023 của Công
ty TNHH Đ.
Buộc bị đơn ông Phan Văn D và ông Phan Văn N giao trả lại cho nguyên đơn
ông Lâm Văn L và bà Nguyễn Hồng H phần đất tại vị trí I diện tích 1.905,9m
2
, loại
đất BHK (CNm), tại một phần thửa 261, tờ bản đồ số 3, thuộc giấy chứng nhận
quyền sử dụng dất số 000148 ngày 25/11/1993 cho Nguyễn Hồng H. Kích
thước các cạnh theo mảnh trích đo địa chính số 74/SHC ngày 17/10/2023 của Công
ty TNHH Đ.
4. Dành quyền khởi kiện cho bị đơn ông Phan Văn D đối với ông Nguyễn
Ngọc M về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Phan Văn D
ông Nguyễn Ngọc M theo quy định.
5. Về án phí dân sự thẩm: Bị đơn ông Trần Văn B, ông Phan Văn N phải
chịu mỗi người 300.000đồng. Ông K, ông D người cao tuổi nên được miễn
theo quy định.
Nguyên đơn ông Lâm Văn L, bà Nguyễn Hồng H được nhận lại tiền tạm ứng
án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu số 0006533
phiếu lập ngày 18/10/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Mỹ.
6. Về chi phí tố tụng: Tổng chi phí đo đạc thẩm định, định giá tài sản
trích lục hồ 13.268.000 đồng (Mười ba triệu hai trăm sáu mươi m ngàn
đồng) các bị đơn ông Trần Văn B, ông Trần Văn K, ông Phan Văn N, ông Phan
Văn D mỗi người phải chịu 3.317.000 đồng. Do nguyên đơn ông Lâm Văn L
Nguyễn Hồng H đã nộp tạm ứng nên các bị đơn ông Trần Văn B, ông Trần
Văn K, ông Phan Văn N, ông Phan Văn D nghĩa vụ nộp mỗi người số tiền
3.317.000đồng (Ba triệu ba trăm mười bảy nghìn đồng) tại Chi cục THADS thị xã
L, tỉnh Hậu Giang để trả lại cho ông L và bà H.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự,
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều
7b Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo
quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm hiệu lực kể từ ny tuyên án, ngày 21 tháng 01 năm
2025.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Hậu Giang;
- TAND huyện L, tỉnh Hậu Giang;
- Chi cục THADS huyện L, tỉnh Hậu
Giang;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trịnh Thị Bích Hạnh
13
Tải về
Bản án số 22/2025/DS-PT Bản án số 22/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 22/2025/DS-PT Bản án số 22/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất