Bản án số 22/2021/HS-ST ngày 19/04/2021 của TAND huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp về tội cố ý gây thương tích và gây rối trật tự công cộng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 22/2021/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 22/2021/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 22/2021/HS-ST ngày 19/04/2021 của TAND huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp về tội cố ý gây thương tích và gây rối trật tự công cộng |
---|---|
Tội danh: | |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Tháp Mười (TAND tỉnh Đồng Tháp) |
Số hiệu: | 22/2021/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 19/04/2021 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁP MƯỜI, TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 22/2021/HS-ST NGÀY 19/04/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH VÀ GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG
Ngày 19 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án Huyện, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 07/2021/TLST-HS ngày 08 tháng 02 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2021/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 3 năm 2021, đối với bị cáo:
1. Họ và tên: Nguyễn Tấn G, sinh năm 1993; nơi cư trú: Số 0, ấp 1, xã MH, huyện TM, Đồng Tháp; nghề nghiệp làm thuê; trình độ học vấn 12/12; dân tộc kinh; giới tính nam; tôn giáo không; quốc tịch Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Z, sinh năm 1976 (còn sống) và bà Nguyễn Thị X, sinh năm 1973 (còn sống); vợ, con chưa có; tiền án, tiền sự không; tạm giữ ngày 04/12/2020; tạm giam ngày 07/12/2020; bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Tháp và có mặt tại phiên tòa.
2. Họ và tên: Nguyễn Tuấn C, sinh năm 1995; nơi cư trú: Ấp 1, xã MD, huyện TM, Đồng Tháp; nghề nghiệp làm thuê; trình độ học vấn 6/12; dân tộc kinh; giới tính nam; tôn giáo không; quốc tịch Việt Nam; con ông Nguyễn Văn I, sinh năm 1969 (còn sống) và bà Hồ Thị Y, sinh năm 1971 (còn sống); vợ, con chưa có; tiền án, tiền sự không; tạm giữ ngày 15/12/2020; tạm giam ngày 18/12/2020; bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Tháp và có mặt tại phiên tòa.
* Người bị hại: Huỳnh Minh L - sinh năm: 1992. (có mặt) Địa chỉ: Ấp 4, xã TL, huyện TM, Đồng Tháp.
* Người làm chứng:
1/ Ngô Văn Ngọc S - sinh năm: 1997. (có mặt) Địa chỉ: Ấp 6, xã TX, huyện TM, Đồng Tháp.
2/ Dương Gia Ki - sinh năm: 1998. (có đơn xin vắng mặt)
3/ Trần Phú M - sinh ngày: 11/3/2003. (vắng mặt)
Cùng địa chỉ: Khóm 1, thị trấn MA, huyện TM, Đồng Tháp.
4/ Đoàn Quang K - sinh năm: 1987. (có mặt) Địa chỉ: Ấp 3, xã ĐBK, huyện TM, Đồng Tháp.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 31/3/2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 16/CT-TTg về các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch Covid – 19 (Chỉ thị số 16). Trong đó nêu rõ:
“1. Thực hiện cách ly toàn xã hội trong vòng 15 ngày kể từ 0 giờ ngày 01 tháng 4 năm 2020 trên phạm vi toàn quốc theo nguyên tắc gia đình cách ly với gia đình, thôn bản cách ly với thôn bản, xã cách ly với xã, huyện cách ly với huyện, tỉnh cách ly với tỉnh ... Yêu cầu mọi người dân ở tại nhà, chỉ ra ngoài trong trường hợp thật sự cần thiết .. ; Thực hiện nghiêm việc giữ khoảng cách tối thiểu 2m khi giao tiếp; không tập trung quá 2 người ngoài phạm vi công sở, trường học, bệnh viện và tại nơi công cộng…”.
Vào trưa ngày 01/4/2020 Nguyễn Tấn G, Nguyễn Tuấn C, Dương Gia Ki, Phạm Gia B, Nguyễn Đinh N và một số người cùng uống rượu tại quán Mười Trai thuộc khóm 3, thị trấn Mỹ An, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp. Trong lúc uống rượu, khi nghe Ngô Văn Ngọc S là bạn của G và Tuấn C nói chuyện qua điện thoại với Huỳnh Minh L thì G, Tuấn C biết việc S hẹn gặp L vào tối 01/4/2020 để giải quyết mâu thuẫn.
Khoảng 19 giờ 00 ngày 01/4/2020, G điều khiển xe một mình từ nhà ở ấp 1, xã MH, Tuấn C điều khiển xe một mình từ ấp 1, xã Mỹ Đông đến quán của bà Trương Thị GU (tên thường gọi Năm Ốc) ở khóm 2, thị trấn MA, huyện TM, tỉnh Đồng Tháp. Khi G và C đến quán bà Năm Ốc đã có mặt Cổ Tiến D, Lê Triều V, Trần Phú M, Phạm Gia B, Nguyễn Nhựt L và Võ Thành U là bạn ngoài xã hội của S và nhóm của Nguyễn Vũ Li gồm 10 người từ Trường Xuân ra. Tại đây, S kể lại việc mâu thuẫn với L cho mọi người cùng nghe và thông báo nhóm của L hẹn ra khu vực Công viên trước cửa Ủy ban nhân dân huyện Tháp Mười để gặp mặt.
Sau đó, S đi cùng xe với Ki, khi đi S có đem theo một con dao bấm, M đi cùng xe với B, D đi cùng xe với Nhựt L chạy qua điểm hẹn trước. Trên đường đi thì gặp Nguyễn Đinh N điều khiển xe đi một mình nên N cùng đi theo. Khi biết nhóm S đi gặp L, thì G đi lấy con dao loại dao mèo cán gỗ màu đen, lưỡi dao màu đen dài khoảng 45cm trước đó G cất giấu ở mái nhà phía dưới mé sông cặp quán bà Năm Ốc rồi lên xe do Tuấn C điều khiển chạy theo sau.
Nhóm của S qua trước, gặp nhóm L gồm có L, Đỗ Trung T, Đoàn Quang K, Huỳnh Văn Q, Phạm Thanh H, Nguyễn Tuấn P, Phạm Ngọc TA đã có mặt tại sân đal phía tiếp giáp với Tòa án huyện Tháp Mười. Nhóm của S dừng xe cạnh nhóm của L rồi 02 nhóm đứng gần nhau tạo thành một đám đông với tổng cộng là 14 người. Hai nhóm cự cãi lớn tiếng, thách thức lẫn nhau. Ki dùng chân đạp trúng người của L làm L té ngã xuống sân. L bỏ chạy về hướng sân đal phía tiếp giáp với phía trụ sở Bảo hiểm xã hội huyện Tháp Mười thì bị Ki đuổi theo dùng mũ bảo hiểm đánh, dùng tay, chân đánh đá vào người L, M dùng tay và chân đánh, đá trúng vào người của L. Lúc này, G được Tuấn C chở đến, G thấy Ki, M đang rượt đuổi đánh L nên G xuống xe, đuổi theo cùng Ki, M, rượt đánh L. G cầm dao tự chế đuổi theo, dùng bề bằng (bề sống) của dao chém vào lưng của L một cái. Khi thấy G đánh L, K đuổi theo dùng nón bảo hiểm đánh vào người G làm rơi dao tự chế. K nắm cổ áo G thì bị G đánh trả bằng tay. Khi thấy G bị đánh, Tuấn C vào can ngăn hỏi K sao mày đánh cháu tao. Lúc này, cả 02 nhóm ngừng đánh nhau rồi tiến vào khu vực gần giữa sân đal đứng tiếp tục cự cãi, thách thức đánh nhau. M nhặt con dao của G làm rơi đưa lại cho V, V đưa dao lại cho N cất giữ. Khi Ki, M, G đuổi theo để đánh L, K đuổi theo bênh vực và đánh nhau với G thì tất cả những người đi cùng đều di chuyển theo tạo thành một đám đông với tổng cộng là 17 người rượt đuổi, di chuyển làm náo loạn cả khu vực này. Hai nhóm tiếp tục cự cãi lớn tiếng với nhau về việc nhóm của S đánh L. Trong đó P, H cự cãi gay gắt với D và có lời lẽ thách thức đánh nhau, H và T trên tay có cầm súng. G và Tuấn C tuy không tham gia cãi nhau nhưng vẫn đứng tập trung cùng đám đông nhằm mục đích bênh vực cho nhóm của mình. Lúc này nhóm của S tiếp tục đi trên xe ô tô đến dừng xe ở phía trước Tòa án huyện gồm có 10 người là Nguyễn Vũ Li, Nguyễn TH, Mai XH, Lê Trung Hi, Nguyễn HT, Lê VL, Lê KT, Đặng Nguyễn SN, Huỳnh Lê TN và Đỗ TĐ. S dùng tay ra dấu hiệu kêu nhóm đi trên xe ô tô đến khu vực sân đal phía trước Ủy ban huyện. V cũng dùng tay ra dấu hiệu rồi trực tiếp điều khiển xe mô tô đến gần kêu nhóm đi trên xe ô tô đến khu vực hai nhóm đang đứng cãi nhau. Khi nhận được dấu hiệu từ trong nhóm mình, Li kêu TĐ điều khiển xe ô tô đến dừng ở đường nhựa lối vào Ủy ban nhân dân Huyện, ngoại trừ TĐ thì cả nhóm gồm 09 người còn lại trên xe ô tô đều xuống xe đứng quan sát về phía đám đông đang cãi nhau, TĐ bật khóa mở cốp xe cho những người cùng đi lấy bao đựng hung khí là dao, búa để xuống đường.
Cùng lúc S ra dấu hiệu cho nhóm đi trên xe ô tô đến thì Nguyễn Giang C đi xe mô tô cùng với Đặng Văn Hoài F và năm người bạn của Giang C đến dừng xe gần nơi hai nhóm đang cãi nhau. Giang C vào đứng giữa hai nhóm, lớn tiếng dùng lời lẽ can ngăn không cho hai nhóm đánh nhau. Trong lúc can ngăn Giang C lấy từ trong người ra một vật, Giang C khai là súng pháo dọa nếu hai nhóm đánh nhau thì Giang C sẽ tự bắn vào đầu mình. Phạm Thanh H tiếp tục cự cãi với D và sử dụng súng bắn trúng vào chân của D gây thương tích. Lúc này, Giang C dùng súng pháo bắn chỉ thiên ba phát tạo thành tiếng nổ lớn làm cả hai nhóm tản ra. Người dân đi trên đường và nhân viên bảo vệ Ủy ban huyện khi nghe tiếng nổ lớn phát ra từ đám đông thì rất hoảng sợ. Nhóm của L bỏ đi về hướng sân đal tiếp giáp Tòa án huyện. D la lớn kêu nhóm đi trên xe ô tô rượt chém nhóm của L. Khi nghe tiếng hô của D thì KT, TH, XH, HT, TN, SN, Hi cùng với Ki, N cầm hung khí rượt đuổi nhóm của L chạy ngược về hướng sân đal tiếp giáp với Tòa án huyện. Những người còn lại trong nhóm của S và nhóm đi trên xe ô tô cũng rượt đuổi và di chuyển theo nhóm cầm hung khí tạo thành một đám đông gây náo loạn cả khu vực này. Trên đường bỏ chạy, T, H liên tục đưa súng và vật có hình dạng khẩu súng về phía nhóm truy đuổi nhằm mục đích hù dọa. TĐ điều khiển xe ô tô ra đường Gò Tháp phía trước Ủy ban nhân dân Huyện đậu đợi rước những đồng bọn đi chung.
Lúc bị rượt đuổi, K không bỏ chạy mà đến định lấy xe điều khiển đi thì bị D, G, Tuấn C đánh nằm bất tỉnh tại sân đal. Q điều khiển xe chở T, H và P bỏ chạy qua cầu Huyện ủy, về trốn tại nhà của Dương Văn VE ở khóm 2, thị trấn MA, huyện TM, Đồng Tháp; L bỏ chạy đến trốn tại nhà của bà Nguyễn Thu HA ở khóm 3, thị trấn MA, huyện TM và nhờ bà HA điện thoại báo Công an. Khi không đuổi kịp nhóm của L, những người cầm hung khí rượt đuổi quay lại sân đal. TH nhìn thấy D và những người khác đang đánh K nên cầm dao tự chế chém vào chân của K, D kêu những người trong nhóm mình đưa dao tự chế để chém K nhưng không ai đưa. S, Ki vào can ngăn và kè K đến nằm cạnh hàng rào của Ủy ban Huyện. Sau đó, tất cả người trong nhóm của S và nhóm đi trên xe ô tô di chuyển bỏ chạy thành nhiều hướng để rời khỏi hiện trường vì sợ lực lượng Công an đến phát hiện. S và Ki nhặt hung khí ở hiện trường đem về ném bỏ gần khu vực quán của bà Năm Ốc. Tuấn C điều khiển xe chở G về quán bà Năm Ốc. G nhặt lấy con dao mèo dùng để chém L được S và Ki đem về cất dao tại mái nhà phía dưới mé sông cặp quán bà Năm Ốc rồi cả hai đi đến nhà trọ Huỳnh Anh thuộc xã Mỹ Đông, huyện Tháp Mười thuê phòng ngủ.
Diễn biến hành vi phạm tội của các bị cáo đã được camera an ninh lắp đặt ở khu vực hành chính, dân cư huyện ghi lại rất chi tiết. Hành vi tập trung thành đám đông, cự cãi, đánh nhau gây thương tích, bắn súng tạo tiếng nổ lớn, bắn súng gây thương tích cho nhau của các bị cáo G, Tuấn C và những người khác trong vụ án diễn ra trong thời gian các cấp, các ngành và người dân nghiêm chỉnh chấp hành Chỉ thị số 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phòng chống dịch bệnh Covid 19. Sự việc gây rối, gây thương tích của các bị cáo diễn ra trong thời gian trên 10 phút, gây náo loạn cả khu vực công cộng hàng ngày người dân tụ tập rất đông để tập thể dục, vui chơi; ở phía trước trụ sở Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân huyện Tháp Mười, gây bất bình trong dư luận, gây hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân, tạo dư luận xấu, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Ngày 04/4/2020, Ủy ban nhân dân thị trấn Mỹ An, huyện Tháp Mười có công văn kiến nghị khởi tố, xử lý hành vi gây rối trật tự công cộng của các đối tượng có tham gia.
Ngày 20/8/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tháp Mười ra quyết định khởi tố bị can Nguyễn Tấn G về tội “Gây rối trật tự công cộng” và tội “Cố ý gây thương tích”. Khởi tố bị can Nguyễn Tuấn C về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Sau khi bị khởi tố, G khai sống ở nhà trọ tại phường Bình Trị Đông A, quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh nhưng không đăng ký tạm trú. Đến ngày 03/12/2020, G bị bắt theo Quyết định truy nã bị can tại phường Hội Nghĩa, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Tuấn C khai đến làm thuê tại chợ đầu mối Bình Điền thuộc khu phố 6, phường 7, quận 8, thành phố Hồ Chí Minh. Đến ngày 15/12/2020 ,Tuấn C ra đầu thú tại Công an xã Mỹ Đông, huyện Tháp Mười, Đồng Tháp. Trong khoảng thời gian bỏ trốn, G, Tuấn C khai không phạm tội mới.
Tại Bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 113/TgT ngày 09/4/2020 của Trung tâm Pháp y tỉnh Đồng Tháp kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể của Huỳnh Minh L do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 18%.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 114/TgT ngày 09/4/2020 của Trung tâm Pháp y tỉnh Đồng Tháp kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể của Đoàn Quang K do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 03%. Đoàn Quang K không yêu cầu xử lý hình sự đối với người đánh gây thương tích cho mình.
Về vật chứng: Đối với con dao loại dao mèo cán gỗ màu đen, lưỡi dao màu đen dài khoảng 45cm, G khai cất giấu tại mái nhà đối diện quán của bà Năm Ốc, Cơ quan điều tra đã truy tìm nhưng không thấy.
Về trách nhiệm dân sự: Đoàn Quang K không yêu cầu người gây thương tích cho mình phải bồi thường. Huỳnh Minh L đã nhận tiền bồi thường của Dương Gia Ki số tiền là 4.000.000 đồng. Hiện nay, L không yêu cầu bồi thường gì thêm.
Đối với Ngô Văn Ngọc S, Đỗ Trung T, Huỳnh Minh L, Phạm Thanh H, Nguyễn Vũ Li, Đoàn Quang K, Nguyễn TH, Đặng Nguyễn SN, Lê KT, Lê Trung Hi, Huỳnh Lê TN, Mai XH, Nguyễn HT, Lê Triều V, Nguyễn Đinh N, Nguyễn Giang C, Nguyễn Tuấn P, Huỳnh Văn Q, Đỗ TĐ, Lê VL, Nguyễn Nhựt L, Dương Gia Ki, Trần Phú M, Phạm Ngọc TA đã bị xử lý bằng Bản án số 59/2020/HS-ST ngày 03/12/2020 và Bản án số 62/2020/HS-ST ngày 31/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp.
Tại Bản Cáo trạng số 08/CT-VKSTM ngày 08 tháng 02 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tháp Mười, đã truy tố bị cáo Nguyễn Tấn G về tội “Cố ý gây thương tích” và tội“Gây rối trật tự công cộng” theo điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b khoản 2 Điều 318 của Bộ luật hình sự; truy tố bị cáo Nguyễn Tuấn C về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo điểm b khoản 2 Điều 318 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa sơ thẩm:
- Vị đại diện Viện kiểm sát huyện Tháp Mười thực hiện quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố và phát biểu quan điểm luận tội, đã đưa ra những chứng cứ, lý lẽ kết tội đối với các bị cáo. Sau khi phân tích hành vi phạm tội, căn cứ nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:
+ Về tội danh:
Căn cứ điểm b Khoản 2 Điều 318, điểm đ Khoản 2 Điều 134 BLHS đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Tấn G phạm tội gây rối trật tự công cộng và tội Cố ý gây thương tích.
Căn cứ điểm b Khoản 2 Điều 318 BLHS đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Tuấn C phạm tội gây rối trật tự công cộng.
+ Về hình phạt:
- Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17 Bộ luật Hình sự, Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Nguyễn Tấn G từ 2 năm 6 tháng đến 3 năm tù.
- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự, điểm s khoản 1, Điều 51, Điều 17 Bộ luật Hình sự, Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Nguyễn Tấn G từ 2 năm 6 tháng đến 3 năm tù.
Áp dụng Điều 55 Bộ luật Hình sự tổng hợp hình phạt, tổng hình phạt từ 5 năm đến 6 năm tù.
- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17 Bộ luật Hình sự, Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Nguyễn Tuấn C từ 2 năm đến 2 năm 6 tháng tù.
+ Về hình phạt bổ sung: Không.
+ Về vật chứng và trách nhiệm dân sự đã giải quyết xong.
Lời khai của bị cáo, người bị hại, người làm chứng tại phiên tòa:
- Bị cáo G khai: Bị cáo biết việc S hẹn gặp L giải quyết mâu thuẫn vào tối 01/4/2020. Khoảng 19 giờ ngày 01/4/2020, G điều khiển xe một mình từ nhà đến quán của bà Trương Thị GU (tên thường gọi Năm Ốc) ở khóm 2, thị trấn MA, huyện TM, Đồng Tháp. Khi G và C đến quán bà Năm Ốc đã có mặt Cổ Tiến D, Lê Triều V, Trần Phú M, Phạm Gia B, Nguyễn Nhựt L, Võ Thành U và bị cáo Tuấn C là bạn ngoài xã hội của S và nhóm của Nguyễn Vũ Li gồm 10 người từ Trường Xuân ra. Tại đây, S kể lại việc mâu thuẫn với L cho mọi người cùng nghe và thông báo nhóm của L hẹn ra khu vực Công viên trước cửa Ủy ban nhân dân huyện Tháp Mười để gặp mặt.
Sau đó, bị cáo G đi lấy con dao loại dao mèo cán gỗ màu đen, lưỡi dao màu đen dài khoảng 45cm trước đó G cất giấu ở mái nhà phía dưới mé sông cặp quán bà Năm Ốc rồi lên xe do Tuấn C điều khiển chạy theo sau S qua điểm hẹn. Khi đến sân đal trước cửa UBND huyện Tháp Mười, G thấy Ki, M đang rượt đuổi đánh L nên G xuống xe, đuổi theo cùng Ki, M, rượt đánh L. G cầm dao tự chế đuổi theo, dùng bề bằng (bề sống) của dao chém vào lưng của L một cái rồi K đuổi theo dùng nón bảo hiểm đánh vào người bị cáo làm rơi dao tự chế, K nắm cổ áo bị cáo thì bị cáo đánh trả bằng tay. Khi thấy bị cáo bị đánh, Tuấn C vào can ngăn.
Sự việc xảy ra bị cáo đi làm thuê xa nên không biết bị truy nã, sau đó bị cáo bị bắt và biết lỗi của mình đã phạm tội xin giãm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
- Bị cáo Tuấn C khai: Tối ngày 01/4/2020, bị cáo chở bị cáo G đi đến trước cửa Ủy ban nhân dân Huyện, bị cáo thừa nhận có tham gia cùng với nhóm của S đánh nhau trước cửa Ủy ban nhân dân Huyện. Trong lúc hai nhóm đánh nhau di chuyển theo tạo thành một đám đông, di chuyển làm náo loạn cả khu vực này. Việc bị cáo chở G đến với mục đích để giúp nhóm của S nhưng thấy K nắm cổ G nên bị cáo can ra chứ không có tham gia đánh hay rượt đuổi nhưng nay bị cáo biết việc làm của bị cáo là vi phạm pháp luật, biết biết lỗi xin giãm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
- Người bị hại Huỳnh Minh L khai: Ngày 01/4/2020 xảy ra vụ án gây rối trật tự công cộng tại trước trụ sở Ủy ban huyện Tháp Mười, anh có bị thương tích đã được giám định tỉ lệ thương tật nhưng do nhiều ngưới đánh nên anh không nhớ chính xác. Hiện nay sức khỏe đã ổn và có nhận tiền bồi thường của Ki rồi, nên anh không yêu cầu bị cáo G bồi thường và xin giãm nhẹ cho bị cáo G vì bị cáo G đã biết lỗi.
- Người làm chứng Ngô Văn Ngọc S khai: Khoảng 19 giờ ngày 01/4/2020, bị cáo đi cùng với bị cáo Ki bằng xe mô tô biển kiểm soát 66M1-514.45 đến quán của bà GU (Năm Ốc), tại quán có mặt Ba Bể, Cảnh Bóng Tối, Dũ Hí và nhóm của bị cáo Vũ Li (nhóm Trường Xuân) có khoảng 8, 9 người đi bằng xe ô tô đến. Sau đó bị cáo hẹn với bị cáo T qua trước cửa UBND huyện Tháp Mười, trước khi đi bị cáo mang theo một con dao bấm. Tại quán, bị cáo có nói với nhóm Trường Xuân là có hẹn với nhóm của bị cáo L giải quyết mâu thuẫn tại trước cửa UBND Huyện. Khi đến UBND Huyện nhóm của bị cáo L gồm có các bị cáo L, T, H, Q, P (Bi), K, TA; nhóm của bị cáo gồm bị cáo và các bị cáo K, D, L, M, N và B. Khi đó, bị cáo lấy dao bấm rủ bị cáo T đánh, nhưng bị cáo T không đồng ý. Bị cáo thấy bị cáo Ki đạp bị cáo L, rồi bị cáo L bỏ chạy, bị cáo G đuổi theo bị cáo L. Sau đó, hai nhóm không đánh nhau nữa mà tiếp tục cự cãi, bị cáo thấy bị cáo T, bị cáo H đã rút súng, tại hiện trường vụ án bị cáo thấy bị cáo T cầm súng màu trắng, bị cáo H cầm súng màu đen, bị cáo Nguyễn Giang C cầm súng màu trắng; cầm dao thì có bị cáo, bị cáo TH, bị cáo TN và một số người nữa nhưng bị cáo không nhớ chính xác. Bị cáo không rủ rê các bị cáo khác đi giải quyết mâu thuẫn với bị cáo L, mà do các bị cáo khác tự đi theo giúp bị cáo để giải quyết sự hiểu lầm của bị cáo và bị cáo L. Khi đến hiện trường rất nhiều người và thấy Ki, M đánh L và có G rượt đuổi L có cầm dao, vì đứng xa nên không thấy chém nhưng L và K ngày 01/4/2020 có thương tích.
- Người làm chứng Đoàn Quang K khai: Vào khoảng 7 giờ tối ngày 01/4/2020, anh có mặt tại trước cổng Ủy ban huyện Tháp Mười cùng với một số anh em đi chung như T, P, Q, H, TA, L và có thấy L bị G chém nên anh có can ra và bị G đánh bằng tay. Sự việc xảy ra cũng đã được Tòa án xét xử và anh đang chấp hành án.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tháp Mười, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tháp Mười, Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân huyện Tháp Mười trong quá trình điều tra, truy tố, chuẩn bị xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định của pháp luật.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo G, bị cáo Tuấn C thừa nhận bị cáo và các đồng phạm là Ngô Văn Ngọc S, Dương Gia Ki, Đỗ Trung T, Huỳnh Minh L, Phạm Thanh H, Nguyễn Vũ Li, Trần Phú M, Đoàn Quang K, Nguyễn TH, Đặng Nguyễn SN, Lê KT, Lê Trung Hi, Huỳnh Lê TN, Mai XH, Nguyễn HT, Lê Triều V, Nguyễn Đinh N, Nguyễn Giang C, Nguyễn Tuấn P, Huỳnh Văn Q, Đỗ TĐ, Lê VL, Nguyễn Nhựt L, Phạm Ngọc TA (đã bị xử lý tại Bản án số 59/2020/HS-ST ngày 03/12/2020 và Bản án số 62/2020/HS-ST ngày 31/12/2020) và Cổ Tiến D (đang bị truy nã) đã có hành vi tụ tập thành nhóm đông (28 người) để giải quyết mâu thuẫn giữa hai nhóm, gây mất trật tự công cộng vào đêm ngày 01/4/2020, tại khóm 3, thị trấn Mỹ An, huyện Tháp Mười (trước cửa Ủy ban nhân dân huyện Tháp Mười). Đây là thời điểm Thủ tướng Chính phủ có Chỉ thị số 16/CT-TTg, về việc thực hiện các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch Covid – 19, trong đó yêu cầu mọi người dân ở tại nhà, chỉ ra ngoài trong trường hợp thật sự cần thiết, thực hiện nghiêm việc giữ khoảng cách tối thiểu 2m khi giao tiếp; không tập trung quá 2 người ngoài phạm vi công sở, trường học, bệnh viện và tại nơi công cộng. Nhưng bị cáo và các đối tượng khác lại tụ tập nhiều người tại trước cửa Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân huyện Tháp Mười và có hành vi cự cãi lớn tiếng, di chuyển qua nhiều khu vực ở hai sân đal phía trước Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân huyện Tháp Mười và các con đường trong khuôn viên khu vực này, cầm hung khí rượt đuổi đánh nhau, dùng súng bắn tạo tiếng nổ lớn và gây thương tích cho nhau, gây mất trật tự công cộng, ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Trong lúc gây rối, bị cáo G đã cùng với đồng phạm là Dương Gia Ki, Trần Phú M dùng hung khí nguy hiểm gây thương tích cho Huỳnh Minh L với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 18%. Hành vi của bị cáo G, bị cáo Tuấn C đã cấu thành tội “Gây rối trật tự công cộng”; hành vi của bị cáo G còn cấu thành tội “Cố ý gây thương tích”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b khoản 2 Điều 318 của Bộ luật hình sự.
Xét lời khai của các bị cáo phù hợp với nội dung Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai của người bị hại, người làm chứng, vật chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
[3] Do đó, Viện kiểm sát huyện Tháp Mười truy tố bị cáo G về tội “Cố ý gây thương tích” và tội “Gây rối trật tự công cộng” theo điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b khoản 2 Điều 318 và truy tố bị cáo Tuấn C về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo điểm b khoản 2 Điều 318 của Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Tội phạm và hình phạt được quy định như sau: Điều 134 của Bộ luật hình sự quy định:
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc 01 trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;
...............
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm:
a)................
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.” Điều 318 của Bộ luật hình sự quy định “1. Người nào gây rối trật tự công cộng gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
2. Phạm tội thuộc 01 trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
……….
b) Dùng vũ khí, hung khí hoặc có hành vi phá phách;”
[4] Xét các bị cáo là người đã thành niên, nhận thức được hành vi gây rối trật tự công cộng là vi phạm pháp luật. Lẽ ra, ở độ tuổi thành niên có sức khỏe, có cuộc sống gia đình ổn định, hai bị cáo phải chí thú làm ăn để tạo ra thu nhập lo cho bản thân, giúp ích cho gia đình và xã hội, nhưng ở đây các bị cáo lại tụ tập tham gia từng nhóm để thể hiện tính khí đàn anh, xem thường pháp luật để giải quyết mâu thuẫn. Do đó, cần có một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo.
[5] Hành vi của các bị cáo thực hiện với lỗi cố ý, chẳng những xâm phạm đến thân thể, sức khỏe của người khác mà còn xâm phạm trực tiếp đến trật tự chung, vi phạm nếp sống văn minh, quy tắc của cuộc sống xã hội, ảnh hưởng đến hoạt động bình thường ở những nơi công cộng.
[6] Do đó, việc đưa các bị cáo ra xét xử tại phiên tòa hôm nay là cần thiết, cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn cách ly các bị cáo một thời gian, để các bị cáo có điều kiện học tập, cải tạo trở thành công dân tốt và sống có ích cho xã hội.
[7] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[8] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Riêng bị cáo C được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ “Bị cáo đầu thú” và bị hại L xin giãm nhẹ tội cố ý gây thương tích chi bị cáo G nên 2 bị cáo được hưởng thêm tình tiết quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
[9] Về hình phạt bổ sung: Không.
[10] Về trách nhiệm dân sự: Anh Đoàn Quang K không yêu cầu người gây thương tích cho mình phải bồi thường. Anh Huỳnh Minh L đã nhận tiền bồi thường của anh Dương Gia Ki số tiền là 4.000.000 đồng. Tại phiên tòa, anh L không yêu cầu bồi thường gì thêm, nên không xem xét.
[11] Đối với Ngô Văn Ngọc S, Đỗ Trung T, Huỳnh Minh L, Phạm Thanh H, Nguyễn Vũ Li, Đoàn Quang K, Nguyễn TH, Đặng Nguyễn SN, Lê KT, Lê Trung Hi, Huỳnh Lê TN, Mai XH, Nguyễn HT, Lê Triều V, Nguyễn Đinh N, Nguyễn Giang C, Nguyễn Tuấn P, Huỳnh Văn Q, Đỗ TĐ, Lê VL, Nguyễn Nhựt L, Dương Gia Ki, Trần Phú M, Phạm Ngọc TA đã bị xử lý bằng Bản án số 59/2020/HS-ST ngày 03/12/2020, vật chứng được thu giữ trong vụ án cũng đã được xử lý trong Bản án này và Bản án số 62/2020/HS-ST ngày 31/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[12] Hai bị cáo có quyền kháng cáo bản án và phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1/- Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Tấn G phạm tội “Cố ý gây thương tích” và tội “Gây rối trật tự công cộng”; tuyên bố bị cáo Nguyễn Tuấn C “Gây rối trật tự công cộng”.
2/- Xử phạt:
- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17 của Bộ luật hình sự, xử phạt: Bị cáo Nguyễn Tấn G 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù, về tội “Gây rối trật tự công cộng”.
- Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17 của Bộ luật hình sự, xử phạt: Bị cáo Nguyễn Tấn G 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù, về tội “Cố ý gây thương tích”.
Căn cứ khoản 1 Điều 55 của Bộ luật hình sự: Tổng hợp hình phạt tù của hai tội buộc bị cáo Nguyễn Tấn G phải chấp hành là 05 (Năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/12/2020.
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17 của Bộ luật hình sự, xử phạt: Bị cáo Nguyễn Tuấn C 02 (Hai) năm tù. Thời hạn từ tính từ ngày tạm giữ ngày 15/12/2020.
- Không phạt bổ sung bị cáo G và bị cáo C.
3/- Về án phí: Căn cứ Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Nguyễn Tấn G, bị cáo Nguyễn Tuấn C: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
4/- Về quyền kháng cáo: Hai bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án tỉnh Đồng Tháp trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!