Bản án số 19/2024/LĐ-ST ngày 05/08/2024 của TAND TX. Bến Cát, tỉnh Bình Dương về yêu cầu tuyên bố hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể vô hiệu

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 19/2024/LĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 19/2024/LĐ-ST ngày 05/08/2024 của TAND TX. Bến Cát, tỉnh Bình Dương về yêu cầu tuyên bố hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể vô hiệu
Quan hệ pháp luật: Yêu cầu tuyên bố hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể vô hiệu
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TX. Bến Cát (TAND tỉnh Bình Dương)
Số hiệu: 19/2024/LĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 05/08/2024
Lĩnh vực: Lao động
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Căn cứ các Điều 5, 32, 35, 39, 147, 228, 229, 238, 244, 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ Điều 136 và Điều 142 Bộ luật Dân sự năm 1995; Căn cứ Điều 9 Bộ luật Lao động năm 1994; Điều 50 và Điều 190 Bộ luật Lao động năm 2019; Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. 1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị N đối với Công ty TNHH R về việc tranh chấp yêu cầu tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu. Tuyên bố hợp đồng lao động giữa bà Trần Thị N và Công ty TNHH R (thời gian làm việc từ tháng 6/2005 đến tháng 02/2006) vô hiệu. 2. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu buộc Bảo hiểm xã hội tỉnh Bình Dương thoái thu thời gian đóng bảo hiểm xã hội của bà Trần Thị N tại Công ty TNHH R từ tháng 8/2003 đến tháng 02/2006 cho bà Trần Thị N. 3. Án phí lao động sơ thẩm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ BẾN CÁT
TỈNH BÌNH DƯƠNG
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 19/2024/LĐ-ST
Ngày: 05-8-2024
V/v tranh chấp về yêu cầu tuyên bố hợp
đồng lao động vô hiệu
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẾN CÁT
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ ta phiên tòa: Nguyễn Kiều Oanh.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Bà Nguyễn Thị Thắm Nguyên Chủ tịch Công đoàn cơ sở của Trung tâm
Y tế thành phố Bến Cát, tỉnh Bình Dương;
2. Bà Nguyễn Kim Lý - Nguyên Chủ tịch Công đoàn cơ sở của Ủy ban nhân
dân phường Mỹ Phước, thành phố Bến Cát, tỉnh Bình Dương.
- Thư phiên tòa: Nguyễn Thu Phương - Thư Tòa án nhân dân
thành phố Bến Cát, tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Bến Cát tham gia phiên
tòa: Bà Nguyễn Thị Thuỷ - Kiểm sát viên.
Ngày 05 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Bến Cát,
tỉnh Bình Dương xét xử thẩm công khai vụ án lao động thụ số
34/2024/TLST- ngày 22 tháng 5 năm 2024 về việc: “Tranh chấp về yêu cầu
tuyên bố hợp đồng lao động hiệutheo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:
157/2024/QĐXXST- ngày 22 tháng 7 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Trần Thị N, sinh năm 1982; địa chỉ: Số B, khu phố HL,
phường TG, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt đơn đề nghị xét
xử vắng mặt.
- Bị đơn: Công ty TNHH R; địa chỉ: Khu phố X, phường TĐ, thành phố Bến
Cát, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp: Nguyễn Thị Cẩm T, sinh năm 1985 Chức
vụ: Nhân viên nhân sự. đại diện theo uỷ quyền theo Giấy uỷ quyền ngày
09/01/2024. Vắng mặt có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bảo hiểm xã hội thành phố B, tỉnh
Bình Dương; địa chỉ: Khu phố X, phường MP, thành phố Bến Cát, tỉnh Bình
Dương.
Người đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Huỳnh B, sinh năm 1991 Chức
vụ: Chuyên viên. đại diện theo uỷ quyền theo Giấy u quyền số 15/GUQ-
BHXH ngày 15/7/2024. Vắng mặt có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại Đơn khởi kiện đề ngày 07/5/2024 quá trình giải quyết vụ án nguyên
đơn Trần Thị N trình bày:
N làm công nhân tại nhiều Công ty bắt đầu tham gia đóng bảo hiểm
hội từ năm 2005 cho đến nay. Cụ thể: Từ năm 2001 đến tháng 11/2003, bà N
làm tại Công ty gốm sML thuộc thành phố Thuận An; sau đó bà N đi làm
công nhân tại Công ty điện tử phường , thị (nay thành phố) Bến Cát
được 02 tháng thì nghỉ việc; đến tháng 6/2005, N m công nhân tại Công ty
TNHH F (địa chỉ: Số X9, đường số X6, khu công nghiệp V-S, phường BH, thành
phố Thuận An, tỉnh Bình Dương); đến tháng 10/2009, N nghỉ việc. Đến tháng
02/2010, bà N quay lại Công ty TNHH F làm cho đến nay.
Năm 2021, dịch Covid bùng phát, nnước chính sách hỗ trợ cho công
nhân theo mức đóng bảo hiểm xã hội theo Chỉ thị 116 thì Công ty TNHH F có báo
với N thông tin đóng bảo hiểm xã hội của N bị trùng. Tuy nhiên, do dịch
bệnh, N không điều kiện đi lại để làm thủ tục. Năm 2022, sau khi hết dịch
Covid, N mới đến Công ty TNHH F nhờ giải quyết hồ trùng bảo hiểm tại
Công ty TNHH R và ng ty TNHH F, thời gian bị trùng từ tháng 6/2005 đến
tháng 02/2006 thì Công ty giao cho N Phiếu yêu cầu bổ sung, hoàn thiện hồ
số 169897.07407/2022/HDHS ngày 05/9/2022 của Bảo hiểm hội tỉnh Bình
Dương.
Trước đây, bà N cho ai mượn chứng minh nhân dân hay hồ sơ nhân
của mình tN không nhớ. Nhưng N từng làm mất giấy tờ tuỳ thân. N
xác định chưa từng ký hợp đồng lao động, làm việc, hay ký bất cứ giấy tờ để tại
Công ty TNHH R tham gia bảo hiểm hội cho bà. Việc người khác sử dụng
chứng minh của N để tham gia bảo hiểm dẫn đến trùng lặp thời gian đóng bảo
hiểm, ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của bà. N xác định không biết
người đã lấy thông tin của bà để đóng bảo hiểm là ai, nhằm mục đích gì.
Do đó, nay nguyên đơn yêu cầu Tòa án tuyên hợp đồng lao động giữa
Trần Thị N Công ty TNHH R (thời gian làm việc từ tháng 6/2005 đến tháng
02/2006) hiệu. N không yêu cầu Tòa án giải quyết hậu qucủa hợp đồng
vô hiệu.
Đối với yêu cầu buộc Bảo hiểm hội tỉnh Bình Dương thoái thu thời gian
đóng bảo hiểm xã hội của bà Trần Thị N tại Công ty TNHH R từ tháng 8/2003 đến
tháng 02/2006 cho N. N xin rút yêu cầu này, không yêu cầu Tòa án giải
quyết.
Quá trình tham gia tố tụng, N xác định việc người khác giả mạo hồ
của bà N để làm việc tại Công ty TNHH R ngoài ý muốn của Công ty. Do đó,
bà N tự nguyện chịu toàn bộ án phí lao động sơ thẩm.
Tại Đơn trình bày ý kiến ngày 02/7/2024, lời khai trong quá trình tố tụng,
người đại diện hợp pháp của bị đơn trình bày:
Công ty đã kiểm tra trên phần mền excel thì thấy N làm việc tại Công
ty TNHH R tham gia bảo hiểm hội với sổ 9103070xxx từ tháng 8/2003
3
đến tháng 02/2006. Sổ BHXH số 9103070xxx của N, số CMND: 290783xxx;
địa chỉ: huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh. Công ty đã chuyển trả cho
quan Bảo hiểm xã hội tỉnh Bình Dương vào năm 2011 do người lao đồng nghỉ việc
sau 12 tháng nhưng không đến công ty nhận sổ. N nghỉ việc quá lâu, Công ty
TNHH R không tìm thấy hhợp đồng liên quan đến N. Do hợp đồng N
đã chấm dứt từ năm 2006 nên Công ty không còn liên quan, đề nghị Toà án giải
quyết theo quy định. Công ty không có ý kiến gì khác.
- Tại Công văn số 426/CV-BHXH ngày 08/7/2024, người đại diện hợp pháp
của Bảo hiểm xã hội thành phố B trình bày:
Qua đối chiếu dliệu tham gia bảo hiểm hội (BHXH), bảo hiểm y tế
(BHYT), bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) của Công ty TNHH R cho người lao động
thì Công ty TNHH R tham gia đóng BHXH, BHYT, BHTN, BHTNLĐ-BNN với
tên Trần Thị N ttháng 8/2003 đến tháng 02/2006. Tổng số tiền đóng BNHXH
qua các thời kỳ 3.431.600 đồng. N chưa giải quyết chế độ BHXH chưa
hưởng trợ cấp thất nghiệp theo số BNHX: 9103070xxx. Căn cứ vào Báo cáo tình
hình sdụng lao động và danh sách tham gia BHXH, BHYT, BHTN do Công ty
ký số gửi cơ quan BHXH Bến Cát xử lý và ghi nhận quá trình tham gia BHXH của
người lao động, quan BHXH không lưu trữ hồ nhân của người lao đồng,
hồ do công ty lưu trữ. Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đnghị giải
quyết theo quy định của pháp luật, BHXH thành phố Bến Cát không có ý kiến.
Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Bến Cát tham gia
phiên toà:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: T khi th vụ án, chun b xét xử đến
khi tiến hành phn tòa Thẩm pn, Hội đồng t x, các đương sự, đã thực hiện quyền
và nghĩa vđúng quy đnh, kng vi phạm pp lut tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Xét thấy u cầu khởi kiện ca nguyên đơn là căn c, đề
ngh Hội đồng t xử xem t chp nhn. Đình chỉ xét x đối vi yêu cu buộc Bảo
hiểm xã hội tỉnh Bình Dương thoái thu thời gian đóng bảo hiểm xã hội của bà Trần
Thị N tại Công ty TNHH R từ tháng 8/2003 đến tháng 02/2006 cho bà N.
Những yêu cầu, kiến nghị để khắc phục vi phạm tố tụng: Không có.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được xem
xét tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa, Tòa án nhận
định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về quan hệ tranh chấp và xác định tư cách tham gia tố tụng của đương
sự trong vụ án: Nguyên đơn bà N khởi kiện Công ty TNHH R; địa chỉ: Khu phố X,
phường TĐ, thành phố Bến Cát, tỉnh Bình Dương yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp
đồng lao động vô hiệu. Căn cứ khoản 3 Điều 68 BLTTDS Tòa án xác định bđơn
Công ty TNHH R. Quá trình tham gia tố tụng. Toà án xác định quan hệ pháp
luật là: “Tranh chấp hợp đồng lao động bảo hiểm xã hội”. Tuy nhiên, căn cứ
4
vào yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn quá trình làm việc với đương sự, nay
Toà án xác định lại tranh chấp vụ án nêu trên : “Tranh chấp về yêu cầu tuyên bố
hợp đồng lao động hiệu” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân
thành phố Bến Cát theo quy định tại khoản 5 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35,
điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 50 Bộ luật Lao
động năm 2019.
[1.2] Về sự vắng mặt của các đương sự: Nguyên đơn, người đại diện hợp
pháp của bị đơn và người đại diện hợp pháp của người quyền lợi nghĩa vụ liên
quan Bảo hiểm hội thành phố B đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Tòa án
tiến hành xét xử vắng mặt những người nêu trên theo quy định của Điều 227, Điều
228, 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[1.3] Bị đơn trình bày hợp đồng lao động giữa Công ty và bà N đã chấm dứt
từ năm 2006. Căn cứ khoản 3 Điều 190 Bộ luật lao động 2019 quy định “Thời
hiệu yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp lao động nhân là 01 năm kể từ ngày
phát hiện ra hành vi bên tranh chấp cho rằng quyền lợi ích hợp pháp của
mình bị vi phạm”. N xác định từ tháng 9/2022 đi làm thủ tục nhận bảo hiểm xã
hội một lần mới biết về việc người khác giả mạo hồ dẫn đến đóng trùng bảo
hiểm xã hội và ảnh hưởng đến quyền lợi về bảo hiểm xã hội của bà N. Do đó, thời
hiệu giải quyết tranh chấp lao động đã hết. Tuy nhiên, quá trình tham gia tố tụng
c đương sự không yêu cầu áp dụng thời hiệu và để đảm bảo quyền lợi cho người
lao động, Tòa án vẫn tiến hành thụ lý, giải quyết yêu cầu của N về việc tuyên
hợp đồng lao động vô hiệu.
[1.4] Các bên không cung cấp được tài liệu, chứng cứ Hợp đồng lao động
giữa Công ty TNHH R Trần Thị N. Tuy nhiên, Công ty TNHH R thừa nhận
Hợp đồng lao động tham gia bảo hiểm hội cho người lao động
Trần Thị N nhưng thời gian đã lâu nên không còn lưu trữ. Như vậy, thực tế tồn
tại Hợp đồng lao động giữa Công ty TNHH R và người lao động có thông tin Trần
Thị N. Đây là tài liệu, chứng cứ không phải chứng minh theo quy định tại khoản 2
Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Quá trình tham gia bảo hiểm xã hội của người lao động Trần Thị N
như sau:
Trước 06/2005, N làm việc tại nhiều Công ty nhưng không tham gia
BHXH.
số bảo hiểm hội 9103070xxx: từ tháng 8/2003 đến tháng 02/2006 tại
Công ty TNHH R.
số bảo hiểm hội 9105074xxx: từ tháng 6/2005 đến tháng 02/2006 tại
Công ty TNHH F.
[2.2] Căn cứ dữ liệu bảo hiểm hội xác định được nguyên đơn người
lao động tên Trần Thị N, sinh năm 1982 từ tháng 8/2003 đến tháng 02/2006 có quá
trình tham gia bảo hiểm hội ntrên một người. Quá trình tố tụng, nguyên
đơn xác nhận không hợp đồng lao động không làm việc tại Công ty TNHH
5
R (cụ thể trong khoảng thời gian ttháng 8/2003 đến tháng 02/2006). Trình bày
của nguyên đơn phù hợp với kết quả quá trình đóng bảo hiểm hội 8/2003 đến
tháng 02/2006 thể hiện trong thời gian từ tháng 6/2005 đến tháng 02/2006, bà N có
làm việc tại Công ty TNHH F. Đồng thời, N tham gia BHXH tại Công ty
TNHH F bằng số BHXH 9105074xxx, đây cũng số bảo hiểm xã hội
N tham gia liên tục trong suốt quá trình làm việc Công ty TNHH F Công
ty TNHH R từ tháng 6/2005 đến tháng 02/2006. Hiện tại, N đang trực tiếp giữ
sổ bảo hiểm hội số 9105074xxx. Đối với mã số bảo hiểm hội
9103070xxx được tham gia bảo hiểm tại Công ty TNHH R trong khoảng thời gian
từ tháng 8/2003 đến tháng 02/2006, nguyên đơn không biết không giữ sổ bảo
hiểm xã hội này, điều này ng phù hợp với xác nhận của Công ty TNHH R về
việc người lao động tên Nga sau khi nghỉ việc ở Công ty thì không nhận lại sổ bảo
hiểm hội nên đã được Công ty chuyển trả sổ BHXH cho BHXH tỉnh Bình
Dương năm 2011. Ngoài ra, nguyên đơn cũng thừa nhận trước đây N bị mất
chứng minh nhân dân, nhưng không xác định được thời gian mất. Như vậy, xác
định được trong thời gian từ tháng 6/2005 đến tháng 02/2006, N m việc tại
Công ty TNHH F chứ không ký hợp đồng lao động và làm việc tại Công ty TNHH
R.
Việc người khác sử dụng chứng minh nhân dân, thông tin của bà N để giao
kết hợp đồng lao động với Công ty TNHH R hành vi lừa dối về mặt chủ thể khi
xác lập giao dịch dân sự, vi phạm nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, hợp tác, tôn
trọng quyền lợi ích hợp pháp của nhau khi xác lập quan hệ lao động theo quy
định tại Điều 9 Bộ luật Lao động năm 1994. Do đó, việc N yêu cầu tuyên
hiệu hợp đồng lao động giữa bà N (do người khác giả mạo tên) với Công ty TNHH
R là có căn cứ theo quy định tại Điều 136, Điều 142 Bộ luật Dân sự năm 1995.
Quá trình tham gia tố tụng, N xác định không biết người giả mạo hồ
của bà để giao kết, thực hiện hợp đồng lao động với Công ty TNHH R ai, đồng
thời toàn bộ hồ nhân mang tên người lao động Trần Thị N tại Công ty
TNHH R không còn nên Tòa án không thể đưa người này vào tham gia tố tụng với
cách người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nếu tranh chấp sđược giải
quyết trong mt vụ án khác.
Nguyên đơn chỉ yêu cầu tuyên bố hợp đồng lao động hiệu, ngoài ra
không yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, bị đơn và người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu trong vụ án. Đây quyền quyết định
tự định đoạt của đương sự theo quy định tại Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự, do
đó Tòa án không xem xét giải quyết về hậu quả của hợp đồng hiệu. Sau khi
Bản án của Tòa án hiệu lực pháp luật, người lao động có quyền liên hệ cơ quan
Bảo hiểm xã hội để được giải quyết các chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định.
Như vậy, Công ty TNHH R tham gia bảo hiểm xã hội cho người lao động có
tên Trần Thị N từ tháng 6/2005 đến tháng 02/2006. Tuy nhiên, thực tế bà Trần Thị
N chỉ làm việc tại Công ty TNHH F, không làm việc tại Công ty TNHH R. Do đó,
hợp đồng lao động được kết giữa Công ty TNHH R với Trần Thị N
hiệu như những phân tích ở trên.
6
[3] Đối với yêu cầu: “Buộc Bảo hiểm xã hội tỉnh Bình Dương thoái thu thời
gian đóng bảo hiểm hội của Trần Thị N tại Công ty TNHH R từ tháng
8/2003 đến tháng 02/2006 cho N”. N xin rút lại, không yêu cầu Tòa án giải
quyết. Xét đây là sự nguyện của nguyên đơn. Do đó, Hội đồng xét xử đình chỉ xét
xử đối với yêu cầu này theo quy định khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[4] Ý kiến của vị đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa phù hợp nên chấp
nhận.
[5] Từ những phân tích trên, căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn bà N.
[6] Án phí lao động sơ thẩm: Nguyên đơn tự nguyện chịu toàn bộ án phí nên
chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ các Điều 5, 32, 35, 39, 147, 228, 229, 238, 244, 271 và Điều 273 Bộ
luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 136 và Điều 142 Bộ luật Dân sự năm 1995;
Căn cứ Điều 9 Bộ luật Lao động năm 1994; Điều 50 và Điều 190 Bộ luật
Lao động năm 2019;
Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của
Ủy Ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị N đối với
Công ty TNHH R về việc tranh chấp yêu cầu tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu.
Tuyên bố hợp đồng lao động giữa bà Trần Thị N Công ty TNHH R (thời
gian làm việc từ tháng 6/2005 đến tháng 02/2006) vô hiệu.
2. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu buộc Bảo hiểm hội tỉnh nh Dương
thoái thu thời gian đóng bảo hiểm hội của Trần Thị N tại Công ty TNHH R
từ tháng 8/2003 đến tháng 02/2006 cho bà Trần Thị N.
3. Án phí lao động thẩm: Trần Thị N chịu 300.000 (ba trăm nghìn)
đồng.
4. Vquyền kháng cáo: Đương sự vắng mặt quyền kháng cáo bản án
trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án
được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sthì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
7
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Bình Dương;
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- VKSND thành phố Bến Cát;
- Chi cục THADS thành phố Bến Cát;
- Sở tư pháp tỉnh Bình Dương;
- Các đương sự;
- Lưu: HSVA, VT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Kiều Oanh
Tải về
Bản án số 19/2024/LĐ-ST Bản án số 19/2024/LĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 19/2024/LĐ-ST Bản án số 19/2024/LĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất