Bản án số 21/2024/LĐ-ST ngày 30/09/2024 của TAND TP. Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương về tranh chấp về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 21/2024/LĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 21/2024/LĐ-ST ngày 30/09/2024 của TAND TP. Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương về tranh chấp về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Thủ Dầu Một (TAND tỉnh Bình Dương)
Số hiệu: 21/2024/LĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 30/09/2024
Lĩnh vực: Lao động
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: 1. Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂNCỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT Độc lập -Tự do - Hạnh phúc
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 21/2024/LĐ-ST
Ngày: 30/9/2024
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Thanh Bình
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Đặng Minh Lý - Cán bộ hưu trí.
2. Ông Hoàng Minh Tuấn - Chuyên viên Liên đoàn Lao động thành phố Th
Dầu Một.
- Thư Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Ông Hoàng Văn Quyết - Thư ký Tòa
án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một tham gia phiên
tòa: Bà Lê Thị Hoài - Kiểm sát viên.
Ngày 30/9/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình
Dương xét xử thẩm công khai vụ án lao động thụ số 45/2024/TLST- ngày
25 tháng 7 năm 2024 về việc “tranh chấp về Bảo hiểm hội” theo Quyết định đưa
vụ án ra xét xử số: 20/2024/QĐST- LĐ ngày 09/9/2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm: 1971, địa chỉ: ấp L, L,
huyện P, tỉnh An Giang; địa chỉ tạm trú: Tổ H, khu phố B, phường H, thị P, tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu.
2. Bị đơn: Công ty TNHH MTV C (viết tắt Công ty C); địa chỉ: Tầng E, Tòa
nhà B, B Đại lộ B, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương. SĐT: 0274.3803766.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Nguyễn Phan Ngọc H1, sinh m
2001; địa chỉ: Tầng E, Tòa nhà B, B Đại lộ B, phường P, thành phố T, tỉnh Bình
Dương, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn (Giấy ủy quyền số 07 ngày
26/8/2024).
3. Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bảo hiểm hội tỉnh B; địa chỉ: số
A, đường L, Khu phố B, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
2
Người đại diện hợp pháp của Bảo hiểm hội tỉnh B: Ông Nguyễn Thắng L,
sinh năm 1981, địa chỉ: Số A, đường L, Khu phố B, phường H, thành phố T, tỉnh
Bình Dương, chức vụ: Phó Trưởng phòng Thanh tra - Kiểm tra Bảo hiểm hội tỉnh
B, là người đại diện theo ủy quyền của Bảo hiểm xã hội tỉnh B (Giấy ủy quyền ngày
23/9/2024), có đơn vắng mt.
NHẬN THẤY:
- Tại Đơn khởi kiện đề ngày 27/6/2024, nguyên đơn ông Nguyễn Văn H
trình bày:
Ông H làm việc tại Công ty C từ tháng 6/2020. Khi làm việc hợp đồng
lao động được tham gia bảo hiểm hội (BHXH), bảo hiểm thất nghiệp (BHTN)
từ tháng 6/2020 trên mã bảo hiểm xã hội số 0206044401.
Ngày 02/5/2024, ông H chính thức nghỉ việc theo Quyết định chấm dứt hợp
đồng lao động số 10001461-2024/QĐTV-VP. Tuy nhiên, đến nay công ty vẫn chưa
chốt sổ BHXH cho ông H. Theo ghi nhận trên ứng dụng Bảo hiểm hội (VSSID),
công ty đang có thời gian chậm đóng bảo hiểm cho ông H là 04 tháng.
Được biết, theo quy định tại khoản 72 Điều 1 Quyết định số 505/QĐ-BHXH
ngày 27/3/2020 của B: Đối với đơn vị nợ tiền đóng BΗΧΗ, ΒΗΤΝ, BHTNLĐ, BNN
nếu người lao động đủ điều kiện hưởng BHXH hoặc chấm dứt hợp đồng lao động,
hợp đồng làm việc thì đơn vị trách nhiện đóng đủ BHXH, BHTN, BHTNLĐ, BNN
bao gồm cả tiền lãi chậm đóng theo quy định, quan BHXH xác nhận sổ BHXH để
kịp thời giải quyết chế độ BHXH, BHTN cho người lao động". Tại điểm a khoản 3
Điều 16 Nghị định số 115/2015/NĐ-CP ngày 11/11/2015 của Chính phủ quy định:
Đối với trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động tại đơn vị nợ BHXH, thì người lao
động đơn vị sử dụng lao động được đóng BHXH riêng cho trường hợp đó đ
giải quyết quyền lợi BHXH, cũng như chuyển nơi tham gia BHXH khi chấm dứt hợp
đồng lao động". Tuy nhiên, công ty không thực hiện đóng chốt số BHXH cho ông
H theo những quy định trên.
Nhận thấy việc công ty không đóng BHXH, BHTN, không hoàn thành thủ tục
xác nhận thời gian đóng BHXH, BHTN cho ông H vi phạm quy định tại Điều 17
Luật Bảo hiểm hội năm 2014 về các hành vi bị nghiêm cấm, vi phạm điểm a,
khoản 3 Điều 48 Bộ luật Lao động năm 2019 về trách nhiệm khi chấm dứt hợp đồng
lao động.
Do đó, ông H khởi kiện Công ty C, yêu cầu Toà án nhân dân thành phố Thủ
Dầu Một buộc Công ty C đóng đủ BHXH, BHTN (t tháng 01/2024 đến tháng
04/2024) cho ông H hoàn thành thủ tục xác nhận thời gian đóng BHXH, BHTN
cho ông H.
Nguyên đơn giao nộp các tài liệu, chứng cứ sau: Sổ Bảo hiểm hội + Tờ rời
quá trình đóng bảo hiểm xã hội của ông H (bản photo chứng thực); Quyết định chấm
3
dứt hợp đồng lao động ngày 10001461-2024/QĐTV-VFP ngày 02/5/2024 của Công
ty C (bản chứng thực); CCCD của ông H (bản chứng thực) Đơn đề nghị xét xử
vắng mặt của ông H (bản chính).
- Tại Bản tự khai trình bày ý kiến ngày 30/8/2024, đại diện bị đơn bà
Nguyễn Phan Ngọc H1 trình bày:
Công ty C mã số thuế 3702813604, địa chỉ tại Tầng E, Tòa nhà B, B Đại lộ
B, phường P, TP ., tỉnh Bình Dương, hoạt động với ngành nghề chính là giết mổ gia
cầm. Ông Nguyễn Văn H làm việc tại Công ty C từ ngày 08/6/2020 đến ngày
02/5/2024 thông qua các Hợp đồng lao động ngày 08/6/2020, ngày 09/6/2021 và
ngày 10/6/2023 với chức danh công nhân sản xuất.
Sau khi nhận được đơn xin nghỉ việc của ông H, Công ty C đã ban hành Quyết
định số 10001461-2024/QĐTV-VFP ngày 02/5/2024 về việc chấm dứt hợp đồng lao
động với ông H. Tuy nhiên, tháng 4/2024, ông H xin nghỉ không lương nên Công ty
C không đóng bảo hiểm tháng này cho ông H. Như vậy, thời gian tham gia BHXH
khi làm việc tại Công ty C của ông H từ tháng 6/2020 - tháng 3/2024.
Về nghĩa vụ đóng bảo BHXH, bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), bảo hiểm y tế,
("BHYT”) và bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp (BHTNLD&BNN"), theo
bảng chi tiết kết quả đóng BHXH, BHYT, BHTN, BHTNLĐ&BNN ngày 01/8/2024
của Bảo hiểm hội tỉnh B xác nhận, Công ty C đã đóng bảo hiểm hội đến tháng
11/2023, đã đóng bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn lao động
bệnh nghề nghiệp đến tháng 02/2024. Như vậy, Công ty C chưa đóng tiền BHXH cho
ông H từ tháng 12/2023 đến tháng 03/2024 với số tiền là 8.442.487 đồng.
do Công ty C chậm đóng tiền BHXH cho người lao động đối với thời gian
nêu trên là do Công ty C gặp nhiều khó khăn trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh
doanh dẫn đến thua lỗ kéo dài. Sau khoảng thời gian dài tìm cách khắc phục để hồi
phục sản xuất như giảm quy mô, công suất giết mổ, cắt giảm nhân sự.... nhưng tình
hình vẫn không khả quan. Cho đến cuối tháng 5/2024, Công ty C đã chính thức đóng
cửa nhà máy G tại tỉnh Rịa - ng Tàu, ngừng toàn bộ hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp đang chờ thực hiện thủ tục giải thể hoặc phá sản doanh nghiệp.
Công ty C đang cố gắng sắp xếp thanh toán các nghĩa vụ tài chính cho người lao
động, các quan Nhà nước và nhà cung cấp. Tuy nhiên, ngưng hoạt động kinh
doanh nên Công ty C hiện tại không có doanh thu, dòng tiền để thanh toán các khoản
nợ.
Theo quy định của C1, Công ty C không được đóng tiền BHXH cho quan
bảo hiểm hội đối với từng nhân nghỉ việc mà phải đóng tiền BHXH đối với
toàn bộ người lao động làm việc tại công ty. Tính đến tháng 7/2024, tổng số tiền
Công ty C chưa đóng cho quan Bảo hiểm hội 910.767.562 đồng. Số tiền này
quá lớn so với tình hình tài chính hiện tại của công ty nên Công ty C không thể ngay
4
lập tức hoàn thành nghĩa vụ đóng tiền BHXH cho quan bảo hiểm đối với người
lao động.
vậy, đối với yêu cầu khởi kiện của ông H, Công ty C ý kiến như sau:
Công ty C đã đóng BHTN, BHYT, BHTNLĐ&BNN đến tháng 02/2024 nên Công ty
C xác nhận chỉ còn chưa đóng BHXH cho ông H từ tháng 12/2023 đến tháng 3/2024,
chưa đóng BHTN, BHYT, BHTNLĐ&BNN tháng 3/2024 với số tiền là 8.422.487
đồng. Công ty C sẽ cố gắng sắp xếp để hoàn thành nghĩa vụ sớm cho ông H trong
thời gian tới. Sau khi thanh toán hoàn tất tiền BHXH, Công ty C sẽ tiến hành thủ tục
xác nhận thời gian đóng BHXH, BHTN bàn giao tờ rời cho ông H theo đúng quy
định của pháp luật.
Bị đơn giao nộp các tài liệu, chứng cứ sau: Giấy ủy quyền số 07 ngày
26/8/2024 của Công ty C cho H1 (bản chính); Giấy chứng nhận đăng doanh
nghiệp của Công ty C (bản công chứng); Chi tiết kết quả đóng bảo hiểm hội,
BHYT, BHTN, BHTNLĐ, BNN tháng 7/2024 ngày 01/8/2024 của Bảo hiểm hội
tỉnh đối với công ty C (bản scan);Hợp đồng lao động ngày 08/6/2020, ngày
09/6/2021 ngày 10/6/2023 giữa Công ty C ông H; Đơn đnghị xét xử vắng
mặt ngày 30/8/2024 của H1 (bản chính)
- Tại Công văn số 1999/BHXH-TST ngày 18/9/2024, người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan Bảo hiểm xã hội tỉnh B trình bày:
Sau khi soát dliệu quản , BHXH tỉnh B trả lời như sau: Ông Nguyễn
Văn H, sinh ngày: 01/01/1971, số CCCD 0890710580, mã số BHXH: 0206044401
tham gia BHXH, bảo hiểm y tế (BHYT), bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), bảo hiểm tai
nạn lao động và bệnh nghề nghiệp tại Công ty C theo Hợp đồng lao động số
10001461-2020/HDLD-VFP, hồ điện tử số: 100355/2020/074 nộp cho quan
BHXH ngày 26/06/2020, quá trình tham gia như sau:
+ Từ tháng 6/2020 - 8/2020, chức danh công nhân sản xuất, mức đóng
4.730.000 đồng, lương chính 4.730.000 đồng, phụ cấp lương không có.
+ Từ tháng 9/2020 - 02/2022, chức danh công nhân sản xuất, mức đóng
7.496.650 đồng, lương chính 7.496.650 đồng, phụ cấp lương không có.
+ Từ tháng 3/2022 - 3/2024, chức danh công nhân sản xuất, mức đóng
7.871.483 đồng, lương chính 7.871.483 đồng, phụ cấp lương không có.
Công ty đã báo giảm hẳn cho ông H theo Quyết định nghỉ việc số
10001461/VIETSWAN/2024, hồ điện tử số: 62252/2024/074 nộp ngày 22/5/2024
báo giảm từ tháng 05/2024, quan BHXH chưa xác nhận sổ BHXH cho ông H do
đơn vị chưa thanh toán tiền BHXH đến tháng 4/2024. Số tiền nợ tính riêng cho ông H
là 10.497.920 đồng (bao gồm cả tiền lãi chậm đóng) số tháng nợ là 4 tháng.
BHXH tỉnh Bình Dương giao nộp các tài liệu, chứng cứ sau: Công văn số
1999/BHXH-TST ngày 18/9/2024 của Bảo hiểm hội tỉnh B (bản chính); Giấy ủy
5
ngày 23/9/2024 của Bảo hiểm hội tỉnh B cho ông Nguyễn Thắng L (bản chính);
Bảng tạm tính số tiền phải đóng xác nhận chốt sổ BHXH của đơn vị nợ tính đến
tháng 8/2024 của BHXH tỉnh B (bản in) Đơn đnghị được vắng mặt của ông L
ngày 23/9/2024 (bản chính).
Tại phiên tòa,
- Các đương sự đều đơn đề nghị xét xử vắng mặt, do đó căn cứ khoản 1
Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa xét xử vắng mặt các đương sự.
- Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ
vụ án, đại diện Viện kiểm sát xét thấy căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn.
XÉT THẤY:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ vụ án đã được thẩm tra tại phiên
toà, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án quy định tại điểm d khoản 1 Điều 32 của Bluật Tố tụng dân sự năm
2015. Do bị đơn trụ sở tại thành phố T, tỉnh Bình Dương nên thẩm quyền giải
quyết thuộc Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một (quy định tại điểm c khoản 1
Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự). Quá trình giải quyết
vụ án, bị đơn không có yêu cầu Tòa án áp dụng quy định thời hiệu khởi kiện nên Tòa
án không nhận định về thời hiệu khởi kiện, xác định tranh chấp này thuộc trường hợp
không áp dụng thời hiệu khởi kiện theo quy định tại khoản 2 Điều 184 Bộ luật Tố
tụng dân sự.
[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, thấy rằng:
Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn và đại diện bị đơn trình bày thống nhất
nhau về hợp đồng lao động được ký kết giữa ông H và Công ty C, về thời gian ông H
làm việc, nghỉ việc tại Công ty C, về thời gian chưa đóng bảo hiểm hội. Sự thừa
nhận, thống nhất trên là tình tiết không cần phải chứng minh quy định tại Điều 92 Bộ
luật Tố tụng dân sự.
Tại Văn bản số 1999/BHXH-TST ngày 18/9/2024, Bảo hiểm hội tỉnh B
thông tin cho Tòa án như sau: Công ty C đã báo giảm hẳn cho ông H theo Quyết
định nghỉ việc số 10001461/VIETSWAN/2024, hồ sơ điện tử số: 62252/2024/074 nộp
ngày 22/5/2024 báo giảm từ tháng 05/2024, cơ quan BHXH chưa xác nhận sổ BHXH
cho ông H do đơn vị chưa thanh toán tiền BHXH đến tháng 4/2024. Số tiền nợ tính
riêng cho ông H 10.497.920 đồng (bao gồm cả tiền lãi chậm đóng) số tháng n
4 tháng”.
Tại Bảng tạm tính số tiền phải đóng xác nhận chốt sổ BHXH của đơn vị nợ
tính đến tháng 8/2024, Bảo hiểm xã hội tỉnh B liệt kê số tiền Công ty C phải đóng của
6
ông H từ tháng 12/2023 - 3/2024 như sau: Tiền BHXH: 7.871.484 đồng, tiền BHYT:
1.416.868 đồng, tiền BHTN: 629.720 đồng, tiền BHTNLĐ&BNN: 157.428 đồng.
Tổng cộng: 10.075.500 đồng.
Tiền lãi Công ty C phải đóng từ tháng 12/2023 - 8/2024 như sau: Tiền lãi
BHXH: 314.308 đồng, tiền lãi BHYT: 76.680 đồng, tiền lãi BHTN: 25.146 đồng, tiền
lãi BHTNLĐ&BNN: 6.286 đồng. Tổng cộng: 422.420 đồng.
Theo quy định tại Điều 21 của Luật Bảo hiểm xã hội, trách nhiệm của người sử
dụng lao động phải đóng bảo hiểm hội cho người lao động. Quá trình giải quyết
vụ án, Công ty C thừa nhận do tình hình kinh tế khó khăn nên công ty chưa đóng bảo
hiểm hội của ông H từ tháng 12/2023 đến tháng 3/2024. Do đó, căn cứ buộc
ng ty C đóng stiền BHXH tiền lãi nêu trên của ông H cho Bảo hiểm hội
tỉnh B.
Kể từ tháng 9/2024 trở đi, Công ty C tiếp tục đóng tiền lãi trên số tiền chưa
đóng BHXH nêu trên theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.
Công ty C trách nhiệm phối hợp với quan bảo hiểm xã hội tỉnh Bình
Dương xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội cho ông H theo quy định tại khoản 5
Điều 21 của của Luật Bảo hiểm hội. Trường hợp Công ty C chậm hoặc không
đóng đủ BHXH của ông H, ông H có quyền yêu cầu Bảo hiểm xã hội tỉnh B xác nhận
sổ BHXH đến thời điểm Công ty C đã đóng bảo hiểm hội, bảo hiểm thất nghiệp,
bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp cho ông H theo quy định tại điểm 1, 2
khoản 1 Điều 46.96
Văn bản hợp nhất số 2089/VBHN-BHXH ngày 26/6/2020 của B.
[3] Từ những nhận định trên, xét thấy ý kiến phát biểu về quan điểm giải quyết
vụ án của Kiểm sát viên có căn cứ chấp nhận.
[4] Về án phí lao động thẩm: Công ty C phải chịu án phí đối với số tiền
BHXH phải đóng cho Bảo hiểm xã hội tỉnh B.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1
Điều 39, các điều 70, 71, 91, 92, 95, 147 244, 266, 273, 280 của Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015;
- Căn cứ các điều 6, 48, 168 của Bộ luật Lao động năm 2019;
- Căn cứ các điều 18, 21, 23, 86 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 ;
- Căn cứ điểm 1, 2 khoản 1 Điều 46.96
Văn bản hợp nhất số 2089/VBHN-
BHXH ngày 26/6/2020 của B;
7
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn ông Nguyễn Văn H đối với bị đơn Công ty C về việc tranh chấp về bảo
hiểm xã hội.
Buộc Công ty C đóng bảo hiểm hội của ông H từ tháng 12/2023 - tháng
3/2024 như sau: Tiền bảo hiểm xã hội: 7.871.484đ (bảy triệu, tám trăm bảy mươi mốt
ngàn, bốn trăm tám mươi bốn đồng), tiền bảo hiểm y tế: 1.416.868đ (một triệu, bốn
trăm mười sáu ngàn, tám trăm sáu mươi tám đồng), tiền bảo hiểm thất nghiệp:
629.720đ (sáu trăm hai ơi chín ngàn, bảy trăm hai mươi đồng), tiền bảo hiểm tai
nạn lao động bệnh nghề nghiệp: 157.428đ (một trăm năm mươi bảy ngàn, bốn
trăm hai mươi tám đồng) tiền lãi tính từ tháng 12/2023 - 8/2024 trên số tiền phải
đóng BHXH nêu trên 422.420đ (bốn trăm hai mươi hai ngàn, bốn trăm hai mươi
đồng). Tổng cộng: 10.497.920đ (mười triệu, bốn trăm chín mươi bảy ngàn, chín trăm
hai mươi đồng).
Kể từ tháng 9/2024 trở đi, Công ty C tiếp tục đóng tiền lãi trên số tiền chưa
đóng BHXH nêu trên theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.
Trường hợp Công ty C chậm hoặc không đóng đủ BHXH của ông H, ông H
quyền yêu cầu Bảo hiểm hội tỉnh B xác nhận sổ BHXH đến thời điểm Công ty C
đã đóng bảo hiểm hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động bệnh
nghề nghiệp cho ông H để giải quyết chế độ bảo hiểm cho ông H theo quy định của
pháp luật về bảo hiểm xã hội.
2. Về án phí lao động sơ thẩm:
Ông Nguyễn Văn H thuộc trường hợp được miễn tạm ứng án phí.
Công ty C chịu số tiền 315.000đ (ba trăm mười lăm ngàn đồng), nộp tại Chi
cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một.
3. Về quyền kháng cáo, kháng nghị: Các đương sự quyền kháng cáo bản án
trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án. Viện kiểm
sát có quyền kháng nghị bản án này theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a 9 Luật Thi hành án dân
sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án
dân sự.
8
Nơi nhận:
- VKSND TP. Thủ Dầu Một;
- Các đương sự;
- Lưu HS, VP
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Thanh Bình
Tải về
Bản án số 21/2024/LĐ-ST Bản án số 21/2024/LĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 21/2024/LĐ-ST Bản án số 21/2024/LĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất