Bản án số 18/2025/DS-ST ngày 17/01/2025 của TAND huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 18/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 18/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 18/2025/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 18/2025/DS-ST ngày 17/01/2025 của TAND huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Giồng Riềng (TAND tỉnh Kiên Giang) |
Số hiệu: | 18/2025/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 17/01/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Chấp nhận một phàn yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN GIỒNG RIỀNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNH KIÊN GIANG
Bản án số: 18/2025/DS-ST
Ngày: 17 - 01- 2025
V/v tranh chấp hợp đồng vay tài sản
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG RIỀNG, TỈNH KIÊN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Mỹ Nhiên
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Hà Bửu Khánh
Ông Huỳnh Hoàng Nam
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Hồng Nhung – Thư ký Tòa án nhân dân
huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang:
Ông Trần Ngọc Nhiều – Kiểm sát viên.
Trong các ngày 15 và ngày 17 tháng 01 năm 2025 tại trụ sở Toà án nhân
dân huyện Giồng Riềng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 311/2024/TLST-
DS ngày 14 tháng 10 năm 2024 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản theo Quyết
định đưa vụ án ra xét xử số: 497/2025/QĐXXST-DS, ngày 31 tháng 12 năm 2024
giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Q, sinh năm 1951.
Địa chỉ: Ấp TA, xã TL, huyện GR, tỉnh KG
- Bị đơn: Chị Nguyễn Thị C, sinh năm 1980 và anh Nguyễn Đắc Đ, sinh
năm 1980.
Địa chỉ: Ấp TA, xã TL, huyện GR, tỉnh KG
(Bà Q, chị C, anh Đ có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo đơn khởi kiện nguyên đơn bà Phạm Thị Q trình bày: Vào ngày
23/4/2016 âm lịch, bà có cho vợ chồng chị Nguyễn Thị C, anh Nguyễn Đắc Đ
mượn 03 chỉ vàng 24k (gồm 01 chỉ 9999 và 02 chỉ vàng 98%), thỏa thuận 10 hay
15 ngày sẽ trả lại. Sau khi đến hạn trả lại vàng vợ chồng Đ không trả và thỏa thuận
trả mỗi tháng 300.000 đồng tiền lãi, bà đồng ý nhận số tiền lãi như vợ chồng Đ trả.
Vợ chồng Đ trả cho bà đến ngày 07/11/2021 âm lịch với tổng số tiền nhận là
19.500.000 đồng, thì vợ chồng Đ ngưng không đưa tiền lãi cũng không trả lại số
vàng gốc, bà có đến gặp nhiều lần nhưng vợ chồng Đ vẫn không trả lại số vàng
trên nên bà khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc chị Nguyễn Thị C, anh
Nguyễn Đắc Đ phải trả lại cho bà 03 chỉ vàng 24k (trong đó có 01 chỉ vàng 24k

2
loại 9999 và 02 chỉ vàng 24k loại 98%) và yêu cầu vợ chồng anh Đ phải trả lãi suất
theo thỏa thuận mỗi tháng 300.000 đồng.
- Bị đơn chị Nguyễn Thị C và anh Nguyễn Đắc Đ trình bày: Chị Nguyễn Thị
C, anh Nguyễn Đắc Đ xác định vợ chồng anh chị có vay 03 chỉ vàng và thời gian
vay như bà Q trình bày là đúng. Vợ chồng chị xác định đã đóng lãi cho bà Q số
tiền 25.200.000 đồng, nhưng việc đóng lãi này không có làm giấy tờ, nay bà Q xác
định vợ chồng anh chị đã đóng được 19.500.000 đồng, anh chị thống nhất với số
tiền lãi như bà Q trình bày. Nay bà Q khởi kiện yêu cầu vợ chồng anh chị trả lại 03
chỉ vàng đã vay anh chị đồng ý. Nhưng anh Đ, chị C có đơn phản tố đề nghị Tòa
án xem xét lại phần lãi suất anh chị đã đóng cho bà Q đã vượt so với quy định. Sau
khi quy 03 chỉ vàng ra thành tiền khấu trừ phần lãi suất anh chị đã đóng số còn lại
anh chị sẽ trả cho bà Q.
Tại phiên toà nguyên đơn bà Q yêu cầu anh Đ, chị C phải trả lại cho bà 03
chỉ vàng 24k (01chỉ vàng 24k loại 9999 và 02 chỉ vàng 24k loại 98%) và lãi suất
theo quy định của pháp luật tính từ ngày 07/11/2021 đến nay.
Bị đơn anh Đ, chị C đồng ý trả 03 chỉ vàng nhưng phải khấu trừ số tiền lãi
vợ anh chị đã đóng còn lại anh chị sẽ trả cho bà Q.
Tại phiên tòa các bên thống nhất xác định giá vàng vào ngày 15/01/2025 loại
vàng 24k 9999 có giá là 8.500.000 đồng/01 chỉ và vàng 98% có giá là 8.400.000
đồng/01 chỉ.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Riềng phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Từ khi thụ lý đến khi có Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Thẩm
phán đã thực hiện đúng quy định của pháp luật và tại phiên toà Hội đồng xét xử
thực hiện đúng theo trình tự quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị chấp nhận một phần yêu cầu
của nguyên đơn buộc bị đơn trả 03 chỉ vàng 24k, không chấp nhận yêu cầu của
nguyên đơn về việc tính lãi suất của 03 chỉ vàng tính từ ngày 07/11/2021 đến ngày
xét xử sơ thẩm.
Đối yêu cầu phản tố của bị đơn đề nghị nghị Hội đồng xét xử bác yêu cầu
phản tố về việc yêu cầu đòi lại phần lãi suất số tiền 19.500.000 đồng.
Về án phí: Đề nghị áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí; giải quyết
theo quy định của pháp luật.

3
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được xem xét tại phiên
toà, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Thị Q yêu
cầu anh Nguyễn Đắc Đ, chị Nguyễn Thị C trả lại 03 chỉ vàng 24k. Hội đồng xét xử
xét thấy bà Q cho rằng chỉ cho anh Đ chị C mượn vàng nên yêu cầu anh chị trả lại
số vàng này. Xét thấy sau thời gian thỏa thuận trả lại vàng bà Q thống nhất thỏa
thuận lãi suất mỗi tháng là 100.000 đồng/01 chỉ và cũng đã thống nhất số tiền lãi
đã nhận của vợ chồng anh Đ, chị C là 19.500.000 đồng nên xác định là quan hệ
tranh chấp hợp đồng vay tài sản cụ thể vay vàng theo quy định tại khoản 3 Điều 26
của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chị Nguyễn Thị C, anh Nguyễn Đắc Đ có nơi cư
trú tại Ấp TA, xã TL, huyện GR, tỉnh KG. Căn cứ theo quy định tại điểm b khoản
1 Điều 35, đểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự là thuộc thẩm quyền
giải quyết Toà án nhân dân huyện Giồng Riềng.
[3] Về nội dung:
[3.1] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Thị Q yêu cầu anh Đ,
chị C phải trả lại 03 chỉ vàng 24k (01 chỉ vàng 24k loại 9999 và 02 chỉ vàng 24k
loại 98%) và lãi suất theo quy định pháp luật. Tại phiên tòa bà Q và vợ chồng anh
Đ, chị C thống nhất chị C, anh Đ còn nợ bà Q 03 chỉ vàng 24k (01 chỉ vàng 24k
loại 9999 và 02 chỉ vàng 24k loại 98%). Nhưng không thống nhất với nhau cách
trả và tính lãi suất. Hội đồng xét xử xét thấy anh Đ chị C thừa nhận còn nợ bà Q 03
chỉ vàng 24k là đúng nên đây là tình tiết, sự kiện không phải chứng minh do các
đương sự đã thừa nhận. Từ đó, bà Q khởi kiện yêu cầu anh Đ chị C trả lại vàng là
có căn cứ.
[3.2] Xét về việc bà Q yêu cầu tính lãi đối với 03 chỉ vàng cho anh Đ, chị C
vay tính từ ngày 07/11/2021 âm lịch đến ngày xét xử sơ thẩm là không có căn cứ
để xem xét. Bởi theo Quyết định số 57/1992/QĐ-NH, ngày 31/3/1992 của Ngân
hàng nhà nước quy định lãi vay đối với vàng tối đa là 7%/năm. Nhưng đến năm
2000 Ngân hàng Nhà nước có Quyết định số 432/2000/QĐ-NHNN1, hủy bỏ Quyết
định số 57 nên chưa có quy định nào về lãi suất cho vay vàng. Theo Thông tư số
01/TTLT ngày 19/6/1997 của BTP-BTC-VKSNDTC-TANDTC hướng dẫn việc
xét xử và thi hành án về tài sản, trong trường hợp đối tượng của hợp đồng vay là
vàng, thì lãi suất được áp dụng khi Ngân hàng Nhà nước có quy định. Tuy nhiên,

4
hiện tại Ngân hàng nhà nước chưa có quy định tính lãi suất đối vàng nên việc bà Q
yêu cầu tính lãi suất đối với 03 chỉ vàng cho vay là không có căn cứ chấp nhận.
[4] Xét yêu cầu phản tố của chị C anh Đ đề nghị xem xét lại phần lãi suất đã
đóng cho bà Q. Hội đồng xét xử xét thấy từ khi vay vàng đến ngày 07/11/2021, bà
Q xác nhận đã nhận của anh Đ chị C số tiền lãi là 19.500.000 đồng. Như đã nhận
định nêu trên việc bà Q cho vay vàng và tính lãi suất là trái với quy định của pháp
luật. Nay anh Đ chị C có yêu cầu xem xét lại phần lãi suất, do việc cho vay vàng
chưa có quy định tính lãi suất, nên bà Q có trách nhiệm trả lại số tiền đã nhận của
vợ chồng anh Đ là phù hợp với quy định của pháp luật.
[4.1] Việc chị C anh Đ yêu cầu quy vàng thành tiền khấu trừ số tiền đã đóng
cho bà Q, nhưng bà Q không đồng ý quy vàng thành tiền mà đề nghị lấy vàng nên
không có căn cứ để xem xét. Theo quy định tại Điều 463 của của Bộ luật dân sự
2015: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay
giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay
tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi khi có thỏa
thuận hoặc pháp luật có quy định”. Chị C anh Đ xác định nhận vàng từ bà Q nên
nay anh chị có trách nhiệm trả lại vàng cho bà Q là phù hợp với quy định của pháp
luật.
[5] Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát cho rằng anh Đ chị C đã tự nguyện
đóng số tiền lãi 19.500.000 đồng nên bà Q không có nghĩa vụ phải trả lại số tiền lãi
này là chưa phù hợp với quy định của pháp luật ảnh hưởng đến quyền lợi của bị
đơn. Bởi lẽ việc thỏa thuận lãi suất này trái với quy định pháp luật cũng như đã
phân tích nêu trên đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có quy định lãi suất đối với
vàng cho vay. Nay anh Đ chị C có yêu cầu tính lại phần lãi suất đã đóng cho bà Q
nên cần xem xét buộc bà Q có trách nhiệm trả lại số tiền lãi như anh chị đã yêu
cầu.
Từ những nhận định trên Hội đồng xét xử chấp nhận một phần đề nghị của
đại diện Viện kiểm sát và chấp một phần yêu cầu của nguyên đơn, chấp nhận một
phần yêu cầu phản tố của bị đơn. Buộc anh Đ, chị C phải trả lại cho bà Q 03 chỉ
vàng 24k (01 chỉ vàng 24k loại 9999 và 02 chỉ vàng loại 98%). Buộc bà Q có trách
nhiệm trả lại cho anh Đ chị C số tiền đã nhận là 19.500.000 đồng.
[6] Về án phí:
Áp dụng Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 2 Điều 26 của Nghị
quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội

5
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án.
Chị C anh Đ có trách nhiệm trả lại cho bà Q 03 chỉ vàng nên phải chịu án
phí có giá ngạch là: ( 01 chỉ x 8.500.000 đồng + 02 chỉ x 8.400.000 đồng) =
25.300.000 đồng x 5% = 1.265.000 đồng (một triệu hai trăm sáu mươi năm nghìn
đồng). Khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí do anh Đ, chị C đã nộp 630.000 đồng
theo biên lai thu số 0008971, ngày 20/11/2024 của C cục Thi hành án dân sự huyện
Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang, anh Đ chị C còn phải nộp thêm 635.000 đồng (Sáu
trăm ba mươi năm nghìn đồng).
Bà Q có trách nhiệm trả lại cho chị C anh Đ là 19.500.000 đồng phải chịu án
phí có giá ngạch là : 19.500.000 đồng x 5% = 975.000 đồng (chín trăm bảy mươi
năm nghìn đồng. Nhưng bà Q là người cao tuổi có đơn xin miễn án phí nên bà Q
không phải nộp án phí.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng khoản 3 Điều 26; điểm b khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều
39; Điều 147; Điều 207; Điều 227; Điều 228; Điều 244; Điều 266; Điều 269; Điều
271; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự;
Điều 463, khoản 1 Điều 465; Điều 466 của Bộ luật Dân sự 2015;
Khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Thị Q.
Không chấp nhận yêu cầu tính lãi của bà Q đối với số vàng cho anh Đ chị C vay
tính từ ngày 07/11/2021 đến ngày xét xử sơ thẩm.
Buộc anh Nguyễn Đắc Đ chị Nguyễn Thị C phải trả lại cho bà Q 03 (ba) chỉ
vàng 24k (trong đó 01chỉ vàng 24k loại 9999 và 02 chỉ vàng 24k loại 98%).
Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của chị Nguyễn Thị C anh Nguyễn
Đắc Đ. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của anh Đ chị C về việc khấu trừ số tiền
lãi đã đóng vào số vàng vay còn lại anh chị sẽ trả cho bà Q.
Buộc Phạm Thị Q phải trả lại cho anh Đ chị C số tiền 19.500.000 đồng
(mười chín triệu năm trăm nghìn đồng).
Kể từ ngày chị C, anh Đ có đơn yêu cầu thi hành đối với khoản tiền cho đến
khi thi hành án xong nếu bà Q không giao trả lại số tiền hoặc giao không đủ thì bà

6
Q còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn chưa thi hành án theo mức lãi suất
quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
2. Án phí:
Anh Đ, chị C phải chịu án phí là 1.265.000 đồng (một triệu hai trăm sáu
mươi năm nghìn đồng). Khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí do anh Đ, chị C đã
nộp 630.000 đồng theo biên lai thu số 0008971, ngày 20/11/2024 của C cục Thi
hành án dân sự huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang, anh Đ chị C còn phải nộp
thêm 635.000 đồng (Sáu trăm ba mươi năm nghìn đồng).
Bà Q là người cao tuổi nên không phải chịu án phí.
3. Quyền kháng cáo, kháng nghị:
Bà Phạm Thị Q, anh Nguyễn Đắc Đ, chị Nguyễn Thị C có mặt có quyền
kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.
Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, Viện kiểm sát nhân dân cấp trên được
quyền kháng nghị theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 của Luật thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự./.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Kiên Giang;
- VKSND huyện Giồng Riềng;
- CCTHADS huyện Giồng Riềng;
- Các đương sự;
- Lưu.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thị Mỹ Nhiên

7

8
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 25/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 21/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 05/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Bản án số 116/2025/DS-PT ngày 25/04/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm