Bản án số 178/2024/DS-ST ngày 24/10/2024 của TAND huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre về tranh chấp đất đai
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 178/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 178/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 178/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 178/2024/DS-ST ngày 24/10/2024 của TAND huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre về tranh chấp đất đai |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Bình Đại (TAND tỉnh Bến Tre) |
Số hiệu: | 178/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 24/10/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp quyền về lối đi qua bất đồng sản liền kề Nguyễn Văn C, Đinh Thị Tuyết M với Nguyễn Thanh H |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN B – TỈNH E 1 Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 178/2024/DS-ST
Ngày: 24 - 10 -2024
V/v tranh chấp: “Quyền về lối đi qua và mắc
đường dây tải điện qua bất động sản liền kề”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH E
-Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Lê Thị Thu Hương
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Nguyễn Thanh Lâm
2. Ông Đặng Hoàng Mích.
- Thư ký phiên tòa: Ông Đặng Huỳnh Khánh Duy - Thư ký Tòa án nhân
dân huyện B, tỉnh E.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh E tham gia phiên toà:
Ông Nguyễn Văn Lanh - Kiểm sát viên
Ngày 24 tháng 10 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh E xét xử
sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 59/2022/TLST-DS ngày 06 tháng 04 năm 2022 về
việc “Tranh chấp quyền lối đi qua và mắc đường dây tải đện qua bất động sản liền kề
” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 277 /2020/QĐXX-ST ngày 13 tháng 09 năm
2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 206/2024/QĐST-DS ngày 30/09/202 giữa các
đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1962
Bà Đinh Thị Tuyết M, sinh năm 1961
Địa chỉ: ấp 4 Cây Trôm, xã Bình Thới, huyện B, tỉnh E
Ông Nguyễn Văn C, bà Đinh Thị Tuyết M ủy quyền cho ông Phạm
Quang H tham gia tố tụng theo hợp đồng ủy quyền ngày 27/04/2023 (Có mặt).
2. Bị đơn: Nguyễn Thanh H, sinh năm 1969 (Vắng mặt).
Địa chỉ: ấp 4 C, xã B, huyện B, tỉnh E.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà Nguyễn Thái Phong C1, sinh năm1993(Vắng mặt)
- Bà Trần Thị Đ, sinh năm 1969(Vắng mặt)
2
- Bà Nguyễn Thái Phong H1, sinh năm 1994(Vắng mặt)
- Ông Nguyễn Trần Thái B, sinh năm 2001(Vắng mặt)
- Bà Nguyễn Thị H2, sinh năm 1966(Vắng mặt)
Cùng địa chỉ: ấp 4 C, xã B, huyện B, tỉnh E
- Nguyễn Văn D1, sinh năm 1971(Có mặt)
Địa chỉ: Ấp T, xã M, huyện R, tỉnh E.
- Nguyễn Thanh Tr, sinh năm 1983
- Phan Thị M1, sinh năm 1987
Địa chỉ: ấp 4 Cây Trôm, xã B, huyện B, tỉnh E.
Ông Nguyễn Thanh Tr, bà Phan Thị M1 ủy quyền cho ông Nguyễn
Văn D1 tham gia tố tụng theo hợp đồng ủy quyền ngày 12/08/2024.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện ngày 15 tháng 02 năm 2022, bản tự khai ngày 22/07/2022, và
những lời khai tiếp theo cũng như tại phiên tòa sơ thẩm các nguyên đơn ông Nguyễn Văn
C, bà Đinh Thị Tuyết M trình bày:
Nguyên vào ngày10/09/1996, bà Đinh Thị Tuyết M được ủy ban nhân dân
huyện B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa đất số 1546, tờ bản đồ số
01, tọa lạc tại ấp 4 Cây Trôm, xã Bình Thới, huyện B theo số liệu chính quy là thửa
57, tờ bản đồ số 21. Bà M, ông C muốn ra lộ công cộng pH đi trên con đường có
chiều ngang 0,6m, chiều dài 50m thuộc một phần thửa số 50, tờ bản đồ số 21, do
ông Nguyễn Thanh H đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ông, bà
đã đi trên con đường này từ năm 1962. Vào năm 2013, giữa tôi gia đình ông H, bà
Nguyễn Thị H2 (chị ông H) xảy ra mâu thuẫn về đường đi và đã thỏa thuận thành
(có biên bản kèm theo hòa giải ngày 01/08/2013) theo đó gia đình bà Nguyễn Thị
H2 đồng ý chừa cho 0.6 mét để ra đường công cộng. Thế nhưng từ ngày 31/11/2021
cây trụ điện của ông, bà bị đỗ sửa lại nhưng bị ông H, gia đình bà H2 ngăn cản và
không cho sử dụng, nâng cấp và kéo điện trên con đường này. Ông, bà đã nhiều
lần thương lượng với ông H, bà H2 nhưng không đông ý. Quá trình giải quyết vụ
án Tòa án chưa thu thập, tài liệu chứng cứ là xem xét, thẩm định tại chỗ và đo đạc
lối đi đang tranh chấp thì vào ngày 15/7/2023, ngày 23/08/2023 gia đình ông
Nguyễn Thanh H, bà Nguyễn Thái Phong C1, gia đình bà Nguyễn Thị H2 đã dùng
trụ bê tông và kẽm gai rào bít lối đi không cho gia đình ông, bà đi trên lối đi này.
Ngoài lối đi này thì gia đình tôi không có lối đi nào khác ra đường công cộng, hành
vi của ông Nguyễn Thanh H, bà Nguyễn Thái Phong C1 đã làm ảnh hưởng đến
cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của gia đình ông bà.
Khi Tòa án cùng cơ quan ban ngành huyện lên đo đạc, định giá tài sản tranh
chấp thì gia đình ông H, bà H2, bà Phong C1 có hành vi la lối, dùng loa kéo phát
thanh chửi bới cơ quan chức năng và không cho đo đạc. Mỗi lần Tòa án lên thẩm
định thì liền ngay sau khi tòa án về là gia đình bị đơn xây thêm tường rào bít lối đi,
3
cho đến hôm nay và sau khi tòa xử xong phía bị đơn cũng sẽ không ngừng xây
dựng thêm công trình, hàng rào bít lối đi. Cho đến hôm nay bà C1 và gia đình bị
đơn đã phá hủy hoàn toàn con đường đi vào nhà ông, bà. Hành vi trên của gia đình
ông H hoàn toàn coi thường pháp luật, không coi chính quyền địa phương, tòa án,
các cơ quan liên quan không ra gì, hành vi quá mức côn đồ.
Nay ông, bà yêu cầu Tòa án nhân dân huyện B xem xét giải quyết, buộc ông
Nguyễn Thanh H cùng gia đình là bà Nguyễn Thái Phong C1, bà Trần Thị Đ, bà
Nguyễn Thái Phong H1, ông Nguyễn Trần Thái B, bà Nguyễn Thị H2 pH mở lối
đi và ông, bà được mắc đường dây điện vào nhà trên phần đất thuộc thửa số 50, tờ
bản đồ số 21 có chiều ngang 1,02 mét, dài 55,72mét theo họa đồ hiện trạng sử
dụng đất ngày 23/04/2024 là thửa 50-4 diện tích 43,2m
2
tọa lạc xã Bình Thới, huyện
B, tỉnh E.
Chi phí đo đạc định giá bà M, ông C yêu cầu giải quyết theo quy định pháp
luật.
* Tại đơn yêu cầu độc lập ngày 03/10/2023, biên bản lấy lời khai ngày
25/05/2024 người có quyền lợi ông Nguyễn Văn D1 đồng thời cũng là đại diện
theo ủy quyền của ông Nguyễn Thanh Tr, bà Phan Thị M trình bày như sau:
Ông là chủ sử dụng thửa đất số 58, tờ bản đồ 21, diện tích 420,9m
2
tọa lạc tại
xã Bình Thới, huyện B, tỉnh E. Để đi ra đường công cộng ông với gia đình là ông
Nguyễn Thanh Tr, bà Phan Thị M cùng sử dụng chung đường đi với ông C, bà M
trên phần đất thuộc thửa số 50, tờ bản đồ số 21 có chiều ngang 1,02 mét, dài
55,72mét theo họa đồ hiện trạng sử dụng đất ngày 23/04/2024 là thửa 50-4 diện
tích 43,2m
2
tọa lạc xã Bình Thới, huyện B, tỉnh E do ông Nguyễn Thanh H đứng
tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Gần đây ông gia đình ông Nguyễn
Thanh H cùng gia đình là bà Nguyễn Thái Phong C1, bà Trần Thị Đ, bà Nguyễn
Thái Phong H1, ông Nguyễn Trần Thái B, bà Nguyễn Thị H2 xây tường gạch ông
bít lối ra vào ảnh hưởng đến sinh hoạt chung gia đình của ông. Nay ông khởi kiện
yêu cầu ông Nguyễn Thanh H cùng gia đình là bà Nguyễn Thái Phong C1, bà Trần
Thị Đ, bà Nguyễn Thái Phong H1, ông Nguyễn Trần Thái B, bà Nguyễn Thị H2
mở lối đi vào nhà trên phần đất thuộc thửa số 50, tờ bản đồ số 21 có chiều ngang
1,02 mét, dài 55,72mét theo họa đồ hiện trạng sử dụng đất ngày 23/04/2024 là thửa
50-4 diện tích 43,2m
2
tọa lạc xã Bình Thới, huyện B, tỉnh E do ông Nguyễn Thanh
H đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ông đồng ý liên đới cùng
ông C bà M hoàn trả giá trị phần đường đi cho bị đơn ông Nguyễn Thanh H.
* Trong suốt quá trình tố tụng, Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng đến
lần thứ hai cho bị đơn ông Nguyễn Thanh H cùng gia đình là người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thái Phong C1, bà Trần Thị Đ, bà Nguyễn Thái
Phong H1, ông Nguyễn Trần Thái B, bà Nguyễn Thị H2 nhưng vẫn vắng mặt không
có lý do nên Tòa án không thu thập được lời khai.
* Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật và
quan điểm giải quyết vụ án:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự: Đối với Thẩm phán tuân thủ
đúng Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự. Về thu thập chứng cứ thì thẩm phán có tiến
4
hành xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định tại Điều 97 Bộ luật tố tụng dân
sự. Đối với Hội đồng xét xử, thư ký thực hiện đúng các nguyên tắc do pháp luật
quy định. Đối với nguyên đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo Điều 70, 71
Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn ông Nguyễn Thanh H, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan cùng gia đình là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thái
Phong C1, bà Trần Thị Đ, bà Nguyễn Thái Phong H1, ông Nguyễn Trần Thái B,
bà Nguyễn Thị H2 vi phạm nghĩa vụ của người tham gia tố tụng theo Điều 70, 72,
73 Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, thẩm phán còn vi phạm thời hạn tống đạt
thông báo thụ lý vụ án cho đương sự theo quy định tại Điều 196 Bộ luật tố tụng
dân sự, vi phạm này không ảnh hưởng đến nội dung giải quyết vụ án nên đề nghị
Hội đồng xét xử khắc phục trong thời gian tới.
- Về quan điểm giải quyết vụ án:
Căn cứ vào 227 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 254, 255 Bộ luật dân sự 2015
đề nghị Hội đồng xét xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà Đinh Thị Tuyết M, ông Nguyễn Văn
C, ông Nguyễn Văn D1 đối với ông Nguyễn Thanh H, bà Nguyễn Thái Phong C1,
bà Trần Thị Đ, bà Nguyên Thái Phong H1, ông Nguyễn Trần Thái B, bà Nguyễn Thị H2
về việc “tranh chấp quyền về lối đi qua và mắc đường dây tải điện qua bất động
sản liền kề”.
Buộc ông Nguyễn Thanh H, bà Nguyễn Thái Phong C1, bà Trần Thị Đ, bà
Nguyễn Thái Phong H1, ông Nguyễn Trần Thái B, bà Nguyễn Thị H2 pH mở lối
đi cho ông Nguyễn Văn C, bà Đinh Thị Tuyết M, ông Nguyễn Văn D1 một lối đi có
chiều ngang 1,02m; chiều dài cạnh M2M3 là 57,01m; chiều dài M4M là 56,87m có
diện tích tạo thành là các điểm M,M2,M3,M4,M thuộc thửa 50-4 diện tích 43,2m
2
, tờ
bản đồ số 21 tọa lạc tại xã Bình Thới, huyện B, tỉnh E.
Buộc Nguyễn Văn C, bà Đinh Thị Tuyết M pH đền bù thiệt hại giá trị quyền
sử dụng đất cho ông Nguyễn Thanh H với số tiền là 143.216.640 đồng (Một trăm
bốn mươi ba triệu hai trăm mười sáu nghìn sáu trăm bốn mươi đồng); Buộc Ông
Nguyễn Văn D1 pH đền bù thiệt hại giá trị quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Thanh
H với số tiền là 61.378.560 đồng(Sáu mươi mốt triệu ba trăm bảy mươi tám nghìn
năm trăm sáu mươi đồng).
Ghi nhận ông Nguyễn Văn C, bà Đinh Thị Tuyết M không yêu cầu đền bù giá
trị thiệt hại 05 tấm đan do phía gia đình bị đơn đã làm hư hỏng.
Ông Nguyễn Văn C, bà Đinh Thị Tuyết M được mắc đường dây tải điện sinh
hoạt vào nhà ngay trên phần lối đi lối đi được mở diện tích 43,2m
2
thuộc thửa 50-4,
tờ bản đồ số 21 tọa lạc tại xã Bình Thới, huyện B, tỉnh E. Đồng thời Ông Nguyễn Văn
C, bà Đinh Thị Tuyết M pH đảm B, B vệ an toàn kỹ thuật đường dây dẫn điện trên
không theo quy định và thuận tiện cho các chủ sử dụng đất.
Buộc ông Nguyễn Thanh H pH có trách nhiệm trả cho ông Ông Nguyễn
Văn C, bà Đinh Thị Tuyết M chi phí đo đạc định giá là là 6.396.000 đồng (Sáu
triệu ba trăm chín mươi sáu nghìn đồng).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
5
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm
tra tại phiên Tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng và ý kiến phát biểu của Kiểm sát
viên tại phiên Tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Bị đơn ông Nguyễn Thanh H, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan bà Nguyễn Thái Phong C1, bà Trần Thị Đ, bà Nguyễn Thái Phong H1,
ông Nguyễn Trần Thái B, bà Nguyễn Thị H2 vắng mặt không có lý do chính đáng
dù đã được triệu tập lần thứ hai. Do đó, Tòa án xét xử vắng mặt ông Nguyễn Thanh
H, bà Nguyễn Thái Phong C1, bà Trần Thị Đ, bà Nguyễn Thái Phong H1, ông
Nguyễn Trần Thái B, bà Nguyễn Thị H2 là phù hợp quy định tại Điều 227 của Bộ
luật Tố tụng dân sự.
[2] Về lối đi tranh chấp: Theo họa đồ hiện trạng sử dụng đất ngày 23/04/2024
phần lối đi tranh chấp thuộc thửa 50-4 diện tích 43,2m
2
, tờ bản đồ số 21 tọa lạc tại xã
Bình Thới, huyện B, tỉnh E do ông Nguyễn Thanh H đứng tên trong giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất có họa đồ hiện trạng sử dụng đất kèm theo. Về nguồn gốc lối đi cả
nguyên đơn ông C, bà M ông D1 đều thống nhất thừa nhận lối đi được hình thành H2
30 năm, trước đây là của bà Võ Thị Mao bán cho ông Nguyễn Văn Bở có chừa đường
đi ra lộ công cộng cho những người thân có mộ phần bên trong đi quét mộ, các hộ dân
tự đi. Gia đình ông C, bà M đã đổ đan làm đường đi chung nay cho đến nay. Nay phần
lối đi này thuộc quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Thanh H thì ông C, bà M ông D1
đều không có ý kiến và đồng ý bồi hoàn giá trị đất cho ông H để mở lối đi chung. Hiện
tại, lối đi đang tranh chấp gia đình ông Nguyễn Thanh H, bà Nguyễn Thái Phong C1,
gia đình bà Nguyễn Thị H2 đã dùng trụ bê tông xây tường gạch và rào bít lối đi không
đi ra vào được. Tại phiên tòa nguyên đơn xác định không có cây trồng trên đất. Hiện
tại các ông, bà ông C, bà M, ông D1 pH thuê nhà nơi khác sinh sống tạm.
[3] Xét yêu cầu mở lối đi của các nguyên đơn ông Nguyễn Văn C, bà Đinh Thị
Tuyết M và Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn D1 đối với ông
Nguyễn Thanh H, bà Nguyễn Thái Phong C1, bà Trần Thị Đ, bà Nguyễn Thái Phong
H1, ông Nguyễn Trần Thái B, bà Nguyễn Thị H2, Hội đồng xét xử xét thấy: Nguyên
đơn ông Nguyễn Văn C, bà Đinh Thị Tuyết M là chủ sử dụng đất tại thửa số 1546,
tờ bản đồ số 01, theo số liệu chính quy là thửa 57, tờ bản đồ số 21, tọa lạc tại ấp 4
Cây Trôm, xã Bình Thới, huyện B do bà Đinh Thị Tuyết M đứng tên giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Ông Nguyễn Văn D1 sử dụng đất tại thửa 58 tờ bản đồ số
21 do ông Nguyễn Văn D1 đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Các thửa
đất của bà M, ông C, ông D1 bị vây bọc bởi phần đất thuộc thửa thuộc thửa 50, tờ
bản đồ 21 (Bút lục 276, 277) do Nguyễn Thanh H đứng tên trong giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất và bị vây bọc bởi các thửa đất khác. Để ra được lộ công cộng
(QL57B) thì các hộ bà M, ông C, ông D1 pH đi qua phần đất thuộc thửa 50, tờ bản
đồ số 21, hiện do ông Nguyễn Thanh H, bà Nguyễn Thái Phong C1, bà Trần Thị Đ,
bà Nguyễn Thái Phong H1, ông Nguyễn Trần Thái B, bà Nguyễn Thị H2 đang quản
lý, sử dụng. Trong quá trình tố tụng, tòa án cũng đã xác minh (Bút lục 239-243) đất
của bà M, ông C, ông D1 bị vây bọc bởi các bất động sản khác và pH đi qua đất của
bị đơn và là lối đi duy nhất thuận tiện ra QL57B. Do đó, bà M, ông C, ông D1 có
quyền yêu cầu được mở lối đi qua bất động sản liền kề của ông H là phù hợp theo
quy định tại Điều 254 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
6
[4] Xét về vị trí lối đi: Hội đồng xét xử thấy, ông Nguyễn Văn C, bà Đinh Thị
Tuyết M, hộ nhà Nguyễn Văn D1 đã đi trên lối đi này trên 30 năm không làm ảnh
hưởng đến quyền sử dụng đất của ông H. Đây cũng là lối đi được ra đường công cộng
gần nhất, ít gây thiệt hại. Do nhu cầu của các hộ dân chỉ sử dụng xe máy lưu thông
nên lối đi được mở như sau: phần giáp đường QL57B là đoạn MM2 chiều ngang
1,02m; đoạn M2M3 chiều dài 57,01m; đoạn M3M4 chiều ngang 1,02m; đoạn M4M
chiều dài 56,87m. Diện tích tạo thành là các điểm M,M2,M3,M4,M thuộc thửa 50-4
diện tích 43,2m
2
, tờ bản đồ số 21 tọa lạc tại xã Bình Thới, huyện B, tỉnh E (Có họa đồ
hiện trạng sử dụng đất kèm theo).
Buộc ông Nguyễn Thanh H, bà Nguyễn Thái Phong C1, bà Trần Thị Đ, bà
Nguyễn Thái Phong H1, ông Nguyễn Trần Thái B, bà Nguyễn Thị H2 pH mở lối
đi cho ông Nguyễn Văn C, bà Đinh Thị Tuyết M, ông Nguyễn Văn D1 một lối đi có
chiều ngang 1,02m; chiều dài cạnh M2M3 là 57,01m; chiều dài M4M là 56,87m
có diện tích tạo thành là các điểm M,M2,M3,M4,M thuộc thửa 50-4 diện tích 43,2m
2
,
tờ bản đồ số 21 tọa lạc tại xã Bình Thới, huyện B, tỉnh E (Có họa đồ hiện trạng sử
dụng đất kèm theo).
Phần lối đi này ông Nguyễn Văn C, bà Đinh Thị Tuyết M, ông Nguyễn Văn D1
chỉ được sử dụng vào mục đích làm lối đi chung không được dùng vào mục đích gì
khác.
Tuyên bố hạn chế quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Thanh H, bà Nguyễn Thái
Phong C1, bà Trần Thị Đ, bà Nguyễn Thái Phong H1, ông Nguyễn Trần Thái B, bà
Nguyễn Thị H2 đối với diện tích đất làm lối đi là 43,2m
2
thuộc thửa 50-4, tờ bản đồ số
21 tọa lạc tại xã Bình Thới, huyện B, tỉnh E mà ông Nguyễn Văn C, bà Đinh Thị Tuyết
M, ông Nguyễn Văn D1 được quyền sử dụng.
Ông Nguyễn Văn C, bà Đinh Thị Tuyết M, ông Nguyễn Văn D1 được quyền đăng
ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác lập quyền sử dụng hạn chế đối với phần
lối đi có diện tích 43,2m
2
thuộc thửa 50-4, tờ bản đồ số 21 tọa lạc tại xã Bình Thới, huyện
B, tỉnh E.
[5] Về chi phí đền bù: Theo quy định tại Điều 254 của Bộ luật Dân sự năm
2015 “… chủ sở hữu bất động sản hưởng quyền về lối đi qua pH đền bù cho chủ
sở hữu bất động sản chịu ảnh hưởng quyền trừ trường hợp có thỏa thuận khác...”.
Từ quy định trên thì ông Nguyễn Văn C, bà Đinh Thị Tuyết M, ông Nguyễn Văn
D1 pH đền bù cho ông Nguyễn Thanh H giá trị sử dụng đất làm lối đi. Theo biên
bản định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản huyện B thì lối đi có giá trị là
4.736.000 đồng/m
2
x 43,2m
2
= 204.595.200 đồng (Hai trăm lẻ bốn triệu năm trăm
chín mươi lăm nghìn hai trăm đồng). Tại phiên tòa, giữa ông Nguyễn Văn C, bà
Đinh Thị Tuyết M, ông Nguyễn Văn D1 có thỏa thuận tỉ lệ đền bù là 7:3 nên Nguyễn
Văn C, bà Đinh Thị Tuyết M pH đền bù thiệt hại giá trị quyền sử dụng đất cho ông
Nguyễn Thanh H tỉ lệ 7 phần với số tiền là 143.216.640 đồng (Một trăm bốn mươi
ba triệu hai trăm mười sáu nghìn sáu trăm bốn mươi đồng); Ông Nguyễn Văn D1
pH đền bù thiệt hại giá trị quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Thanh H tỉ lệ 3 phần
với số tiền là 61.378.560 đồng(Sáu mươi mốt triệu ba trăm bảy mươi tám nghìn năm
trăm sáu mươi đồng).
7
Ghi nhận ông Nguyễn Văn C, bà Đinh Thị Tuyết M không yêu cầu đền bù giá
trị thiệt hại các tấm đan do phía gia đình bị đơn đã làm hư hỏng.
[6] Đối với công trình quán lá tạm, nhà tạm, bức tường gạch xây chắn bít lối đi,
07 trụ xi măng là những công trình vật kiến trúc (theo biên bản xác minh Bút lục 240, 243)
do phía gia đình bị đơn tự ý xây dựng trong quá trình tòa án giải quyết tranh chấp, mặc dù
Tòa án đã có áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhưng phía gia đình bị đơn vẫn cố tình
xây dựng thêm và không tháo dỡ di dời. Xét thấy tài sản phía gia đình bị đơn tự ý xây
dựng trên lối đi đang trong thời gian tranh chấp nên khi mở lối không xem xét đến chi phí
đền bù là phù hợp. Vì vậy, buộc ông Nguyễn Thanh H, bà Nguyễn Thái Phong C1,
bà Trần Thị Đ, bà Nguyễn Thái Phong H1, ông Nguyễn Trần Thái B, bà Nguyễn
Thị H2 pH tháo dở di dời những công trình vật kiến trúc xây dựng trong thời gian xảy
ra tranh chấp là 01quán lá tạm, nhà tạm, bức tường gạch xây chắn bít lối đi cạnh MM2
chiều ngang là 1,02m chiều cao 2,5m; bức tường gạch dọc theo cạnh M2M3 là 57,01m,
chiều cao 1,5m và 07 trụ xi măng (theo biên bản xác minh Bút lục 240, 243) trên lối đi
được mở và không xem xét giá trị đền bù.
[7] Đối với yêu cầu mắc đường dây tải điện sinh hoạt vào nhà của ông ông Nguyễn
Văn C, bà Đinh Thị Tuyết M. Hội đồng xét xử xét thấy, ông Nguyễn Văn C, bà Đinh
Thị Tuyết M yêu cầu được mắc đường dây tải điện sinh hoạt ngay trên lối đi được mở
diện tích 43,2m
2
thuộc thửa 50-4, tờ bản đồ số 21 tọa lạc tại xã Bình Thới, huyện B, tỉnh
E. Tại Điều 255 bộ luật dân sự 2015 quy định: “ Chủ sở hữu bất động sản có quyền
mắc đường dây tải điện, thông tin liên lạc qua bất động sản của các chủ sở hữu
khác một cách hợp lý, nhưng pH B đảm an toàn và thuận tiện cho các chủ sở hữu
đó; nếu gây thiệt hại thì pH bồi thường.”. Từ quy định trên nên yêu cầu mắc đường
dây tải điện sinh hoạt vào nhà của ông ông Nguyễn Văn C, bà Đinh Thị Tuyết M là có
cơ sở được chấp nhận.
Ông Nguyễn Văn C, bà Đinh Thị Tuyết M được mắc đường dây tải điện sinh
hoạt vào nhà ngay trên phần lối đi lối đi được mở diện tích 43,2m
2
thuộc thửa 50-4,
tờ bản đồ số 21 tọa lạc tại xã Bình Thới, huyện B, tỉnh E. Đồng Thời Ông Nguyễn
Văn C, bà Đinh Thị Tuyết M pH đảm B, B vệ an toàn kỹ thuật đường dây dẫn điện
trên không theo quy định khoản 5 Điều 51 Luật điện lực và thuận tiện cho các chủ sử
dụng đất.
[8] Về chi phí tố tụng khác: Căn cứ điều 157, 165 Bộ luật tố tụng dân sự do
yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn pH chịu chi phí xem xét thẩm
định tại chỗ. Cụ thể buộc ông Nguyễn Thanh H pH có trách nhiệm trả cho ông Ông
Nguyễn Văn C, bà Đinh Thị Tuyết M chi phí đo đạc định giá là là 6.396.000 đồng
(Sáu triệu ba trăm chín mươi sáu nghìn đồng)
[9] Đối với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B phù hợp với
Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[10] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều
12, 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ
phí Tòa án. Hội đồng xét thấy :
Đối với yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên buộc ông Nguyễn Thanh H,
bà Nguyễn Thái Phong C1, bà Trần Thị Đ, bà Nguyễn Thái Phong H1, ông Nguyễn Trần
8
Thái B, bà Nguyễn Thị H2 pH liên đới chịu án phí không có giá ngạch là 300.000
đồng(Ba trăm nghìn đồng).
Bà Đinh Thị Tuyết M, ông Nguyễn Văn C có đơn miễn án phí do cao tuổi
nên bà Đinh Thị Tuyết M, ông Nguyễn Văn C được miễn án phí.
Ông Nguyễn Văn D1 pH chịu án phí dân sự sơ thẩm là 3.069.000 đồng (Ba
triệu không trăm sáu mươi chín nghìn đồng) được khấu trừ vào số tạm ứng án phí ông
Nguyễn Văn D1 đã nộp 300.000 đồng(Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm
ứng án phí số 0005673 ngày 25/04/2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện B, ông
Nguyễn Văn D1 còn pH nộp tiếp số tiền là 2.769.000đồng (Hai triệu bảy trăm sáu
mươi chín nghìn đồng).
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào các điều 26, 35, 39, 147, 157, 165, 227 Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ vào Điều 254, 255 Bộ luật dân sự 2015;
Căn cứ vào Điều 166, 170, 171, 203 Luật đất đai 2013;
Căn cứ vào Điều 12, 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016
của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản
lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:
1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà Đinh Thị Tuyết M, ông Nguyễn Văn
C, ông Nguyễn Văn D1 đối với ông Nguyễn Thanh H, bà Nguyễn Thái Phong C1,
bà Trần Thị Đ, bà Nguyễn Thái Phong H1, ông Nguyễn Trần Thái B, bà Nguyễn Thị H2
về việc “tranh chấp quyền về lối đi qua và mắc đường dây tải điện qua bất động
sản liền kề”.
2/ Buộc ông Nguyễn Thanh H, bà Nguyễn Thái Phong C1, bà Trần Thị Đ, bà
Nguyễn Thái Phong H1, ông Nguyễn Trần Thái B, bà Nguyễn Thị H2 pH mở lối
đi cho ông Nguyễn Văn C, bà Đinh Thị Tuyết M, ông Nguyễn Văn D1 một lối đi có
chiều ngang 1,02m; chiều dài cạnh M2M3 là 57,01m; chiều dài M4M là 56,87m có
diện tích tạo thành là các điểm M,M2,M3,M4,M thuộc thửa 50-4 diện tích 43,2m
2
, tờ
bản đồ số 21 tọa lạc tại xã Bình Thới, huyện B, tỉnh E (Có họa đồ hiện trạng sử dụng
đất kèm theo).
Phần lối đi này ông Nguyễn Văn C, bà Đinh Thị Tuyết M, ông Nguyễn Văn D1
chỉ được sử dụng vào mục đích làm lối đi chung không được dùng vào mục đích gì
khác.
Tuyên bố hạn chế quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Thanh H, bà Nguyễn Thái
Phong C1, bà Trần Thị Đ, bà Nguyễn Thái Phong H1, ông Nguyễn Trần Thái B, bà
Nguyễn Thị H2 đối với diện tích đất làm lối đi là 43,2m
2
thuộc thửa 50-4, tờ bản đồ số
21 tọa lạc tại xã Bình Thới, huyện B, tỉnh E mà ông Nguyễn Văn C, bà Đinh Thị Tuyết
M, ông Nguyễn Văn D1 được quyền sử dụng.
Ông Nguyễn Văn C, bà Đinh Thị Tuyết M, ông Nguyễn Văn D1 được quyền đăng
ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác lập quyền sử dụng hạn chế đối với phần
lối đi có diện tích 43,2m
2
thuộc thửa 50-4, tờ bản đồ số 21 tọa lạc tại xã Bình Thới, huyện
B, tỉnh E.
9
3/ Buộc ông Nguyễn Thanh H, bà Nguyễn Thái Phong C1, bà Trần Thị Đ, bà
Nguyễn Thái Phong H1, ông Nguyễn Trần Thái B, bà Nguyễn Thị H2 pH tháo dở
di dời những công trình vật kiến trúc xây dựng trong thời gian xảy ra tranh chấp là 01quán
lá tạm, 01nhà tạm giáp QL57B; bức tường gạch xây chắn bít lối đi dọc theo cạnh MM2
chiều ngang là1,02m chiều cao 2,5m; bức tường gạch dọc theo cạnh M2M3 là 57,01m,
chiều cao 1,5m và 07 trụ xi măng (theo biên bản xác minh Bút lục 240, 243) trên lối đi
được mở và không xem xét giá trị đền bù.
4/ Buộc Nguyễn Văn C, bà Đinh Thị Tuyết M pH đền bù thiệt hại giá trị quyền
sử dụng đất cho ông Nguyễn Thanh H với số tiền là 143.216.640 đồng (Một trăm
bốn mươi ba triệu hai trăm mười sáu nghìn sáu trăm bốn mươi đồng);
Buộc Ông Nguyễn Văn D1 pH đền bù thiệt hại giá trị quyền sử dụng đất cho
ông Nguyễn Thanh H với số tiền là 61.378.560 đồng(Sáu mươi mốt triệu ba trăm
bảy mươi tám nghìn năm trăm sáu mươi đồng).
Ghi nhận ông Nguyễn Văn C, bà Đinh Thị Tuyết M không yêu cầu đền bù giá
trị thiệt hại 05 tấm đan do phía gia đình bị đơn đã làm hư hỏng.
Kể từ ngày quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi
hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hánh án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu
thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền pH trả cho người được
thi hành án) cho đến khi thi hành xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên pH thi
hành án còn pH chịu khoản lãi suất của số tiền còn pH thi hành án theo mức lãi suất
quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
5/ Ông Nguyễn Văn C, bà Đinh Thị Tuyết M được mắc đường dây tải điện sinh
hoạt vào nhà ngay trên phần lối đi lối đi được mở diện tích 43,2m
2
thuộc thửa 50-4,
tờ bản đồ số 21 tọa lạc tại xã Bình Thới, huyện B, tỉnh E. Đồng Thời Ông Nguyễn
Văn C, bà Đinh Thị Tuyết M pH đảm B, B vệ an toàn kỹ thuật đường dây dẫn điện
trên không theo quy định khoản 5 Điều 51 Luật điện lực và thuận tiện cho các chủ sử
dụng đất.
6/ Về chi phí tố tụng khác: Buộc ông Nguyễn Thanh H pH có trách nhiệm trả
cho ông Ông Nguyễn Văn C, bà Đinh Thị Tuyết M chi phí đo đạc định giá là là
6.396.000 đồng (Sáu triệu ba trăm chín mươi sáu nghìn đồng)
7/ Về án phí dân sự sơ thẩm:
Buộc ông Nguyễn Thanh H, bà Nguyễn Thái Phong C1, bà Trần Thị Đ, bà Nguyễn
Thái Phong H1, ông Nguyễn Trần Thái B, bà Nguyễn Thị H2 pH liên đới chịu án phí
không có giá ngạch là 300.000 đồng(Ba trăm nghìn đồng).
Bà Đinh Thị Tuyết M, ông Nguyễn Văn C được miễn toàn bộ án phí do cao
tuổi.
Ông Nguyễn Văn D1 pH chịu án phí dân sự sơ thẩm là 3.069.000 đồng (Ba
triệu không trăm sáu mươi chín nghìn đồng) được khấu trừ vào số tạm ứng án phí ông
Nguyễn Văn D1 đã nộp 300.000 đồng(Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm
ứng án phí số 0005673 ngày 25/04/2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện B, ông
Nguyễn Văn D1 còn pH nộp tiếp số tiền là 2.769.000đồng (Hai triệu bảy trăm sáu
mươi chín nghìn đồng).
10
Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì
người được thi hành án, người pH thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án,
quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án
theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án
được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nguyên đơn bà Đinh Thị Tuyết M, ông Nguyễn Văn C, người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn D1, ông Nguyễn Thanh Tr, bà Phan Thị M có
quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày
tuyên án. Riêng bị đơn ông nguyễn Thanh H người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
bà Nguyễn Thái Phong C1, bà Trần Thị Đ, bà Nguyễn Thái Phong H1, ông Nguyễn Trần
Thái B, bà Nguyễn Thị H2 vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong
hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày niêm yết hoặc tống đạt hợp lệ./.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
-TAND tỉnh E; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và THA)
-VKSND huyện B; Đã ký
-Chi cục THA dân sự huyện B;
-Các đương sự;
-Lưu hồ sơ vụ án.
Lê Thị Thu Hương
Tải về
Bản án số 178/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 178/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 15/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 07/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 04/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 31/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 28/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 23/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 21/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 18/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 17/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 08/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 03/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm