Bản án số 256/2024/DS-PT ngày 18/10/2024 của TAND tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp đất đai
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 256/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 256/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 256/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 256/2024/DS-PT ngày 18/10/2024 của TAND tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp đất đai |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Sóc Trăng |
Số hiệu: | 256/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 18/10/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Thái Thị K- Võ Văn T- Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và công nhận quyền sử dụng đất |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH SÓC TRĂNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 256/2024/DS-PT
Ngày: 18 - 10 - 2024
V/v Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử
dụng đất và công nhận quyền
sử dụng đất
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SÓC TRĂNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Hoàng Thành
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Toàn
Ông Trần Nam Trung
- Thư ký phiên tòa: Bà Đặng Thị Ngọt – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Sóc
Trăng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng tham gia phiên tòa:
Ông Sơn Cươl – Kiểm sát viên.
Trong các ngày 09 và 18 tháng 10 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân
tỉnh Sóc Trăng xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 140/2024/TLPT-DS
ngày 25 tháng 7 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất và công nhận quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 44/2024/DS-ST ngày 13 - 6 - 2024 của Tòa
án nhân dân huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số:187/2024/QĐ-PT ngày
02 tháng 8 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 258/2024/QĐ-PT ngày 22
tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Thái Thị K, sinh năm 1952 (có mặt).
Địa chỉ: Ấp H, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn Ky: Luật sư Trần
Quang T – Văn phòng L1, Đoàn Luật sư tỉnh S (có mặt).
- Bị đơn: Ông Võ Văn T1, sinh năm 1933 (vắng mặt).
Địa chỉ: Ấp H, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng.
Người đại diện theo uỷ quyền của ông Võ Văn T1: Ông Võ Văn C, sinh
năm 1981(Theo giấy uỷ quyền ngày 05/01/2024) (có mặt).
Địa chỉ: Ấp H, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị đơn: Luật sư Lưu Trí D - Văn
2
phòng L2, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh S (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Thái Kim Ê, sinh năm 1928, bà Ê ủy quyền cho bà Thái Thị K.
Địa chỉ: Ấp H, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng.
2. Bà Lê Thị Ú, sinh năm 1974 (vắng mặt).
3. Ông Võ Văn M, sinh năm 1993 (có mặt).
4. Bà Lê Thị L, sinh năm 1985 (vắng mặt).
5. Bà Võ Thị Yến N, sinh năm 2007 (Vắng mặt).
Cùng địa chỉ: Ấp H, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng.
6. Bà Võ Thị S, sinh năm 1970 (có mặt).
7. Ông Võ Văn B, sinh năm 1973 (có mặt).
8. Ông Võ Văn T2, sinh năm 1976 (có mặt).
9. Ông Võ Văn C, sinh năm 1981 (có mặt).
Cùng địa chỉ: Ấp H, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng.
10. Bà Võ Thị T3, sinh năm 1960 (chết ngày 03/7/2024).
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà T3:
10.1. Ông Nguyễn Văn Đ (có mặt).
10.2. Bà Nguyễn Hồng C1 (vắng mặt).
10.3. Bà Nguyễn Hồng T4 (vắng mặt).
10.4. Ông Nguyễn Quốc Đ1 (vắng mặt).
Cùng địa chỉ: Ấp H, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng.
11. Ông Võ Văn T5, sinh năm 1962 (có mặt).
Địa chỉ: Số nhà C A, ấp C, Khóm C, Phường E, thành phố S, tỉnh Sóc
Trăng.
12. Bà Võ Thị T6, sinh năm 1965 (vắng mặt).
Địa chỉ: Ấp Đ, xã V, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.
13. Bà Võ Thị Đ2, sinh năm 1967 (có mặt).
Địa chỉ: Ấp V, xã H, huyện V, tỉnh Bạc Liêu.
14. Ông Võ Văn C2, sinh năm 1977 (vắng mặt).
Địa chỉ: Ấp H, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng.
Người đại diện theo uỷ quyền của bà Võ Thị S, ông Võ Văn B, ông Võ
Văn T2, bà Võ Thị T6, bà Võ Thị Đ2, ông Võ Văn C2 là ông Võ Văn C, sinh
năm 1981 (Theo giấy uỷ quyền ngày 23/01/2024).
Địa chỉ: Ấp H, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng
Người kháng cáo: Bị đơn Võ Văn T1.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo đơn khởi kiện ngày 07/12/2020, trong quá trình giải quyết vụ án và
ti phiên tòa nguyên đơn bà Thái Thị K trình bày:
3
Vào năm 1994, gia đình bà Thái Thị K đại diện là ông Thái Minh S1 là anh
của bà K có mua một thửa đất với hình thức bằng giấy tay loại đất rừng có diện
tích 10.000m
2
với số tiền 3.000.000 đồng của ông Võ Văn T1. Gia đình bà K đã
canh tác phần đất này 26 năm, sau khi ông S1 chết thì bà K là người trực tiếp
canh canh tác phần đất này cho đến nay.
Gia đình bà Thái Thị K có nhu cầu làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
đối với phần đất này nhưng ông Võ Văn T1 không đồng ý tách thửa.
Nay bà Thái Thị K yêu cầu Tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 25/8/1994 giữa ông Thái Minh S1 với ông Võ Văn T1
đối với phần đất theo đo đạt thực tế là 11.748,5m
2
tại thửa số 578, tờ bản đồ số
11, đất tọa lạc ấp H, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng do ông Võ Văn T1 đứng tên
trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Yêu cầu công nhận phần đất theo đo
đạc thực tế là 11.748,5 m
2
tại thửa số 578, tờ bản đồ số 11, đất tọa lạc ấp H, xã H,
huyện M, tỉnh Sóc Trăng là của gia đình bà Thái Thị K theo thỏa thuận mua bán
đất rừng lá ngày 25/8/1994 và buộc ông Võ Văn T1 phải thực hiện thủ tục sang
tên đối với phần đất nêu trên cho gia đình bà theo quy định của pháp luật.
Đối với yêu cầu khởi kiện về việc hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất do ông Võ Văn T1 đứng tên tại thửa số 578, tờ bản đồ số 11, đất tọa lạc
tại ấp H, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng bà Thái Thị K thay đổi không yêu cầu
nữa.
- Theo lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và ti phiên tòa đi diện uỷ
quyền của bị đơn Võ Văn T1 trình bày:
Phần đất bà Thái Thị K yêu cầu ông tách quyền sử dụng đất là do trước đây
vào khoảng năm một ngàn chín trăm chín mươi mấy ông không nhớ rõ ông cho
ông Thái Minh S1 (ông S1 là anh của bà K) ông S1 có nói với ông T1 là cháu của
ông S1 ở nước ngoài sắp rước ông đi nước ngoài nên ông S1 kêu ông T1 để cho
ông S1 10.000m
2
đất lá để ông S1 khai phá nuôi tôm sú, khi nào ông S1 không sử
dụng nữa thì ông S1 trả lại cho ông T1 thì ông T1 trả lại cho ông S1 tiền khai phá
cho ông S1. Sau khi ông T1 cho ông S1 mượn đất được khoảng 10 ngày thì ông
S1 có bán chiếc ghe thì ông S1 có đưa cho ông mượn 3.000.000 đồng, ông T1 có
hỏi ông S1 là phải đến chính quyền làm giấy thì ông S1 trả lời là khỏi, sau đó
khoản 01 năm thì ông S1 đem giấy là ông T1 bán đứt phần đất cho ông S1 với giá
03 triệu đem lại cho ông T1 ký thì ông không ký và ông có xé bỏ, phần tờ giấy
phía bà K cung cấp cho Tòa án “Tờ bán đất rừng đức” ngày 25/8/94 tên Võ Văn
T1 là không phải do ông T1 ký tên.
Nay trước yêu cầu của bà Thái Thị K yêu cầu ông tách quyền sử dụng đất
đối với phần đất nói trên và yêu cầu công nhận cho bà K diện tích 11.748,5m
2
thuộc thửa 578 tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại ấp H, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng
ông không đồng ý. Phần đất này ông vẫn đồng ý để cho gia đình bà K sử dụng
4
đến khi nào gia đình bà K không có nhu cầu sử dụng nữa thì trả lại đất cho ông,
ông sẽ trả lại cho gia đình bà K 3.000.000 đồng và tiền cải tạo đất theo như ông
T1 đã thỏa thuận với ông S1.
- Đối với những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị Ú, ông
Võ Văn M, bà Lê Thị L, bà Võ Thị Yến N, bà Võ Thị S, ông Võ Văn B, ông Võ Văn
T2, bà Võ Thị T3, ông Võ Văn T5 và Võ Thị T6, bà Võ Thị Đ2 và ông Võ Văn C2:
Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra
việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải theo trình tự, thủ tục tống
tụng dân sự nhưng các ông bà vẫn vắng mặt tại các phiên họp kiểm tra việc giao
nộp tiếp cận công khai chứng cứ đồng thời cũng không có ý kiến đối với yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn.
Sự việc được Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng, thụ lý
giải quyết. Tại Bản án sơ thẩm số: 44/2024/DS-ST ngày 13 tháng 6 năm 2024, đã
quyết định: Căn cứ khoản 3, khoản 9 Điều 26; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều
39; khoản 1 Điều 147; điểm c khoản 1 Điều 217, khoản 2 Điều 227; khoản 3
Điều 228; Điều 271; khoản 1,3 Điều 273 và khoản 1 Điều 280 của Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015. Khoản 1 Điều 25; điểm d khoản 1 Điều 25; điểm đ khoản
1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Căn cứ Điều 129; Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015, căn cứ khoản 5 Điều
166; Điều 203 Luật Đất đai năm 2013.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Thái Thị K.
1.1 Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại thửa đất số
578, tờ bản đồ số 11, đất tọa lạc ấp H, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng có diện tích
theo kết quả đo đạc thực tế là 11.748,5m
2
giữa ông Võ Văn T1 và ông Thái Minh
S1. Có số đo tứ cận cụ thể như sau:
+ Hướng Đông giáp đất ông Võ Văn T1 có số đo 134.63m;
+ Hướng Tây giáp đất ông Phan Văn H có số đo 75.94m;
+ Hướng Nam giáp đất ông Võ Văn T1 có số đo 78.80m;
+ Hướng Bắc giáp sông C có số đo 92.21m;
Trên đất có:
+ Căn nhà có diện tích chiều ngang 4,5m chiều dài 10,5m nền lót gch
men, vách tol thiết, đỡ máy sắt sóng vuông, mái tol, cột nhà bằng sắt hộp vuông.
+ Một cây nước giếng khoan.
+ Trên đất có một số cây trồng như: Dừa, me, bch đàn và cây tp.
1.2. Công nhận cho bà Thái Thị K và bà Thái Thị Ê1 thửa đất số 578, tờ
5
bản đồ số 11, đất tọa lạc ấp H, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng có diện tích theo
đo đạc thực tế là 11.748,5m
2
. Bà Thái Thị K và bà Thái Thị Ê1 có nghĩa vụ liên
hệ với cơ quan có thẩm quyền để làm thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất đối với
thửa đất này. Cụ thể: Phần đất thuộc thửa số 578 tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại ấp H,
xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng, có diện tích là 11.748,5m
2
. Có số đo tứ cận cụ
thể như sau:
+ Hướng Đông giáp đất ông Võ Văn T1 có số đo 134.63m;
+ Hướng Tây giáp đất ông Phan Văn H có số đo 75.94m;
+ Hướng Nam giáp đất ông Võ Văn T1 có số đo 78.80m;
+ Hướng Bắc giáp sông C có số đo 92.21m;
Trên đất có:
+ Căn nhà có diện tích chiều ngang 4,5m chiều dài 10,5m nền lót gạch
men, vách tol thiết, đỡ máy sắt sóng vuông, mái tol, cột nhà bằng sắt hộp vuông.
+ Một cây nước giếng khoan.
+ Trên đất có một số cây trồng như: Dừa, me, bạch đàn và cây tạp.
2. Đình chỉ yêu cầu hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của
nguyên đơn bà Thái Thị K đối với phần đất thuộc thửa số 578, tờ bản đồ số 11,
đất tọa lạc tại ấp H, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng do Ủy ban nhân dân huyện M
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Võ Văn T1 ngày 26/9/1993.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng và thông báo quyền
kháng cáo cho các đương sự.
Ngày 27/6/2024 bị đơn Võ Văn T1 có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp
phúc thẩm xét xử hủy toàn bộ Bản án dân sự số 44/2024/DS-ST ngày 13/6/2024
của Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên do vi phạm thủ tục tố tụng về yêu cầu
giám định, đồng thời xác lập quan hệ tranh chấp là hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất là không có căn cứ.
Tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn vẫn giữ nguyên nội dung đơn khởi
kiện, bị đơn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo, các đương sự không thỏa thuận
được với nhau về giải quyết vụ án.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về tính có căn cứ và hợp
pháp của kháng cáo, về việc tuân thủ và chấp hành pháp luật tố tụng của những
người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải
quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm. Đồng thời, phát
biểu quan điểm về nội dung kháng cáo của đương sự và đề nghị Hội đồng xét xử
chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Võ Văn T1, áp dụng khoản 3 Điều 308 Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015 hủy bản án dân sự sơ thẩm với lý do Tòa án cấp sơ
thẩm căn cứ vào Biên bản hòa giải ngày 19/4/2020 của ban N1, xã H 2 để chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không phù hợp vì biên bản trên các
thành viên trong tổ hòa giải không có ký tên vào biên bản chỉ có ông Nguyễn
Ngọc D1, ông Võ Văn T1 và bà Thái Thị K ký tên nên biên bản hòa giải trên là
6
không hợp pháp.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, vụ án được thẩm tra
tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến phát biểu và đề
nghị của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Người có quyền kháng cáo, nội dung và hình thức đơn kháng cáo, thời
hạn kháng cáo của bị đơn Võ Văn T1 là đúng theo quy định tại Điều 271, Điều
272 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự, nên kháng cáo là hợp lệ và đúng
luật định được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Về quyền khởi kiện: Ông Thái Minh S1 là người chuyển nhượng đất
của ông Võ Văn T1. Ngày 05/4/2020 thì ông Thái Minh S1 chết, do ông S1 khi
còn sống không có vợ con và cha mẹ của ông S1 cũng đã chết nên hàng thừa kế
thứ nhất của ông S1 không có; người thừa kế hàng thứ 2 của ông S1 gồm có bà
Thái Thị Ê1 và bà Thái Thị K là chị, em của ông S1 và cũng là người đang trực
tiếp canh tác phần đất này cho đến nay nên bà Thái Thị K có quyền khởi kiện vụ
án.
[3] Xét kháng cáo của bị đơn Võ Văn T1, Hội đồng xét xử xét thấy:
[3.1] Nguyên đơn yêu cầu ông Võ Văn T1 tiếp tục thực hiện hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại thửa 578, tờ bản đồ số 11, diện tích 9.175
m
2
tọa lạc tại ấp H, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng và yêu cầu công nhận cho
nguyên đơn diện tích theo đo đạc thực tế là 11.748,5 m
2
. Vì trước đây vào năm
1994, gia đình bà Thái Thị K đại diện là ông Thái Minh S1 là anh của bà K có
mua một thửa đất với hình thức bằng giấy tay loại đất rừng có diện tích 10.000m
2
với số tiền 3.000.000 đồng của ông Võ Văn T1. Gia đình bà đã canh tác phần đất
này 26 năm, sau khi ông S1 chết thì bà là người trực tiếp canh canh tác phần đất
này cho đến nay.
Gia đình bà Thái Thị K có nhu cầu làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
đối với phần đất này nhưng ông T1 không đồng ý tách thửa cho gia đình bà K.
[3.2] Bị đơn Võ Văn T1 cho rằng vào khoảng năm chín mươi ông không
nhớ rõ ông Thái Minh S1 (ông S1 là anh của bà K) có nói với ông là cháu ông S1
ở nước ngoài sắp rước ông đi nên ông S1 kêu ông T1 để cho ông S1 diện tích
10.000m
2
đất lá cặp sông để ông S1 khai phá nuôi tôm sú, khi nào ông S1 không
sử dụng nữa thì ông S1 trả lại thì ông T1 trả lại cho ông S1 tiền khai phá cho ông
S1. Sau khi ông T1 cho ông S1 mượn đất được khoảng 10 ngày thì ông S1 có bán
chiếc ghe thì ông S1 đưa cho ông mượn 3.000.000 đồng, ông T1 có hỏi ông S1 là
phải đến chính quyền làm giấy thì ông S1 trả lời là khỏi, sau đó khoảng 01 năm
thì ông S1 đem giấy là ông bán đứt phần đất cho ông với giá 3.000.000 đồng đem
lại cho ông T1 ký thì ông T1 không ký và ông có xé bỏ, phần tờ giấy phía bà K
7
cung cấp cho Tòa án “Tờ bán đất rừng đức” ngày 25/8/94 tên Võ Văn T1 là
không phải do ông ký tên. Nay bà Thái Thị K yêu cầu ông tách quyền sử dụng
đất đối với phần đất nói trên và yêu cầu công nhận cho bà K diện tích có diện tích
11.748,5m
2
thuộc thửa 578 tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại ấp H, xã H, huyện M, tỉnh
Sóc Trăng ông không đồng ý. Phần đất này ông vẫn đồng ý để cho gia đình bà K
sử dụng đến khi nào gia đình bà K không có nhu cầu sử dụng nữa thì trả lại đất
cho gia đình ông, ông sẽ trả lại cho gia đình bà K 3.000.000 đồng và tiền cải tạo
đất theo như ông đã thỏa thuận với ông Thái Minh S1.
[4] Các đương sự thống nhất theo kết quả xem xét thẩm định tại chỗ và
định giá tài sản ngày 15 tháng 11 năm 2021 thì phần đất tranh chấp có diện tích là
11.748,5m
2
thuộc thửa số 578 tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại ấp H, xã H, huyện M,
tỉnh Sóc Trăng. Có số đo tứ cận cụ thể như sau:
+ Hướng Đông giáp đất ông Võ Văn T1 có số đo 134.63m;
+ Hướng Tây giáp đất ông Phan Văn H có số đo 75.94m;
+ Hướng Nam giápđất ông Võ Văn T1 có số đo 78.80m;
+ Hướng Bắc giáp sông C có số đo 92.21m;
Trên đất có:
+ Nhà chính diện tích 05m x 10.3m. Kết cấu: Nền đất, vách lá, mái tole
thiếc, đỡ mái gỗ, cột bê tông đúc sẵn.
+ Nhà sau: Có diện tích 4m x 6,2m. Kết cấu: Nền đất, vách lá, mái tole
thiếc, đỡ mái gỗ, cột bê tông đúc sẵn.
+ Một cây nước giếng khoan.
+ Trên có một số cây trồng như: Dừa, me, bạch đàn và cây tạp do nguyên
đơn trồng nhưng nguyên đơn không yêu cầu định giá.
Các đương sự thống nhất với kết quả thẩm định không có ý kiến gì khác.
Trong quá trình giải quyết vụ án thì bà Thái Thị K có xây cất lại căn nhà
(trên nền nhà cũ) cụ thể như sau:
+ Phần căn nhà có diện tích chiều ngang 4,5m chiều dài 10,5m nền lót gạch
men, vách tol thiết, đỡ máy sắt sóng vuông, mái tol, cột nhà bằng sắt hộp vuông.
[5] Đối với “Tờ bán đất rừng đức” ngày 25/8/94: Nguyên đơn bà Thái Thị
K cho rằng chữ viết, chữ ký dưới mục “Người bán đất đức” trên “ Tờ bán đất
rừng đức” ngày 25/8/94 là của ông T1. Xét thấy, bị đơn ông Võ Văn T1 không
thừa nhận chữ ký trên “Tờ bán đất rừng đức” ngày 25/8/94 là của ông T1 và ông
T1 có yêu cầu giám định chữ ký. Ngày 13/3/2023 Tòa án nhân dân huyện Mỹ
Xuyên đã ban hành Quyết định trưng cầu giám định số 02/2023/QĐ-TCGĐ trưng
cầu Phòng K1 Công an tỉnh S thực hiện giám định chữ ký và chữ viết trong “Tờ
bán đất rừng đức” ngày 25/8/94 có phải do ông T1 ký và viết ra hay không. Tại
Công văn số 69/GĐTL-KTHS ngày 27/03/2023 của Phòng K1 Công an tỉnh S về
việc từ chối giám định với nội dung “Chữ ký, chữ viết mẫu so sánh không ổn
8
định, thiếu tự nhiên, không cùng thời điểm với chữ ký, chữ viết trên tài liệu cần
giám định”. Đến ngày 17 tháng 4 năm 2023 nguyên đơn bà Thái Thị K có đơn
yêu cầu giám định chữ ký, chữ viết của ông Võ Văn T1 trên “Tờ bán đất rừng
đức” ngày 25/8/94. Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên đã trưng cầu Phân Viện
khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh để giám định chữ ký và chữ viết
của ông T1 theo yêu cầu của nguyên đơn. Tại Kết luật giám định số 4776/KL-
KTHS ngày 24/8/2023 của Phân viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí
Minh kết luận: không đủ cơ sở kết luận chữ ký, chữ viết dưới mục “Người bán
đất đức” trên tài liệu cần giám định ký hiệu A so với chữ ký, chữ viết đứng tên Võ
Văn T1 trên tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M1 đến M7 có phải hay không phải do
cùng một người ký ra”.
[5.1]Như vậy chưa đủ căn cứ để xác định chữ viết, chữ ký dưới mục
“Người bán đất đức”trên “Tờ bán đất rừng đức” ngày 25/8/94 là do ông Võ Văn
T1 ký.
[5.2] Tuy nhiên, tại biên bản hòa giải ngày 19/4/2020 của Tổ hòa giải ấp H,
xã H, huyện M tỉnh, Sóc Trăng (bút lục 09), Biên bản hòa giải ngày 20/4/2020
(bút lục 11) và Biên bản hòa giải ngày 03/12/2019 (bút lục 14) của Ủy ban nhân
dân xã H thì bị đơn ông Võ Văn T1 trình bày “tôi có sang cho gia đình ông Thái
Văn S2 miếng đất rừng 10.000m
2
giá 3.000.000 đồng giao kèo khi nào ông S2
không canh tác có sang bán li cho người khác phải sang li cho tôi với giá là
3.000.000 đồng các thành quả lao động khác của anh S2 hai bên tính qui ra
thành tiền tôi trả cho ông S2”
[5.3] Từ đó, có căn cứ xác định vào năm 1994 ông Võ Văn T1 có chuyển
nhượng lại cho ông Thái Minh S1 10.000m
2
đất rừng (nay là phần đất đang tranh
chấp thuộc thửa 578 tờ bản đồ tờ bản đồ số 11, đất tọa lạc tại ấp H, xã H, huyện
M, tỉnh Sóc Trăng) vào năm 1994 với giá 3.000.000 đồng là có thật. Do đó lời
trình bày của nguyên đơn về việc ông Võ Văn T1 có chuyển nhượng cho ông
Thái Minh S1 10.000m
2
đất rừng (nay là phần đất đang tranh chấp thuộc thửa 578
tờ bản đồ tờ bản đồ số 11, đất tọa lạc tại ấp H, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng là
có căn cứ.
[5.4] Đối với thửa đất thửa số 578, tờ bản đồ số 11, đất tọa lạc tại ấp H, xã
H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng là đất cấp cho hộ ông Võ Văn T1 theo giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện M cấp ngày 26 tháng 9 năm
1993 việc cá nhân ông Võ Văn T1 thỏa thuận chuyển nhượng cho ông S1 là chưa
đúng theo quy định. Tuy nhiên theo lời trình bày của ông Võ Văn C là người đại
diện theo ủy quyền của ông T1 “ Việc ông T1 chuyển nhượng đất cho ông S1 các
thành viên trong hộ đều biết và số tiền có từ việc chuyển nhượng đất này được sử
dụng chung cho các thành viên trong hộ” Như vậy, những người trong hộ ông
Võ Văn T1 biết rõ việc ông T1 chuyển nhượng phần đất đang tranh chấp này
nhưng không có ý kiến phản đối và số tiền có từ việc chuyển nhượng đất này đã
9
được sử dụng chung cho hộ ông T1 nên được xem là đồng ý việc chuyển nhượng.
[5.5] Theo thỏa thuận giữa ông Võ Văn T1 và ông Thái Minh S1 thì phần
đất ông T1 chuyển nhượng cho ông S1 là 10.000m
2
. Theo kết quả đo đạc thực tế
thì thửa số 578 tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại ấp H, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng
có diện tích là 11.748,5m
2
. Như vậy diện tích đất nguyên đơn đang sử dụng lớn
hơn diện tích mà các bên đã thỏa thuận là 1.748,5m
2
. Tuy nhiên, sau khi ông T1
chuyển nhượng đất cho ông S1 thì ông T1 đã giao phần đất này cho ông S1, giữa
các bên có xác định ranh đất cụ thể và gia đình ông S1 đã khai phá và sử dụng
phần đất này đúng ranh giới mà ông T1 đã giao cho gia đình ông S1 và hiện hai
thửa (có cọc ranh cụ thể). Do đó, cần công nhận diện tích theo đo đạc thực tế là là
11.748,5m
2
.
[5.6] Mặc dù việc chuyển nhượng giữa các bên chưa tuân thủ về hình thức
nhưng tại thời điểm giao dịch đất thửa đất số 578, tờ bản đồ số 11, đất tọa lạc tại
ấp H, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng hộ ông T1 đã được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất là đủ điều kiện chuyển nhượng, ông T1 đã giao đất cho ông
S1, ông S1 đã giao đủ số tiền 3.000.000 đồng cho ông T1. Từ đó căn cứ vào Điều
129 Bộ luật Dân sự năm 2015 công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất nói trên giữa ông T1 và ông S1.
[5.7] Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ án ông Võ Văn T1 trình bày là
phần đất trên cho ông Thái Minh S1 mướn sử dụng, nhưng tại phiên tòa phúc
thẩm thì người đại diện cho ông T1 lại cho rằng phần đất trên ông T1 cố cho ông
S1, cố không thỏa thuận thời gian chuộc lại đất. Phần đất trên gia đình nguyên
đơn đã sử dụng từ năm 1994 đến nay và trên đất đã xây dựng nhà, trồng cây ăn
trái nhưng gia đình bị đơn cũng không có ý kiến gì.
[5.8] Từ những phân tích như trên Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu
của nguyên đơn công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
25/8/1994 tại thửa số 578, tờ bản đồ số 11, đất tọa lạc ấp H, xã H, huyện M có
diện tích theo kết quả đo đạc thực tế là 11.748,5m
2
giữa ông Võ Văn T1 và ông
Thái Minh S1. Công nhận cho bà Thái Thị K và bà Thái Thị Ê1 thửa đất số 578,
tờ bản đồ số 11, đất tọa lạc ấp H, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng có diện tích theo
đo đạc thực tế là 11.748,5m
2
là có căn cứ.
[6] Đối với yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Thái
Thị K trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Thái Thị K có đơn rút lại
yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy Hội đồng xét xử áp dụng
điểm c khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự đình chỉ đối với yêu cầu hủy
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của nguyên đơn bà Thái Thị K.
[7] Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử quyết định không chấp nhận
kháng cáo của ông Võ Văn T1, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.
[8] Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí dân
10
sự phúc thẩm theo quy định, nhưng ông T1 là người cao tuổi có yêu cầu miễn án
phí nên căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu,
miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Ông T1 được
miễn không phải nộp.
[9] Đề nghị của Luật sư bảo vệ quyền, lợi ích hợp cho bị đơn là không có
căn cứ nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.
[10] Xét đề nghị của Kiểm sát viên Hội đồng xét xử xét thấy: Tòa án cấp
sơ thẩm căn cứ vào Biên bản hòa giải ngày 19/4/2020 của ban N1, xã H để chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, tuy biên bản hòa giải trên các thành viên
của tổ hòa giải không có ký tên nhưng có Nguyễn Ngọc D1, là Tổ trưởng tổ hòa
giải ký tên và ông Võ Văn T1 cùng bà Thái Thị K ký tên, nên biên bản hòa giải
trên là có giá trị pháp lý, ngoài biên bản hòa giải của ấp H thì Ủy ban nhân dân xã
H cũng tiến hành hòa giải 02 lần vào ngày 20/4/2020 và ngày 03/12/2019. Trong
quá trình xét xử Tòa án cấp phúc thẩm đã tiến hành xác minh đối với các thành
viên tổ hòa giải ấp H theo biên bản hòa giải ngày 19/4/2020. Do đó, Kiểm sát
viên đề nghị hủy bản án dân sự sơ thẩm giao hồ sơ về cho cấp sơ thẩm xét xử lại
theo thủ tục chung là không cần thiết nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.
[11] Các phần khác được nêu trong phần quyết định của bản án sơ thẩm
không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn
kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, điểm đ
khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Không chấp kháng cáo của bị đơn ông Võ Văn T1.
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 44/2024/DS-ST ngày 13 tháng 6
năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng, như sau:
Căn cứ khoản 3, khoản 9 Điều 26; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39;
khoản 1 Điều 147; điểm c khoản 1 Điều 217, khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều
228; Điều 271; khoản 1,3 Điều 273 và khoản 1 Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015. Khoản 1 Điều 25; điểm d khoản 1 Điều 25; điểm đ khoản 1 Điều
12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Căn cứ Điều 129; Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015.
11
Căn cứ khoản 5 Điều 166; Điều 203 Luật Đất đai năm 2013.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Thái Thị K.
1.1. Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại thửa đất số
578, tờ bản đồ số 11, đất tọa lạc ấp H, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng có diện tích
theo kết quả đo đạc thực tế là 11.748,5m
2
giữa ông Võ Văn T1 và ông Thái Minh
S1. Có số đo tứ cận cụ thể như sau:
+ Hướng Đông giáp đất ông Võ Văn T1 có số đo 134.63m;
+ Hướng Tây giáp đất ông Phan Văn H có số đo 75.94m;
+ Hướng Nam giáp đất ông Võ Văn T1 có số đo 78.80m;
+ Hướng Bắc giáp sông C có số đo 92.21m.
1.2. Công nhận cho bà Thái Thị K và bà Thái Thị Ê1 thửa đất số 578, tờ
bản đồ số 11, đất tọa lạc ấp H, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng có diện tích theo
đo đạc thực tế là 11.748,5m
2
. Bà Thái Thị K và bà Thái Thị Ê1 có nghĩa vụ liên
hệ với cơ quan có thẩm quyền để là thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất đối với
thửa đất này. Có tứ cận:
+ Hướng Đông giáp đất ông Võ Văn T1 có số đo 134.63m;
+ Hướng Tây giáp đất ông Phan Văn H có số đo 75.94m;
+ Hướng Nam giáp đất ông Võ Văn T1 có số đo 78.80m;
+ Hướng Bắc giáp sông C có số đo 92.21m;
Trên đất có:
+ Căn nhà có diện tích chiều ngang 4,5m chiều dài 10,5m nền lót gạch
men, vách tol thiết, đỡ máy sắt sóng vuông, mái tol, cột nhà bằng sắt hộp vuông.
+ Một cây nước giếng khoan.
+ Trên đất có một số cây trồng như: Dừa, me, bạch đàn và cây tạp.
2. Đình chỉ yêu cầu hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của
nguyên đơn bà Thái Thị K đối với phần đất thuộc thửa số 578, tờ bản đồ số 11,
đất tọa lạc tại ấp H, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng do Ủy ban nhân dân huyện M
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Võ Văn T1 ngày 26/9/1993.
3. Về chi phí xem xét thẩm định tại chổ và định giá tài sản: Chi phí xem
xét thẩm định tại chổ và định giá tài sản là 10.570.000 đồng bị đơn ông Võ Văn
T1 phải chịu. Do nguyên đơn bà Thái Thị K đã nộp 10.570.000 đồng, nên ông Võ
Văn T1 phải có nghĩa vụ nộp trả lại cho bà Thái Thị K số tiền 10.570.000 đồng.
4. Về chi phí giám định giám định chữ ký: Chi phí giám định chữ ký là
5.000.000 đồng nguyên đơn bà Thái Thị K phải chịu bà K đã nộp xong.
5. Về án phí dân sự sơ thẩm:
5.1. Nguyên đơn bà Thái Thị K không phải chịu án phí.
12
5.2. Bị đơn ông Võ Văn T1 được miễn không phải nộp.
6. Án phí dân sự phúc thẩm: Bị đơn Võ Văn T1 được miễn không phải
nộp, hoàn trả cho ông T1 số tiền 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu tiền số
0005559 ngày 08/7/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Xuyên, tỉnh
Sóc Trăng.
7.Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án có
quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a và Điều 9
Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
8. Bản án này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Sóc Trăng;
- TAND TP. Sóc Trăng;
- Chi cục THADS TP. Sóc Trăng;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Hoàng Thành
13
14
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC
THẨM
- VKSND tỉnh Sóc Trăng; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN
TÒA
- TAND huyện Mỹ Xuyên;
- Chi cục huyện Mỹ Xuyên;
- Các đương sự;
- Lưu HS (TDS).
Nguyễn Hoàng Thành
Tải về
Bản án số 256/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 256/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 15/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 07/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 07/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 04/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 31/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 28/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Bản án số 178/2024/DS-ST ngày 24/10/2024 của TAND huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre về tranh chấp đất đai
Ban hành: 24/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm